Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

BÀI BÁO CÁOTÌM HIỂU VỀ SNPTÌM HIỂU VỀ SNP(SINGLE NUCLEOTIDE POLYMORPHISMS)(SINGLE NUCLEOTIDE POLYMORPHIS)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (473.43 KB, 14 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ 
VIỆN NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ SINH HỌC
----------------------------------

BÀI BÁO CÁO
TÌM HIỂU VỀ SNP
(SINGLE NUCLEOTIDE POLYMORPHISMS)

CÁN BỘ GIẢNG DẠY: GS.TS NGUYỄN THỊ LANG
VIỆN LÚA ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
NHÓM HỌC VIÊN THỰC HIỆN: NHÓM 5
LỚP: CAO HỌC CNSH K19

1


Cần Thơ, tháng
tháng 10 năm 2012
SNP (SINGLE NUCLEOTIDE POLYMORPHISMS)
I. GIỚI THIỆU VỀ SNP
- SNPs (đọc là snip) được viết tắt từ chữ Single
Single Nucleo
Nucleotid
tidee
Polymorphisms,
Polymorphisms, có nghĩa là các dạng đa hình của nucleotide đơn. Marker này
thường được dùng để phân tích genome người, hiện nay được áp dụng cho genome
của nhiều sinh vật khác với số lượng lớn nhất từ trước đến nay, nhờ một đột biến
điểm tại một nucleotide trên genome (hình 1).

Hình 1: Một đột biến điểm xảy ra dẫn đến thay thế một cặp nucleotide G – 


C bằng A – T hoặc ngược lại tạo ra một SNP.
- Đa hình đơn nucleotide, hoặc SNPs là những biến thể trình tự DNA xảy ra
khi một đơn nucleotide (A, T, C, hoặc G) trong trình tự bộ gen bị thay đổi. Ví dụ
một SNP có thể thay đổi trình tự DNA GGCTAA A đến A GGCTAA T. Đối với
một biến thể được coi là một SNP, nó phải xảy ra trong ít nhất 1% dân số. SNPs,
tạo nên khoảng 90% của tất cả các biến thể di truyền của con người, xảy ra mỗi
100 đến 300 căn cứ dọc theo hệ gen của con người 3-tỷ-base. Hai trong số ba mỗi
SNPs liên quan đến sự thay thế của cytosine (C) với thymine (T). SNPs có thể xảy
2


ra trong khu vực của bộ gen mã hóa (gen) và không mã hoá. Nhiều người SNPs
không có ảnh hưởng đến chức năng tế bào, nhưng các nhà khoa học tin rằng
những người khác có thể predispose người bệnh hoặc ảnh hưởng đến phản ứng của
họ với một loại thuốc.
- SNPs diễn ra bình thường trong suốt DNA của một người. Trung bình xảy
ra một lần trong mỗi 300 nucleotide, có nghĩa là có khoảng 10 triệu SNPs trong hệ
gen của con người. Thông thường nhất, những biến thể này được tìm thấy trong
DNA giữa các gen. Nó được xem như là đánh dấu sinh học, các nhà khoa học giúp
xác định vị trí các gen liên quan đến bệnh. Khi SNPs xảy ra trong gen hoặc trong
một khu vực gần một gen quy định, nó có thể có vai trò trực tiếp đến sự xuất hiện
 bệnh bằng cách ảnh hưởng đến chức năng của gen.
- Mặc dù hơn 99% trình tự ADN của con người đều giống nhau, sự thay đổi
trong chuỗi DNA có thể có tác động lớn đến việc làm thế nào con người bệnh, các
yếu tố môi trường, chẳng hạn như vi khuẩn, virus, độc tố, các hóa chất, các loại
thuốc và các liệu pháp điều trị khác. Điều này làm cho SNPs có giá trị cho nghiên
cứu y sinh học và phát triển các sản phẩm dược phẩm hoặc chẩn đoán y khoa.
SNPs cũng tiến hóa ổn định, không thay đổi nhiều từ thế hệ này sang thế hệ khác
làm cho chúng ta dễ dàng hơn khi nghiên cứu dân số.
- SNP là những biến dạng của chuỗi DNA được tìm thấy với tần suất cao

trong genome người (Taillon – Miller và ctv. 1998). Chúng ta có thể sử dụng SNP
marker để phân lập các yếu tố di truyền có liên quan đến tính trạng bệnh lý vô
cùng phức tạp (Taillon – Miller và ctv. 1999). Người ta có thể dự đoán 100.000
hoặc nhiều hơn nữa SNP marker (trong quãng 30-kb, hoặc 5 marker cho một gen)
trong genome người (Collins và ctv. 1997). Những phương pháp đánh giá kiểu gen
với kết quả cao đòi hỏi một kiến thức về chuỗi trình tự rất chính xác của SNP. Do
đó, bất cứ công bố nào về SNP phải hàm chứa hai nội dung:
(1)

Xác định chuỗi trình tự DNA.

(2)

Tần số alen.
Đây là một kỹ thuật được áp dụng vào đầu những năm 2000, từ genome người
đến genome các loài sinh vật khác như cây  Arabidopsis, cây lúa (Oryza sativa L.),

3


II. PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH SNP
- Có hai phương pháp để tạo ra SNP, một là dùng trực tiếp mã trình tự di
truyền và thứ hai là phân biệt các đột biến điểm thông qua dùng tách sắc ký lỏng
(DHPLC). Thông thường dùng primer để thiết kế mã trình tự và các đoạn khuyết
đại khoảng 500 cặp base. Chúng ta có thể dùng phương pháp PCR tách hai cá thể
và trộn các cá thể này chung, sau đó đun nóng và lai để thành lập các dulex tương
đồng và dị biệt. Các bước để phân tích axit nucleic bằng SNP như sau:
+ Phân lập DNA nền
+ Chọn lựa primer và thiết kế primer để cho khuếch đại trong PCR 
+ Tách SNP trên bước sóng tương thích (DHPLC)

( DHPLC)
+ Phối hợp số liệu, mã trình tự DNA và cloning
- Theo phân tích chi tiết chuỗi trình tự của những phần nào đó trong
genome, những trình tự DNA này từ hai cá thể khác nhau phần lớn đều giống
nhau, với số cặp base khác biệt nhau nằm trong khoảng cho phép 500 – 1000bp.
Một cặp base ở tại vị trí nào đó biểu thị sự khác nhau của cá thể có tính chất rất
 phổ biến và một cặp base khác là “variant” ít phổ biến hơn ở cùng một vị trí. Nếu
cặp base có tính chất ít phổ biến hơn xuất hiện xuất hiện với xác suất nhỏ hơn 1%
trong quần thể, người ta định nghĩa vị trí của cặp base đó là vị trí một SNP. Hiện
nay, người ta công bố 3.000.000 SNP trong genome người (Rusell 2002), nhiều
hơn bất cứ DNA marker đã được công bố trước đó. Kiểu đa hình như vậy vô cùng
quan trọng trong di truyền người vì chúng đại diện cho hơn 98% tất cả đa hình
DNA. Các alen của một SNP có thể dễ dàng được xem xét bởi phân tích lai với
 phân tử oligonucleotide nào đó.
+ Trong quy trình này, một đoạn dò (probe) ngắn hay đoạn oligonucleotide
(gọi là phân tử oligo) chứa khoảng 25bp được tổng hợp sao cho nó sẽ bổ sung vào
alen phổ biến tại locus SNP. Phân tử DNA này được trộn với DNA mục tiêu và
tiến trình lai được hoàn chỉnh ở mức độ cực kỳ chính xác ( high stringency). Điều
này có nghĩa là mọi điều kiện ở đây phải thuận lợi cho sự lai giữa probe và DNA.
+ Khi hiện tượng lai xảy ra, DNA mục tiêu sẽ có alen phổ biến ( common
allene).

Dưới những điều kiện cực kỳ chính xác trong sự kiện “matching” (cặp
4


 base tương ứng bắt cặp với nhau, phân tử oligo sẽ không lai với DNA mục tiêu có
một cặp base nào đó bị thay đổi – một SNP (hình 2).
Phân tử lai ổn định với từng
cặp base hoàn toàn tương ứng


Oligonucleotide

G C C A T T A A GT C T T C A T C C C T A
C GG T A A T T C A G AA GT A GG G A T

DNA mục tiêu

SNP
Mismatch: làm cho cặp base
không hình thành được

Một cặp base không tương
ứng, hydrid không ổn định
G C C A T T A A GT

C

TT CAT CCC T A

C GG T A A T T C AC AA GT A GG G A T

Hình 2: Phân tích lai oligonucleotide tạo ra một SNP. Một oligonucleotide
có tính chất bổ sung hoàn toàn đối với alen bình thường, nó được lai với DNA mục
tiêu dưới điều kiện tối ưu có tính chất “fullmatch” (bắt cặp base hoàn toàn tương
xứng) giữa probe và DNA. Khi sự kiện lai xảy ra, DNA mục tiêu có alen bình
thường, nhưng khi sự kiện lai không xảy ra, DNA mục tiêu có base trong tình
trạng “mismatch”, người ta gọi đó là một đa hình của SNP.
SNP.
- Việc tạo ra phản ứng cùng một lúc hàng trăm SNP có thể được thực hiện

nhờ sử dụng “DNA
“DNA microarray”,
microarray”, còn được gọi là DNA chips,
chips, GeneChips arrays
(thương hiệu của Affmetrix, Inc) và oligonucleotide arrays.
arrays. Microarray có khả
năng đọc biết 100.000 hoặc nhiều hơn nữa phân tử DNA trên một diện tích 3,6cm 2
(hình 3).
+ DNA microarray là kỹ thuật sắp xếp và phối hợp phân tử bao gồm các
đoạn DNA và protein cho lai với những phân tử probe trong thư viện DNA được
sắp xếp theo matrix. Kỹ thuật DNA microarray nhằm mục đích tìm hiểu sự thể
5


hiện gen, mức độ đa dạng nguồn di truyền,
truyền, bản đồ gen, phân tích biến động trong
gen.
+ DNA microarray được hiểu một cách đơn giản là sắp xếp một cách thứ tự
hàng nghìn đơn vị phân tử DNA probe với trình tự giống nhau. Chúng được cố
định trên một tấm kính hoặc trên màng nylon.

Hình 3: Xác định đa hình nucleotide đơn bằng kỹ thuật microarray.
* Lịch sử ra đời của kỹ thuật microarray:
Vào cuối những năm 1960, Pardue & Gall; Jones & Roberson đã tìm ra
 phương pháp lai in situ có sử dụng mẫu dò đánh dấu huỳnh quang, FISH.
FISH. Phương
 pháp cố định các nhiễm sắc thể và nhân trên phiến kính (sao cho DNA tạo thành
mạch kép với mẫu dò) ngày nay được sử dụng để đặt DNA lên phiến kính trong
 phương pháp microarray.
microarray. Vào thời gian này,

này, hoá học hữu cơ cũng phát triển, cho
 phép tổng hợp tự động các mẫu dò oligonucleotide vào năm 1979.
Kỹ thuật phân tích sử dụng phương pháp gắn đồng thời nhiều trình tự đích
lên một bộ lọc hay màng theo thứ tự, phương pháp thấm điểm (dot blot), được
Kafatos và cộng sự (1979) đưa ra. Với kỹ thuật này, các trình tự đích được cố định
trên vật đỡ và lai với mẫu dò (thường là trình tự axit nucleic đã đánh dấu). Saiki và
6


cộng sự (1989) đưa ra một cách khác, dot blot ngược, trong đó gắn nhiều mẫu dò
theo thứ tự trên màng và đích để phân tích được đánh dấu. Cùng thời gian này, các
array đầu tiên với giá thể không thấm nước được tạo ra trong phòng thí nghiệm
của Maskos (1991). Đầu những năm 1990, kỹ thuật đánh dấu phát huỳnh quang đa
màu được Ried và cộng sự; Balding & Ward
Ward giới thiệu.
Vào năm 1993, array chứa các oligonucleotide ngắn, dưới 19 nucleotide
được tổng hợp in situ.
situ. Năm 1994, Hoheisel và cộng sự tăng mật độ chấm (spot)
 bằng cách dùng robot để lấy và đặt mẫu dò lên giá thể. Phương pháp tự động hoá
h oá
này làm tăng tốc độ quá trình, giảm các sai sót chắc chắn mắc phải khi thực hiện
những thủ tục có tính lặp lại cao bằng tay, và tăng tính chính xác vị trí, tăng tính
đồng hình của các spot mẫu.


Tất cả các thí nghiệm tiên phong ở trên là cơ sở của kỹ thuật array hiện

nay. Người ta đánh giá rằng, kỹ thuật này có thể sẽ phát triển đến mức chỉ vài năm
nữa có thể so sánh nó với kỹ thuật PCR không
PCR không thể thiếu trong sinh học hiện nay.

* Trình
Trình tự thực hiện microarray được mô tả như sau:
(1) Thực hiện công việc in các slide, chạy PCR, thiết lập chương trình đảm
 bảo chất lượng sản phẩm PCR, làm tinh
tinh khiết sản phẩm PCR.
(2) Sao chép microarray thông qua hệ một thống tự động, tạo ra hồ sơ chi
tiết và chuẩn bị gen.
(3) Thực hiện lai DNA với probe, trong đó người ta cần phải ly trích RNA
để nhuộm với Cy3 và Cy5.
(4) Thực hiện việc chụp hình thông qua máy “scanner” và phân tích số liệu.
Thí nghiệm trong DNA microarray cần có những probe và DNA mục tiêu,
trong đó, probe là những phân tử DNA cố định trên chip bằng thủy tinh hoặc
silicon, chúng chưa được đánh dấu, nhưng DNA mục tiêu đã được đánh dấu mà
nồng độ của nó sẽ được phân tích. Vì vậy, người ta sử dụng một chip tên gọi là
“probe array”.
array”. Huỳnh quang được sử dụng để đánh dấu là “florescein
“florescein”” hoặc
“cyanine”,
cyanine”, đó là phẩm màu Cy3 có màu xanh lá cây và phẩm màu Cy5 có màu đỏ.
Dấu hiệu đánh dấu bằng microarray chúng ta phải dùng hai chất màu nhuộm
 phổ biến là Cy3 và Cy5. Các chất nhuộm này thường là dUTP hoặc dCTP.
dCTP. Cy3
7


cho màu vàng cam với ánh sáng hấp thu tối thiểu 50nm và tối đa 581nm. Cy5 cho
màu đỏ với ánh sáng hấp thu tối thiểu là 649nm và tối đa là 670nm.
Kết quả hình ảnh sẽ thể hiện các gen mục tiêu được nhận biết trong matrix.
 Nếu mã microarray biểu hiện có gen mục tiêu, kết quả dương tính. Ngược lại,
 phản ứng sẽ âm tính (không có kết quả lai với probe).


Hình 4: Quy trình của microarray.
microarray.
 Nhiều kỹ thuật đã được nghiên cứu để tạo ra SNP theo kiểu tự động hóa với
sự giúp đỡ của computer (Wang và ctv. 1998). Những kỹ thuật đó là: EST
Sequence Data, EST Assembly với phần mềm chuyên trách, phương pháp đánh giá
kiểu gen thông qua thiết kế mồi (primer) cho PCR và GBA theo phần mềm GBA primer1.1, phương pháp xác định SNP bằng kỹ thuật đọc chuỗi trình tự
 pyrophosphate DNA vào thời điểm thích hợp (Alderborn và ctv.
ctv. 2000)
III. TÍNH CHẤT CỦA SNP
- SNP có tính chất “diallelic” trong quần thể và tần số alen của nó có thể
được ước đoán dễ dàng trong bất cứ quần thể nào, thông qua một loạt xét nghiệm
kỹ thuật (Kwor và ctv.
ctv. 1994).
- SNP là những marker có tính ổn định rất cao về mặt di truyền.
8


- Là sản phẩm của PCR.
- Được tìm thấy với tần suất cao nhất trong genome người.
- Độ đa dạng cao.
IV. ỨNG DỤNG VÀ TRIỂN VỌNG CỦA SNPs
1. SNPs bản đồ
- Người ta đã phát hiện một chiến lược nghiên cứu giúp cho việc phát hiện
nhanh chóng những SNP từ số liệu lưu trữ EST (Expressed Sequence Tag)
Tag) (Picuolt
 – Newberg và ctv. 1999). Sự kiện phát triển in vitro nhằm khuếch đại những trình
tự ở vị trí đặc biệt, ví dụ như PCR và khám phá marker có tính đa hình và có thông
tin di truyền cao như microsatallite, STR (short tandem repeat), sự kiện như vậy đã
và đang tạo điều kiện thuận lợi để chúng ta sáng tạo ra những bản đồ di truyền có

mật độ thấp (lom density maps) của người, ứng dụng có hiệu quả trong lĩnh vực y
khoa, thí dụ xét nghiệm bệnh u xơ, bệnh Huntington, bệnh tiểu đường, …
(Broman và ctv.
ctv. 1998).
- Các nhà khoa học tin rằng SNP bản đồ sẽ giúp họ xác định được nhiều gen
liên quan với các bệnh phức tạp như ung thư, bệnh tiểu đường, bệnh mạch máu, và
một số hình thức của bệnh tâm thần.
- Một vài nhóm làm việc để tìm SNPs và cuối cùng tạo ra SNP bản đồ hệ
gen của con người. Trong số đó là Mỹ Human Genome Project (HGP) và một
nhóm lớn của các công ty dược phẩm được gọi là SNP Consortium, dự án TSC.
Khả năng trùng lặp giữa các nhóm
nhó m nhỏ là khó xảy ra vì có khoảng 3 triệu SNPs, và
 phần thưởng tiềm năng của một bản đồ SNP
SNP là cao.
- Ngoài ý nghĩa nghiên cứu pharmacogenomic trong chẩn đoán, y sinh học,
SNP bản đồ còn giúp để xác định hàng ngàn các dấu hiệu bổ sung trong bộ gen, do
đó hướng nghiên cứu của bản đồ bộ gen là rất lớn.
2. Làm thế nào SNPs có thể được sử dụng như là yếu tố nguy cơ phát
triển bệnh?
- SNPs không gây bệnh, nhưng nó có thể giúp xác định khả năng rằng ai đó
sẽ phát triển một căn bệnh cụ thể. Một trong những gen liên quan với bệnh
Alzheimer,
Alzheimer, apolipoprotein E hoặc APOE, là một ví dụ tốt về cách SNPs ảnh hưởng
đến sự phát triển của bệnh apoE  chứa hai SNPs mà kết quả trong ba alen có thể
9


cho gen này: E2, E3, E4. Mỗi allele khác nhau bởi một cơ sở DNA, và các sản
 phẩm protein của mỗi gen sẽ khác bởi một amino
amino axit.

- Mỗi cá nhân được thừa hưởng một bản sao mẹ của  APOE  và một bản sao
nội của  APOE. Nghiên cứu cho thấy rằng một người được thừa hưởng ít nhất một
E4 allele sẽ có một cơ hội lớn để phát triển bệnh Alzheim
Alzheimer
er.. Rõ ràng, sự thay đổi
của một amino acid trong các protein E4 làm thay đổi cấu trúc và chức năng của
 protein và có nhiều khả năng để làm cho bệnh phát triển. Nếu một người kế thừa
allele E2 thì ít có khả năng phát triển bệnh Alzheimer.
Alzheimer.
- Tất nhiên, SNPs không phải là chỉ số tuyệt đối của sự phát triển của bệnh.
Một người nào đó đã được thừa hưởng hai alen E4 không bao giờ có thể phát triển
 bệnh Alzheimer,
Alzheimer, trong khi một người đã được thừa hưởng hai alen E2 có thể.
 APOE  chỉ

là một gen có liên quan đến bệnh Alzheimer. Giống như các rối loạn

mãn tính như bệnh tim, tiểu đường, hoặc ung thư phổ biến nhất, bệnh Alzheimer là
một bệnh có thể được gây ra bởi các biến thể trong một vài gen.
- Hầu hết các SNPs không có ảnh hưởng đến sức khỏe hoặc sự phát triển.
Một số những khác biệt di truyền đã được chứng minh là rất quan trọng trong việc
nghiên cứu về sức khỏe con người. Các nhà nghiên cứu đã tìm thấy SNPs có thể
giúp dự đoán phản ứng của một cá nhân với một số loại thuốc nhất định, nhạy cảm
với các yếu tố môi trường như chất độc, và nguy cơ phát triển các bệnh cụ thể.
SNPs cũng có thể được sử dụng để theo dõi các thừa kế của các gen bệnh trong gia
đình. Nghiên cứu trong tương lai sẽ làm việc để xác định SNPs liên kết với các
 bệnh phức tạp như bệnh tim, tiểu
tiểu đường và ung thư.
- Nhiều loại bệnh phổ biến ở người không được gây ra bởi một biến thể di
truyền trong một gen duy nhất, nhưng bị ảnh hưởng bởi các tương tác phức tạp

giữa nhiều gen cũng như các yếu tố môi trường và lối sống.
- Mặc dù các yếu tố môi trường và lối sống có ảnh hưởng đến sự phát triển
một căn bệnh, đây là khó khăn để đo lường và đánh giá hiệu quả tổng thể của họ
về quá trình bệnh. Vì vậy,
vậy, tiềm năng của một cá nhân để phát triển một bệnh dựa
trên gen và các yếu tố di truyền.
- Yếu tố di truyền cũng có thể trao nhạy cảm hoặc kháng bệnh và xác định
mức độ nghiêm trọng hoặc tiến triển của bệnh. Bởi vì chúng ta vẫn chưa biết được
10


tất cả các yếu tố liên quan ở trong những đường phức tạp, các nhà nghiên cứu đã
tìm thấy nó khó khăn để phát triển các xét nghiệm sàng lọc cho hầu hết các bệnh
và các rối loạn. Bằng cách nghiên cứu mối liên quan của SNP với một đặc điểm
 bệnh, các nhà nghiên cứu đã phát hiện các gen có liên quan với một căn bệnh. Xác
định và hiểu biết về vai trò của yếu tố di truyền trong bệnh cũng sẽ cho phép các
nhà nghiên cứu đánh giá tốt hơn vai trò của yếu tố di truyền, chẳng hạn như hành
vi, chế độ ăn uống, lối sống, và hoạt động thể chất có trên bệnh.
- Bởi vì yếu tố di truyền cũng ảnh hưởng đến phản ứng của một người điều
trị bằng thuốc, đa hình DNA chẳng hạn như SNPs sẽ là hữu ích trong việc giúp
các nhà nghiên cứu xác định và hiểu lý do tại sao các cá nhân khác nhau trong khả
năng của mình có thể hấp thụ các loại thuốc nhất định, cũng như để xác định lý do
tại sao một cá nhân có thể trải nghiệm một tác dụng phụ bất lợi cho một loại thuốc
cụ thể. Vì vậy, việc phát hiện gần đây của SNPs hứa hẹn mang đến một cuộc cách
mạng không chỉ là quá trình phát hiện bệnh nhưng thực tế thuốc phòng ngừa và
chữa bệnh.
3. SNPs và chẩn đoán bệnh:
- Vật liệu di truyền của mỗi người có một mô hình SNP độc đáo được tạo
thành nhiều biến thể di truyền khác nhau. Các nhà nghiên cứu đã tìm thấy rằng hầu
hết các SNPs không chịu trách nhiệm cho một bệnh tật nào. Thay vào đó, nó như

là các dấu hiệu sinh học để xác định chính xác một căn bệnh trên bản đồ hệ gen
của con người, bởi vì nó thường nằm gần một gen được tìm thấy có liên quan đến
một căn bệnh nào đó. Thỉnh thoảng, một SNP thực sự có thể gây ra một căn bệnh,
và do đó, có thể được sử dụng để tìm kiếm và cô lập các gen gây bệnh.
Để tạo một thử nghiệm di truyền, gen gây bệnh nào đó đã được xác định bởi
các nhà khoa học thu thập mẫu máu từ một nhóm các cá nhân bị ảnh hưởng bởi
căn bệnh này và phân tích DNA của họ cho các mẫu SNP. Tiếp theo, các nhà
nghiên cứu so sánh các mô hình với các mẫu thu được bằng cách phân tích ADN
từ một nhóm các cá nhân không bị ảnh hưởng bởi căn bệnh này. Loại so sánh này,
được gọi là "Hiệp hội nghiên cứu", có thể phát hiện sự khác biệt giữa các mô
hình
hình SNP của hai nhóm, qua đó cho thấy đó là mô hình rất có thể liên quan
quan với
gen gây bệnh. Cuối cùng, hồ sơ SNP là đặc trưng của nhiều loại bệnh khác sẽ được
11


thành lập. Sau đó, chỉ là vấn đề thời gian, các bác sĩ có thể xác định một người có
thể nhạy cảm với một căn bệnh nào đó chỉ bằng cách phân tích các mẫu DNA của
họ cho mô hình cụ thể SNP.
4. Phát triển SNPs và dược:
- Như đã đề cập trước đó, SNPs cũng có thể được kết hợp với độ hấp thụ và
giải phóng mặt bằng của các đại lý trị liệu. Hiện nay, không có cách nào đơn giản
để xác định làm thế nào một bệnh nhân sẽ đáp ứng với một loại thuốc cụ thể. Một
điều trị đã được chứng minh có hiệu quả trong một bệnh nhân nhưng có thể không
có hiệu quả ở những người khác. Tệ hơn nữa, một số bệnh nhân có thể trải qua
một phản ứng miễn dịch bất lợi của một loại thuốc cụ thể.
- Trong tương lai, các loại thuốc thích hợp nhất cho một cá nhân có thể được
xác định trước điều trị bằng cách phân tích hồ sơ SNP của bệnh nhân. Mục tiêu là
tạo một loại thuốc có khả năng phù hợp cho cá nhân đó, được gọi là "thuốc cá

nhân hoá", điều này sẽ cho phép các công ty dược phẩm mang lại nhiều loại
thuốc hơn cho thị trường và cho phép các bác sĩ kê toa các phương pháp điều trị
cho từng cá nhân cụ thể theo nhu cầu của bệnh nhân.
5. SNPs và NCBI
Bởi vì SNPs xảy ra thường xuyên trong bộ gen và có xu hướng tương đối ổn
định về mặt di truyền, nó là chỉ dấu sinh học tuyệt vời. Đánh dấu sinh học là các
đoạn DNA với một vị trí địa lý, nhận dạng có thể dễ dàng theo dõi và được sử
dụng để xây dựng bản đồ nhiễm sắc thể cho thấy vị trí của các gen đã biết được,
hoặc các dấu hiệu khác, tương đối với nhau. Những bản đồ này cho phép các nhà
nghiên cứu để nghiên cứu và xác định những đặc điểm kết quả từ sự tương tác của
nhiều gen. NCBI đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo điều kiện thuận lợi
cho việc xác định và danh mục SNPs thông qua việc tạo ra và duy trì cơ sở
cơ sở dữ liệu
SNP công cộng ( dbSNP ). Công cụ mạnh mẽ di truyền có thể được truy cập bởi
các cộng đồng y sinh học trên toàn thế giới và được dự định để kích thích nhiều
lĩnh vực nghiên cứu sinh học, bao gồm cả việc xác định các thành phần di truyền
của bệnh.
 NCBI "Khám phá không gian" Tạo điều kiện thuận lợi cho SNP nghiên cứu.
cứu.
Các bản ghi trong dbSNP cross-chú thích trong các nguồn thông tin nội bộ khác
12


như PubMed, trình tự dự án bộ gen, GenBank hồ sơ, cơ sở dữ liệu Gene Entrez, và
cơ sở dữ liệu dbSTS. Người dùng có thể truy vấn dbSNP trực tiếp hoặc bắt đầu
một tìm kiếm trong bất kỳ phần nào của không gian NCBI khám phá để xây dựng
một bộ hồ sơ dbSNP đáp ứng các điều kiện tìm kiếm của họ. Hồ sơ cũng được tích
hợp với các nguồn thông tin bên ngoài thông qua siêu văn bản URL mà người
dùng dbSNP thể làm theo để tìm hiểu thông tin chi tiết đó là vượt ra ngoài phạm vi
của curation dbSNP.

Để tạo điều kiện thuận lợi cho các nỗ lực nghiên cứu, NCBI của dbSNP
được bao gồm trong hệ thống phục hồi Entrez mà cung cấp truy cập tích hợp một
số công cụ phần mềm và cơ sở dữ liệu có thể hỗ trợ trong phân tích SNP. Ví dụ,
mỗi bản ghi SNP trong các liên kết cơ sở dữ liệu để các nguồn lực bổ sung trong
"Vũ trụ Discovery của NCBI”.
NCBI”. Tài nguyên bao gồm: GenBank  , cơ sở dữ liệu
trình tự NIH của Gene Entrez điểm một đầu mối cho các gen và các thông tin liên
quan; dbSTS , NCBI của nguồn tài nguyên có chứa chuỗi và dữ liệu bản đồ trên
mốc ngắn gen; bộ gen của con người sắp xếp dữ liệu;
liệu ; và PubMed , tìm kiếm tài
liệu NCBI
NCBI và hệ thống phục hồi.
hồi. SNP hồ sơ cũng liên
liên kết đến các nguồn lực
lực bên
ngoài khác nhau có liên quan.
Cung cấp truy cập đến một trang web "một cửa SNP mua sắm" tạo điều kiện
nghiên cứu khoa học trong nhiều lĩnh vực khác nhau, từ di truyền quần thể và sinh
học tiến hóa quy mô lớn bệnh và nghiên cứu đến thuốc. Đầu tư lâu dài trong các
nghiên cứu hứa hẹn không chỉ để nâng cao sinh học của con người mà còn để
“cách mạng hóa” trong thực hành y học hiện đại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS Nguyễn Thị
Thị Lang và GS. TS Bùi Chí Bửu. 2005. Sinh học phân
tử giới thiệu phương pháp và ứng dụng. Nhà xuất bản Nông Nghiệp & Phát triển
 Nông thôn. Trang
Trang 72-73.
2. GS. TS Bùi Chí Bửu và PGS.TS Nguyễn Thị Lang. 2008. Di truyền phân
tử. 2008. Nhà xuất bản Nông Nghiệp & Phát triển Nông thôn. Trang 180-184.
3.


 NCBI cơ sở dữ liệu của các đa hình đơn nucleotide
nucleotide (dbSNP)
13


Cơ sở dữ liệu của Nhật Bản đa hình đơn nucleotide (JSNP)News Network 
Genome
dbSNP cơ sở dữ liệu - Từ Trung tâm Quốc gia về Thông tin Công nghệ sinh học
5.
(NCBI).
6.
SNPs: Các biến thể trên một chủ đề giới thiệu cơ bản để SNPs từ Trung tâm Quốc
gia về Thông tin Công nghệ sinh học (NCBI).
Hiểu SNPs và ung thư - Một hướng dẫn trực tuyến từ Viện
Viện Ung thư Quốc gia.
7.
Diseases and Medical Response - An animated tutorial describing how DNA
8.
markers are used in medical applications. Part of the Kids Genetics website from
GlaxoSmithKline.
Genome Variations - Questions and answers about genome variation from the
9.
Genome News Network.
10. The SNP Consortium Website: Past, Present, and Future 2003.  Nucleic Acids
 Research 31 (1), 124-27.
 BioTechniques
11. Introduction to SNPs: Discovery of Markers for Disease 2002.  BioTechniques
(pdf).
12. Prospecting for Gold in Genome Gulch 2002. The Scientist .

P ast 2001. Nature .
13. Single Nucleotide Polymorphisms: From the Evolutionary Past
14. Single Nucleotide Polymorphisms: . . .To a Future of Genetic Medicine 2001.
4.

 Nature .

14



×