Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

bản thể luận trong triết học ấn độ cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.96 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG...........................................................................................2
Chương 1: Một số vấn đề về bản thể luận trong triết học thời cổ đại.........2
1.1. Khái niệm “Bản thể luận”:...............................................................2
1.2. Quan niệm về bản thể luận trong lịch sử triết học...........................4
Chương 2: Bản thể luận trong triết học Ấn độ cổ đại.................................7
2.1. Điều kiện lịch sử ra đời và phát triển của triết học Ấn Độ cổ đại....7
2.2. Quan niệm của triết học Ấn độ cổ đại về bản thể luận...................10
KẾT LUẬN.....................................................................................................17
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................19

0


MỞ ĐẦU
Bản thể luận là một trong những nội dung cơ bản của triết học luôn
được các nhà triết học đề cập đến bất luận theo quan điểm, trường phái nào.
Những quan niệm về bản thể luận có thể rất khác nhau, nhưng tựu trung lại
theo cách này hay cách khác, ở trình độ lý luận hay chỉ là những quan niệm
rời rạc thì đều nhằm tới việc lý giải cho sự tồn tại hiện thực trên lát cắt cội
nguồn, khởi nguyên của nó. Tổng kết toàn bộ lịch sử triết học đặc biệt là triết
học cổ điển Đức, Ph.Ăngghen đã khái quát: “Vấn đề cơ bản lớn nhất của mọi
triết học, đặc biệt của triết họchiện đại, là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại”
giữa ý thức và vật chất, giữa tinh thần và giới tự nhiên. Đó là những lý luận
về nguồn gốc, về sự tồn tại, hay những quan niệm về nguồn gốc của thế giới
hay còn gọi là bản thể luận.
Triết học Ấn Độ được phát triển từ hơn ba ngàn năm trước, chúng gồm
các ý tưởng, các thực hành và các phong tục xã hội. Tại Ấn Độ, không có một
tôn giáo thuần nhất, cũng chẳng có một nền triết học độc nhất; đúng hơn, với
nhiều cách thức am hiểu và liên hệ với thế giới, triết học Ấn Ðộ cũng như tôn


giáo, là một kho tàng chứa đựng các ý tưởng được bảo lưu một cách rộng rãi,
trong đó một số ý tưởng này cổ đại hơn một số ý tưởng khác tới cả ngàn năm.
Người Ấn Độ hiểu triết học (Dar’sana) là con đường suy ngẫm để đưa con
người đến lẽ phải. Trong lịch sử triết học nói chung và triết học Ấn Độ nói
riêng về vấn đề bản thể luận đã được coi là căn nguyên để giải quyết triệt để
vấn đề cơ bản của Triết học. Chính vì vậy, việc tìm hiểu về bản thể luận trong
triết học Ấn Độ cổ đại có giá trị rất lớn cả về nhận thức khoa học và hoạt
động thực tiễn.
Với lý do đó, tôi lựa chọn vấn đề: “Tìm hiểu về vấn đề bản thể luận
trong Triết học Ấn Độ cổ đại” làm nội dung tiểu luận
Tiểu luận gồm: Mở đầu, 02 chương, Kết luận và Danh mục Tài liệu
tham khảo

1


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Một số vấn đề về bản thể luận trong triết học thời cổ đại
1.1. Khái niệm “Bản thể luận”:
Thuật ngữ bản thể luận có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp. Nó là sự kết hợp
giữa hai từ: on: cái thực tồn, và logos: lời lẽ, học thuyết.. tạo thành “Học
thuyết về tồn tại”. Theo nghĩa này bản thể luận được hiểu là học thuyết triết
học về thực tồn nói chung, hoàn toàn độc lập với các dạng tồn tại cụ thể của
nó. Thời đó, thuật ngữ “bản thể luận” chưa được sử dụng với tư cách là một
khái niệm mà mới chỉ xuất hiện những tư tưởng về nó, chỉ đến thế kỷ XVII
thuật ngữ này mới chính thức xuất hiện và đưa ra những cách hiểu đặc thù về
nó. Trong triết học trước Mác, với cách hiểu bản thể luận hay “triết học đầu
tiên” là học thuyết về tồn tại nói chung nên nó cùng nghĩa với siêu hình học
-một hệ thống những định nghĩa phổ biến có tính chất tư biện về tồn tại. Khi
đó bản thể luận được hiểu như là những nguyên nhân sâu xa, khó xác định

được bằng cảm tính, bằng tri thức kinh nghiệm, mà chỉ có thể hiểu được bằng
tư duy,bằng lý tính.
Tóm lại, một cách chung nhất, khái niệm bản thể luận thường được
hiểu như là lý luận về bản thể, lý luận về nguồn gốc, về tồn tại hay bản thể
luận là quan niệm về thế giới. Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt. Thứ
nhất giữa ý thức và vật chất: cái nào có trước, cái nào có sau? Cái nào quyết
định cái nào? Thứ hai con người có khả năng nhận thức được thế giới hay
không?Việc giải quyết hai mặt vấn đề cơ bản của triết học là cơ sở phân chia
các trường phái triết học lớn trong lịch sử chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy
tâm, khả tri luận (thuyết có thể biết) và bất khả tri luận (thuyết không thể
biết). Ngoài ra còn chủ nghĩa nhị nguyên và hoài nghi luận (chủ nghĩa hoài
nghi). Về thực chất chủ nghĩa nhị nguyên có cùng bản chất với chủ nghĩa duy
tâm, còn hoài nghi luận thuộc về bất khả tri luận. Mặt khác bất khả tri luận
thường có mối quan hệ mật thiết với chủ nghĩa duy tâm, còn khả tri luận gắn
liền với chủ nghĩa duy vật.

2


Trong lịch sử triết học những người cho rằng bản chất của thế giới là
vật chất: Vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai, vật chất là cái có
trước và quyết định ý thức của con người được coi là các nhà duy vật, học
thuyết của họ hợp thành các môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy vật.
Ngược lại, nhữngngười cho rằng: Bản chất của thế giới là ý thức, ý thức là
tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai và ý thức quyết định vật chất được coi là
các nhà duy tâm, học thuyết của họ hợp thành các môn phái khác nhau gọi là
chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa duy tâm có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc
xã hội, đó là sự xem xét phiến diện, tuyệt đối hóa, thần thánh hóa một mặt,
một đặc tính nào đó của quá trình nhận thức và thường gắn với lợi ích của các
giai cấp, tầng lớp áp bức nhân dân lao động. Mặt khác chủ nghĩa duy tâm và

tôn giáo cũng thường có mối liên hệ mật thiết với nhau, nương tựa vào nhau
để cùng tồn tại và phát triển.
Trong lịch sử nhà duy tâm có hai đặc tính cơ bản là chủ nghĩa duy tâm
chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa
nhận tính thứ nhất của ý thức con người. Trong khi phủ nhận sự tồn tại khách
quan của hiện thực, chủ nghĩa duy tâm chủ quan khẳng định mọi sự vật hiện
tượng chỉ là “phức hợp những cảm giác” của cá nhận. Chủ nghĩa duy tâm
khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của tinh thần, ý thức nhưng tinh
thần, ý thức được quan niệm là tinh thần khách quan ý thức khách quan có
trước và tồn tạiđộc lập với giới tự nhiên và con người. Các nhà duy tâm khách
quan, thực thể tinh thần ấy chính là “ý niệm tuyệt đối”, “tinh thần tuyệt đối”
hay lý tính thế giới”. Đối lập với chủ nghĩa duy tâm chủ nghĩa duy vật và sự
tồn tại, phát triển của nó có nguồn gốc từ sự phát triển của khoa học và thực
tiễn, đồng thời thường gắn với lợi ích giai cấp và lực lượng tiến bộ trong lịch
sử. Nó là kết quả của quá trình đúc kết, khái quát hóa những tri thức của nhận
loại về nhiều lĩnh vực để xây dựng nên hệ thống quan điểm chung, đồng thời
định hướng cho các lực lượng xã hội tiến bộ trong hoạt động nhận thức và
thực tiễn của mình. Trên cơ sở phát triển của khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa

3


duy vật biện chứng là hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật
trong lịch sử.
1.2. Quan niệm về bản thể luận trong lịch sử triết học
Thuật ngữ bản thể luận có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp. Nó là sự kết hợp
giữa hai từ: on: cái thực tồn, và logos: lời lẽ, học thuyết.. tạo thành “Học
thuyết về tồn tại”. Theo nghĩa này bản thể luận được hiểu là học thuyết triết
học về thực tồn nói chung, hoàn toàn độc lập với các dạng tån t¹i cụ thể của
nó, đến thế kỷ XVII thuật ngữ này mới chính thức xuất hiện và đưa ra những

cách hiểu đặc thù về nó với tư cách là quan niệm, luận thuyết về tồn tại.
Có nhiều quan điểm khác nhau về tồn tại. Pácmênít – nhà triết học Hy
lạp cổ đại, được coi là người đầu tiên đề cập đến khái niệm “tồn tại” khi đồng
nhất tư duy với tồn tại là một. Arixtốt thì coi các phạm trù chính là nội dung
của tồn tại. Xôcrát lại cho rằng tồn tại không phải là giới tự nhiên. Điểm xuất
phát của tồn tại chỉ có trong ý thức, tư duy. Đó là tồn tại- tự ý thức. Với
Platôn, từ học thuyết trọng tâm về ý niệm, ông cũng quy tồn tại là tổng thể
những ý niệm về thế giới. Sự tồn tại của các sự vật cảm tính chẳng qua chỉ là
bản sao của ý niệm. Chỉ có ý niệm mới là cái tồn tại đích thực...
Thời trung cổ, các nhà triết học theo quan điểm nhà thờ đã mưu toan lợi
dụng tư tưởng của Arixtốt về siêu hình học để xây dựng học thuyết về tồn tại
nhằm chứng minh về mặt triết học cho các chân lý của tôn giáo. Thời cận đại
người ta bắt đầu hiểu bản thể luận là một bộ phận đặc biệt của siêu hình học,
là học thuyết về cơ cấu siêu cảm giác, phi vật chất của tất cả những gì đang
tồn tại. Thuật ngữ “Bản thể luận” do nhà triết học Đức Hôclêniút (1613) đưa
ra và được tiếp tục trong triết học của Vônphơ. Lúc này học thuyết bản thể
luận được tách rời hoàn toàn khỏi các nội dung của khoa học cụ thể và được
xây dựng bằng cách phân tích trừu tượng các khái niệm như: tồn tại, khả năng
và hiện thực, lượng và chất, nguyên nhân và tác động... coi nó như là bộ môn
triết học cao nhất. Ngược lại, các nhà duy vật thời kỳ này như: Hôbơ;
Xpinôda; Lốccơ (thế kỷ XVIII) đã dựa trên các dữ kiện của khoa học thực
nghiệm, với những nội dung tích cực của các quan điểm này đã chứng minh
4


về mặt khách quan rằng bản thể luận không thể là bộ môn triết học cao nhất,
là “triết học đầu tiên”, tách rời khỏi nhận thức luận và logic học.
Đến triết học cổ điển Đức, họ cho rằng bản thể luận là không có nội
dung và lặp lại; đồng thời học đòi hỏi tạo ra một bản thể luận (siêu hình học)
mới, hoàn thiện hơn, thay thế nó bằng triết học tiên nghiệm (Căng) hay bằng

hệ thống chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm (Selinh) hay bằng logic học
(Hêghen).
Triết học phương Tây hiện đại thế kỷ XX, phản ứng trước việc phổ biến
những trào lưu duy tâm chủ quan (chủ nghĩa Căng mới; chủ nghĩa thực
chứng) có ý thức xây dựng một cách hiểu mới về Bản thể luận trên cơ sở duy
tâm khách quan như quan niệm về bản thể luận tiên nghiệm của Huxéclơ; bản
thể luận phê phán của Háctman; bản thể luận cơ bản của Heidegger; bản thể
luận hiện tượng học của Sartre.... Trong học thuyết bản thể luận mới, người ta
hiểu bản thể luận là một hệ thống những khái niệm phổ biến về tồn tại mà có
thể hiểu được nhờ một số trực giác siêu cảm tính và siêu lý tính.
Một trong những quan điểm tiêu biểu của người Trung quốc cổ đại về
bản thể luận là quan điểm về Đạo của Lão Tử. Theo Lão tử, “Đạo” là cái có
trước trời đất, trống không và lặng yên nhưng lại có ở mọi nơi, là nguồn gốc
của vạn vật. Nó là sự thống nhất của thế giới, là bản nguyên sâu kín, huyền
diệu mà từ đó vạn vật có danh tính, có hình thể được sinh ra. Đạo là thực thể
vật chất của khối “hỗn độn”, “mập mờ”, “thấp thoáng” không có đặc tính,
không có hình thể, nhìn không nhìn thấy, nghe không nghe thấy, bắt không
bắt được, chẳng thể gọi tên. Nó tồn tại bất luận con người nhận thức được hay
không. Ở khía cạnh bản thể luận, khái niệm “đạo” của Lão tử được đề cập ở
ba khía cạnh là thể, tướng và dụng. Những quan điểm này của Lão tử, nếu gạt
bỏ những điểm hạn chế về thế giới quan và lập trường duy tâm, đã phần nào
tiêu biểu cho cho những quan niệm biện chứng đầy tinh tế và bí hiểm của
người phương đông. Quan điểm này vừa thể hiện quan điểm trực quan
nguyên sơ của người trung quốc cổ đại nhưng lại hàm chứa trong đó những
đoán định, cảm nhận sâu sắc về sự tồn tại và biến hoá của vũ trụ, điều chỉ xuất
5


hiện khi tư duy trừu tượng đạt tới trình độ cao. Học thuyết Âm dương - Ngũ
hành lại hướng đến việc lý giải sự tồn tại của thế giới trong sự tương tác của

các yếu tố tự nhiên trong thế giới mà thành. Các quan điểm này hướng tới
việc phân tích sự tác động của các yếu tố cơ bản có trong tự nhiên tạo thành
sự vật (học thuyết ngũ hành) hay là sự liên hệ, tương tác giữa hai mặt đối lập,
hai thế lực vật chất cơ bản để tạo nên vũ trụ (học thuyết âm dương).
Nho giáo, với nội dung chủ yếu thiên về giải quyết các vấn đề chính
trị- xã hội và con người nên đưa ra những quan niệm khác khi lý giải về bản
nguyên của tồn tại. Theo Mạnh Tử cái nội tâm chủ quan bên trong là bản thể
tự tại, thuộc về tiên nghiệm, vượt ra khỏi phạm trù không gian, thời gian, vật
chất, vận động. Đạt đến đó là con người có thể thông quan với trời đất, hoá
sinh ra vạn vật. Tâm là cái chủ thể trong mỗi con người, là cái thần linh có đủ
mọi lý mà trời phú cho con người để hiểu biết, ứng đối với vạn vật, vạn sự.
Tâm có quan hệ với Tính. Tính là cái lý hoàn toàn của tâm. Đem cái tâm tính
ấy mà ứng xử với vạn vật bên ngoài là tình. Chỉ có cái tâm đó thì mới biết
được tính của ta và của vạn vật..v.v..
Các nhà triết học ở Ấn độ cổ đại ban đầu lại quan niệm bản thể của thế
giới chính là các vị thần có tính chất tự nhiên. Họ tin tưởng, gửi gắm tâm hồn,
cuộc sống tự nhiên của mình vào thế giới các vị thần ấy. Về sau, quan niệm tự
nhiên về các vị thần dần dần mờ nhạt, thay vào đó “là những nguyên lý trừu
tượng duy nhất tối cao được coi là nguồn gốc vũ trụ và đời sống con người.
Đó là “thần sáng tạo tối cao” Brahman và một tinh thần tối cao Brahman”.
Bước chuyển về mặt nhận thức này của người Ấn độ cổ thể hiện bước chuyển
từ thế giới quan thần thoại (với việc giải thích tính muôn vẻ, cụ thể của thế
giới qua biểu tượng các vị thần có tính chất tự nhiên) đến thế giới quan triết
học (bằng việc dần phát hiện ra cái chung, cái bản chất như là bản nguyên tối
cao của thế giới).

6


Chương 2: Bản thể luận trong triết học Ấn độ cổ đại

2.1. Điều kiện lịch sử ra đời và phát triển của triết học Ấn Độ cổ đại
Ấn Độ cổ là một đất nước rộng lớn thuộc bán đảo Nam Á, bao gồm cả
nước Pakixtan, Bănglađét và Nêpan ngày nay. Khắp vùng từ Đông Bắc đến
Tây Bắc của Ấn Độ cổ đại núi non trùng điệp với dãy Himalaya nổi tiếng kéo
dài 2600 km. Dãy núi Vinđya phân chia An Độ thành hai miền: Bắc và Nam.
Miền Bắc có hai con sông lớn là sông An ở phía Tây và sông Hằng ở phía
Đông, chúng tạo nên hai đồng bằng màu mỡ - cái nôi của nền văn minh cổ An
Độ. Trước khi đổ ra biển, sông An chia làm 5 nhánh, và biến lưu vực của
mình thành đồng bằng Pungiáp. Đối với người An Độ, sông Hằng là dòng
sông linh thiêng có thành phố Varanadi (Bênarét) bên bờ; nơi đây, từ ngàn
xưa, người An Độ cử hành lễ tắm truyền thống mang tính chất tôn giáo… Cư
dân An Độ rất đa dạng và phức tạp với nhiều bộ tộc khác nhau, nhưng về
chủng tộc, có hai loại chính là người Đraviđa cư trú chủ yếu ở miền Nam, và
người Arya chủ yếu sống ở miền Bắc.
Từ trong nền văn minh sông An của người bản địa Đraviđa xa xưa, nhà
nước An Độ cổ đại đã xuất hiện; nông nghiệp, thủ công, thương nghiệp đã
hình thành. Tuy nhiên, đến thế kỷ XVII TCN, thiên tai (lũ lụt trên sông An…)
đã làm cho nền văn minh này sụp đổ. Vào khoảng thế kỷ XV TCN, các bộ lạc
du mục Arya ở Trung Á xâm nhập vào An Độ. Họ định canh, định cư và tiến
hành quá trình nô dịch, đồng hóa, hỗn chủng với các bộ lạc bản địa Đraviđa.
Kinh tế tiểu nông nghiệp kết hợp với thủ công nghiệp gia đình mang tính tự
cung, tự cấp lấy gia đình, gia tộc của người Arya làm cơ sở, đã tạo nền tảng
vững chắc cho các công xã nông thôn ra đời và sớm được khẳng định.
Trong mô hình công xã nông thôn, toàn bộ ruộng đất đều thuộc quyền
sở hữu nhà nước của các đế vương; nhà nước kết hợp với tôn giáo thống trị
nhân dân và bóc lột nông nô công xã; tôn giáo bao trùm mọi mặt đời sống xã
hội; con người sống nặng về tâm linh tinh thần và khao khát được giải thoát.
Cũng trong mô hình này đã hình thành 4 đẳng cấp với sự phân biệt hết sức
khắc nghiệt và dai dẳng. Đó là: Tăng lữ - đẳng cấp cao quí nhất trong xã hội 7



bao gồm những người hành nghề tế lễ; Quí tộc - đẳng cấp thứ hai trong xã hội
- bao gồm vua chúa, tướng lĩnh; Bình dân tự do - đẳng cấp thứ 3 trong xã hội
- bao gồm những người có chút ít tài sản, ruộng đất; Tiện nô hay nô lệ - đẳng
cấp thấp nhất và đông đảo nhất - bao gồm những người tận cùng không có
quyền lợi gì trong xã hội. Ngoài sự phân biệt đẳng cấp như trên, xã hội Ấn
Độ cổ đại còn có sự phân biệt về chủng tộc, dòng dõi, tôn giáo, nghề nghiệp...
Những sự phân biệt này đã tạo ra những xung đột ngấm ngầm trong xã
hội nhưng bị kìm giữ bởi sức mạnh vật chất và tinh thần của nhà nước – tôn
giáo. Xã hội vận động, phát triển một cách chậm chạp và nặng nề. Tuy vậy,
nhân dân An Độ vẫn đạt được những thành tựu văn hóa tinh thần khá rực rỡ.
Về văn hóa, chữ viết đã được người An Độ sáng tạo từ thời văn hóa
Haráppa, sau đó chữ Kharosthi (thế kỷ V TCN) ra đời; chữ Brami được dùng
rộng rãi vào thời vua Axôca, sau cùng, nó được cách tân thành chữ
Đêvanagari để viết tiếng Xanxcrit. Văn học có các bộ Vêđa ; các bộ sử thi
(Mahabarata, Ramayana…). Nghệ thuật nổi bật là nghệ thuật tạo hình như
kiến trúc, điêu khắc được thể hiện trong các cung điện, đền chùa, tháp, lăng
tẩm, trụ đá… (tháp Xansi [Sanchi], trụ đá Xácna [Sarnath], lăng Taj Mahan,
các tượng phật và tượng thần…
Về khoa học tự nhiên, người An Độ đã làm ra lịch pháp, phân biệt được
5 hành tinh và một số chòm sao; đã phát hiện ra chữ số thập phân, số , xây
dựng môn đại số học; đã biết cách tính diện tích các hình đơn giản và xác
định được quan hệ giữa các cạnh của một tam giác vuông; đã đưa ra giả
thuyết nguyên tử… Người An Độ cũng có nhiều thành tựu trong y dược học.
Về tôn giáo. An Độ là nơi sản sinh ra nhiều tôn giáo, trong đó quan trọng nhất
là đạo Bàlamôn (về sau là đạo Hinđu) và đạo Phật; ngoài ra còn có các tôn
giáo khác như đạo Jaina, đạo Xích… Tạo nên và nuôi dưỡng các thành tựu
đó là lịch sử An Độ cổ và trung đại. Lịch sử này gồm 4 thời kỳ :
Thời kỳ văn minh Sông An (từ giữa thiên niên kỷ III đến giữa thiên
niên kỷ II TCN). Nền văn minh này được biết đến qua sự phát hiện hai thành


8


phố bị chôn vùi Haráppa và Môhenjô Đarô ở lưu vực sông An vào năm 1920
nên còn được gọi là văn hoá Haráppa.
Thời kỳ văn minh Vêđa (từ giữa thiên niên kỷ II đến thế kỷ VII TCN).
Nét nổi bật của nền văn minh này là sự thâm nhập của người Arya từ Trung Á
vào khu vực của người người bản địa Đraviđa ở vùng lưu vực sông Hằng, sự
xuất hiện của 4 bộ kinh Vêđa sớm phản ánh sinh hoạt của họ, và sự pha trộn
giữa 2 nền văn hóa - tín ngưỡng của hai chủng tộc khác nhau. Chế độ đẳng
cấp và đạo Bàlamôn xuất hiện góp phần hình thành một nền văn hóa mới của
người Ấn Độ - văn hóa Vêđa.
Thời kỳ các vương triều độc lập (từ thế kỷ VI TCN đến thế kỷ XII).
Đây là thời kỳ có những biến động lớn về kinh tế, chính trị - xã hội, tư tưởng văn hóa… với sự ra đời của các quốc gia và sự hình thành các trường phái
triết học - tôn giáo lớn của Ấn Độ. Từ thế kỷ VI TCN, ở Ấn Độ có 16 nước
nhỏ, trong đó, nước mạnh nhất là Magađa nằm ở vùng hạ lưu sông Hằng.
Năm 327 TCN, sau khi diệt được đế quốc Ba Tư rộng lớn, quân đội
Makêđônia do Alếchxăngđrơ chỉ huy đã tiến chiếm An Độ. Nhưng do quá mệt
mõi mà họ không đủ sức tấn công nước Magađa. Alếchxăngđrơ cho quân rút
lui. Khi quân đội Makêđônia rút lui, thủ lĩnh Sanđragupta, biệt hiệu Môrya
(Chim công) lãnh đạo phong trào đấu tranh giải phóng, đánh đuổi quân
Makêđônia ra khỏi An Độ, làm chủ vùng Pungiáp, và sau đó, tiến quân về
phía đông giành lấy ngôi vua Magađa, lập nên vương triều Môrya – vương
triều huy hoàng nhất trong lịch sử An Độ cổ đại. Vào thời vua Axôca (273236), vương triều Môrya cực thịnh, với đạo Phật phát triển rực rỡ. Sau đó,
vương triều suy yếu dần và bị diệt vong vào năm 28 TCN. Nước Ấn Độ bị
chia cắt. Đến thế kỷ I, bộ tộc Cusan (cùng huyết thống với người Tuốc) từ
Trung Á tràn vào và chiếm lấy vùng Tây Bắc lập nên nước Cusan. Vào thời
vua Canixca (78-123), nước Cusan phát triển rực rỡ, đạo Phật lại hưng thịnh,
rồi sau đó suy yếu dần, lãnh thổ thu hẹp lại trong vùng Pungiáp, và cuối cùng,

bị diệt vong vào thế kỷ V. Dù bị chia cắt, nhưng vào năm 320, vương triều
Gupta đã được thành lập ở miền Bắc và một phần miền Trung An Độ. Từ năm
9


500 đến năm 528, miền Bắc An Độ bị người Eptalil chiếm đống. Năm 535,
vương triều này bị diệt vong. Năm 606, vua Hácsa lập nên vương triều Hácsa
hùng mạnh ở miền Bắc, năm 648, ông mất, vương triều cũng tan rã. Ngay từ
đầu thế kỷ XI, các vương triều Hồi giáo ở Apganixtan luôn tấn công An Độ;
đến năm 1200, miền Bắc Ấn Độ đã bị sáp nhập vào Apganixtan.
Thời kỳ các vương triều lệ thuộc (từ thế kỷ XIII đến giữa thế kỷ XIX).
Năm 1206, Viên Tổng đốc của Apganixtan ở miền Bắc An Độ đã tách miền
Bắc An Độ ra thành lập một nước riêng, tự mình làm Xuntan (vua), đóng đô ở
Đêli và gọi tên nước là Xuntan Đêli (1206-1526)… Trải qua năm vương triều
do người Hồi giáo ngoại tộc cai trị, đến năm 1526, dòng dõi người Mông Cổ
ở Trung Á, bị Tuốc hóa, theo đạo Hồi tấn công và chiếm lấy An Độ lập nên
vương triều Môgôn. Năm 1849, thực dân Anh bắt đầu chinh phục An Độ.
Năm 1857, vương triều Môgôn bị diệt vong. An Độ trở thành thuộc địa của
thực dân Anh…
2.2. Quan niệm của triết học Ấn độ cổ đại về bản thể luận
Ấn độ là một trong những quốc gia có nền văn minh phát triển sớm
củanhân loại. Do đặc thù của sự phát triển kinh tế, điều kiện tự nhiên và đặc
biệt là sự phát triển tôn giáo nên những tư tưởng triết học cũng chịu ảnh
hưởng nhiều từ những tư tưởng tôn giáo có tính “hướng nội”. Điều đó cũng
xảy ra tương tự trong quan niệm về bản thể luận của họ. Các nhà triết học ở
Ấn độ cổ đại ban đầu quan niệm bản thể của thế giới chính là các vị thần có
tính chất tự nhiên. Họ giải thích rằng vũ trụ tồn tại ba thế lực có liên hệ mật
thiết với nhau là thiên giới, trần thế và địa ngục. Khi bắt đầu xuất hiện tư duy
triết học về bản thể luận, các trường pháitriết học khác nhau của người Ấn độ
cổ đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về bản thể luận. Đầu tiên phải kể đến

những tư tưởng triết học trong kinh Upanisad. Đây là bộ kinh được ra đời rất
sớm, khoảng thế kỷ VIII- VI tr. CN. Nội dung căn bản của kinh Upanisad là
vạch ra bản nguyên tối cao bất diệt của thể giới. Đó là: “tinh thần vũ trụ tối
cao” Brahman. Là thực thể duy nhất, có trước, tồn tạivĩnh viễn, bất diệt, là cái
từ đó tất cả thế giới đều nảy sinh ra và nhập về nó saukhi chết. Linh hồn của
10


con người (Atman) chỉ là sự biểu hiện của một bộ phận của “ tinh thần tối
cao”.
a. Phái Samkhya:
Trường phái Samkhya (Số luận) do Kapila (~350-250 TCN) khởi xướng,
và sau đó, Isvarakrisna phát triển thêm. Lý luận cơ bản của phái này là học
thuyết duy vật về bản nguyên của thế giới. Những tư tưởng triết học cơ bản
của nó là: Một là, không thừa nhận sự tồn tại của brátman và thần thánh, mà
thừa nhận bản nguyên của thế giới là prakriti - vật chất đầu tiên, tiềm ẩn,
không hình dạng, không giới hạn, không thể nhận biết được bằng cảm tính.
Hai là, thừa nhận vạn vật chỉ là thể thống nhất, tác động và chuyển hóa lẫn
nhau giữa 3 yếu tố là sativa (nhẹ nhàng, thuần khiết), razas (tích cực, năng
động) và tamas (nặng, ỳ). Ba là, thừa nhận tồn tại luật nhân quả chi phối
mọi sự chuyển hóa trong thế giới vật chất [vật chất  tri năng  ngũ giác
(thị, thính, khứu, vị, xúc giác)  trí tuệ (năng lực nhận thức); vật chất  ngũ
quan cảm giác (mắt, tai, mũi, lưỡi, da) và ngũ quan tác động (cuống họng,
bàn tay, bàn chân, cơ quan bài tiết, cơ quan sinh dục); vật chất  ngũ hành
(không khí, lửa, nước, đất và ête); vật chất  linh hồn hay tinh thần
(purusa)]. Purusa không phải là linh hồn thế giới như Vêđa quan niệm mà chỉ
là nguyên lý phổ quát, bất biến của cá tính trong các sinh vật. Nó giúp thực
hiện việc truyền sinh khí, đẩy mạnh sự biến hóa của các yếu tố vật chất.
Samkhya nghĩa là “số”, “đếm”. Tư tưởng của Samkhya có nguồn gốc rấ
tcổ và ảnh hưởng của nó rất lớn. Thởi sơ kỳ Samkhya có tinh thần duy vật. Nó

phủ nhận sự tồn tại của Brahman và thần, chỉ thừa nhận thế giới là thế giới vật
chất tồn tại, vận động theo quy luật nhận quả: Kết quả đã tồn tại trong nguyên
nhân trước khi nó xuất hiện. Quan niệm về bản thể bắt đầu từ nguyên nhân.
Theo họ, nếu thế giới là vật chất thì nguyên nhân của nó cũng là vật chất. Đó
là vật chất đầu tiên, nhưng không phải là vật chất ở dạng thô hay có thể nhận
thức được bằng cảm tính. Đó là vật chất ở dạng tinh tế, tiềm ẩn, không xác
định. Thế giới vật chất là thể thống nhất của ba yếu tố: Sattva (nhẹ, sáng,
11


tươi); Rajas (kíchthích, động); Tamas (nặng, ỳ). Khi ba yếu tố này ở trạng thái
cân bằng thì yếu tố vật chất đầu tiên (Prakriti) chưa biểu hiện (chưa nhận thức
đươc bằng trực quan) nhưng khi sự cân bằng bị phá vỡ thì đây chính là điểm
khởi đầu của sự sinh thành vạn vật của vũ trụ. Đó chính là quan niệm của sự
hình thành thế giới hữu hình đa dạng từ thế giới vô hình, đồng nhất. Thời kì
hậu samkhuya có khuynh hướng nhị nguyên thừa nhận song song tồn tại yếu
tố đầu tiên là vật chất (prakriti) và tinh thần (purusa). Và yếu tố purusa có tính
phổ quát vĩnh hằng bất biến. Purusa truyền sinh khí và năng lực biến hóa vào
prakriti.
Phái Samkhya chịu sự phê phán mạnh mẽ của các trường phái khác, vì
vậy, nó đã không đứng vững trước lập trường duy vật nhất nguyên của mình
mà chuyển dần sang lập trường nhị nguyên vào thời trung đại. Khi thừa nhận
sự tồn tại song hành hai yếu tố đầu tiên là prakriti và purusa, Isvarakrisna coi
vạn vật chỉ là thể thống nhất, tác động, chuyển hóa của chúng; mà cụ thể là,
sự tác động giữa thể tinh và thể thô. Là trung tâm của nghiệp, thể tinh bao
gồm trí tuệ, giác quan và các yếu tố gắn liền với chúng cũng như cảm giác về
cái tôi, về bản thân chủ thể; nó luôn đi theo Purusa khi nào còn chưa được giải
thoát. Thể thô gắn liền với các yếu tố vật chất và chết đi cùng với các yếu tố
vật chất.
b. Các trường phái Nyaya – Vaisesika

Trường phái Nyaya xuất hiện vào thế kỷ III TCN, do Gôtama sáng lập
và được Vátsiaiana (thế kỷ IV) và Yđiatakara (thế kỷ VII) phát triển. Lý luận
cơ bản của phái này bao gồm ba bộ phận là nguyên tử luận, lôgích học và lý
luận về nhận thức. Về nguyên tử luận, phái này cho rằng, nguyên tử (Anu) là
bản nguyên duy nhất tạo nên vạn vật trong thế giới. Nguyên tử là những hạt
vật chất bé nhỏ, không đồng nhất, bất biến, vĩnh hằng, khác nhau về chất
lượng, khối lượng, hình dạng và cách thức kết hợp. Khi kết hợp lại với nhau
chúng tạo thành 4 thực thể vật lý là đất, nước, gió và lửa. Các thực thể này tồn
tại trong một môi trường ête, trong không gian và thời gian. Khi phối hợp với
nhau thì chúng tạo nên vạn vật đa dạng nhưng nhất thời – thế giới vật chất…
12


Bên cạnh việc thừa nhận sự tồn tại của nguyên tử, phái này còn thừa nhận sự
tồn tại của các linh hồn (Ya). Linh hồn thể hiện qua những ước vọng, ý chí,
vui, buồn, giận hờn...; chúng có thể tồn tại tự do nhưng cũng có thể tồn tại
trong trạng thái gắn kết vào nguyên tử. Bên cạnh Anu và Ya, phái này cho
rằng tồn tại thần Isvara với vai trò điều phối sự kết hợp, tác động của các linh
hồn hay giải thoát linh hồn ra khỏi nguyên tử.
Trường phái Vaisêsika xuất hiện vào thế kỷ II TCN, do Kanađa sáng lập
và được Parasatapađa (thế kỷ V) phát triển. Lúc đầu, quan điểm của phái này
và phái Niaja có nhiều điểm giống nhau. Cũng như phái Niaja, tư tưởng chủ
đạo của phái Vaisêsika tập trung trong nguyên tử luận, lôgích học và nhận
thức luận.
Về nguyên tử luận, phái này cho rằng, nguyên tử là bản nguyên duy
nhất tạo nên vạn vật trong thế giới. Nguyên tử là những hạt vật chất bé nhỏ,
không đồng nhất, bất biến, vĩnh hằng, khác nhau về chất lượng, khối lượng,
hình dạng và cách thức kết hợp. Khi kết hợp lại với nhau chúng tạo thành 9
thực thể là đất, nước, gió, lửa, ête, thời gian, không gian, linh hồn và trí tuệ. 5
thực thể đầu là thực thể vật lý mang tính cảm giác được; còn các thực thể còn

lại là thực thể phi cảm giác. Khi kết hợp với nhau thì chúng tạo nên vạn vật đa
dạng, nhất thời – thế giới vật chất. Phái này thừa nhận sự tồn tại của một lực
lượng vô hình không cảm giác được điều khiển sự kết hợp đó.
Quan niệm bản nguyên duy nhất, đầu tiên của thế giới là những hạt vật
chất không đồng nhất, bất biến, vĩnh hằng được phân biệt ở chất lượng,
khốilượng và hình dạng, tồn tại trong một môi trường đặc biệt được gọi là
Anu(nguyên tử). Phái Lokayata, với quan điểm duy vật và vô thần tương đối
triệt để quan niệm bản nguyên của tồn tại được tạo thành bởi bốn yếu tố: đất,
nước, lửa,không khí. Những yếu tố này có khả năng tự tồn tại, tự vận động
trong không gian và cấu thành vạn vật. Tính đa dạng của thế giới chính là do
sự kết hợp khác nhau của những yếu tố bản nguyên ấy. Từ quan điểm đó phái
này cho rằng con người cũng chỉ là sự hợp thành của những yếu tố bản
nguyên vật chất đó nên sự tồn tại hay mất đi của con người cũng bị quy định
13


bởi sự kết hợp khác nhau củacác yếu tố đó. Vì thế linh hồn con người không
tồn tại bất tử giống như thể xác của họ.Như vậy, trong sự phát triển tư duy
trừu tượng của mình, triết học Ấn độ cổ trung đại đã đặt ra và bước đầu giải
quyết nhiều vấn đề của triết học. Trong khi giải quyết những vấn đề thuộc về
bản thể luận, nhiều tư tưởng với yếu tố biện chứng với tầm khái quát sâu sắc
đã được thể hiện và phát triển. Hầu hết cáctrường phái triết học đều “biến đổi
theo xu hướng từ vô thần đến hữu thần, từ ít nhiều duy vật đến duy tâm hay
nhị nguyên”
c. Phật giáo
Quan niệm về “Tâm”, “Chân như - Thực tướng”, “Pháp”, “nhân
duyên”,“sắc - không” Phật giáo trước hết là một tôn giáo, vì thế những tư
tưởng của giáo lý phật giáo không đề cập nhiều tới những vấn đề triết học
thuần tuý mà mục đích chính của tư tưởng phật giáo là sự giải thoát chúng
sinh khỏi nỗi khổ của cuộc đời. Đólà mục đích tối cao, là vấn đề trung tâm

của các giáo lý Phật giáo. Tuy nhiên,trong quá trình thuyết pháp và truyền bá
tư tưởng, rất nhiều những quan điểm,triết lý Phật giáo lại thể hiện những khía
cạnh triết học sâu sắc mà một trong số chúng là những vấn đề liên quan đến tư
tưởng về bản thể luận.Một trong những khái niệm trọng tâm trong quan niệm
về bản thể luận của phật giáo là khái niệm Tâm. Đây là lý thuyết của Phật về
bản chất tồn tại của thế giới. Cái Tâm ban đầu vốn tròn đầy, yên tĩnh, chưa
xao động. Bản thể của Tâm được ví như mặt nước lặng trong, do gió thổi
(vọng tâm sinh khởi) mà tạo ra sóng to, sóng nhỏ, bọt, bong bóng… Gió
ngừng thổi thì sóng hết, bọt tan chúng lại trở về với mặt nước yên lặng. Đó
chính là bản thể của nó. Vậy Tâm là cái bất biến, có sẵn, không thay đổi.
Những biểu hiện biến đổi của tâm là do có tác động từ bên ngoài, có sự tiếp
xúc của “lục căn” (cơ quan cảm giác chủ quan)với “lục trần” (thế giới khách
quan) làm xuất hiện tâm với tính cách là ý thức chủ quan làm tâm xao động,
chạy theo cái ảo, giả mà sinh ra “tham”, “sân”,“si”... là quá trình tạo nghiệp,
tạo nhân, dễ làm che mờ bản chất, làm con người đi vào vòng luân hồi không
dứt. Nhưng khi vượt qua được điều đó, khi con người được giải thoát, có
14


được trí tuệ bát nhã để phá tan vô minh, khi cái tâm ý thức không còn bị tác
động và chi phối bởi các yếu tố khách quan thì vạn vật lại trở về chính nó cái Tâm ban đầu, thanh tịnh, yên tĩnh, trong trẻo, là khởi nguồn của tồn tại.
Như vậy, thế giới hiện tượng (vạn tượng) đều từ bản thể (chân tâm, chânnhư)
mà ra. Cái chân như đó là pháp chân thật, không hình không tướng, lúc nào
cũng vậy, bất biến. Tức là, thế giới vật chất cụ thể do nhân duyên tạo thành
chỉ là hư ảo, cái bản thể không hình tướng mới là chân thực duy nhất. Như
vậy, cái bản thể, cái chân như đó ở trong thế giới trần tục, lẫn với bụi đời (cửu
hỗn phàm trần) chứ không phải ở sự tồn tại bí ẩn nào. Người giác ngộ sẽ thấy
ra điều đó còn người trần tục lại tưởng Bồ đề ở rất xa xôi. Khi giác ngộ thì
bản thể thần diệu đó vốn là hư không, nhưng vẫn biểu hiện ra muôn hình vạn
trạng để nhận dạng ra nó.Một trong những quan niệm điển hình của Phật giáo

khi đề cập đến vấn đề bản thể luận là khái niệm “Không”. Trong quan hệ với
“sắc”, nếu “không” làcái bắt đầu của mọi tính, đó là bản tính vũ trụ, là chân
như pháp tính” hoặc “phật tính”, nói tắt là “như” hay “chân như”, nó là cái
độc lập tự tại, không do ai sinhra thì “sắc” được hiểu như là hiện tượng bộc lộ
ra và tồn tại không thể tách rời“không” (bản thể). “Sắc” còn được hiểu là vật
chất đối lập với “không” là tâm,là tinh thần. Theo tư tưởng Bát Nhã thì sắc
tức là không, không tức là sắc, sắc chẳng khác không; không chẳng khác gì
sắc. Trong sắc có không, trong không có sắc. Kinh Phật thường có cụm từ sắc
sắc không không để nói về sự vô thường của đời sống.Từ quan niệm “không”
đó, Phật giáo đưa ra khái niệm “Pháp”. Ngoài ra, Phật giáo còn đưa ra quan
niệm “Nhân duyên” như là một yếu tố cấu thành nên tồn tại.Thế giới quan
phật giáo có những yếu tố duy vật và vô thần, chứa đựng nhiều tư tưởng biện
chứng sâu sắc. Tính duy vật vô thần thể hiện rõ trong quan niệm về tính tự
thân sinh thành và biến đổi của vạn vật. Không do một lực lượng thần linh
hay thượng đế tối cao nào. Tính biện chứng sâu sắc thể hiện trong luận giải về
tính chất “vô ngã”, “vô thường”. Phật dạy vạn vật chuyển biến không ngừng
trong từng satna (từng giây, từng phút. Thậm chí chỉ bằng cái nháy mắt). Từ
con người cho đến vũ trụ vạn vật đều vận hành theo quy luật: thành, trụ, hoại,
15


không (hoặc sinh, trụ. dị, diệt) được ví như bốn mùa xuân, hạ, thu, đông hay
sinh, già, bệnh, chết. Trong bốn thời kỳ đó, thời kỳ Trụ lại là hết sức
ngắnngủi, chỉ bằng một satna. Tức là mọi hiện tượng đang tồn tại thực tế
trước mắt không phải là cố định mà ở trên một dòng biến đổi thường xuyên,
vĩnh viễn vô thủy, vô chung. Vì thế gian vô thường nên mọi vật đều vô tự tính
(không có tự tính hay là không có bản thể riêng). Đó chính là sự vô ngã
(anatman) ở conngười. Chính từ quan điểm bản thể luận này mà những tư
tưởng căn bản của Phậtgiáo mới hướng tới việc lý giải nỗi khổ của đời người
và tìm cách giải thoát con người khỏi nỗi khổ trong thuyết “Tứ diệu đế”.


16


KẾT LUẬN
Triết học Ấn Độ là một trong những nôi triết học vĩ đại của loài người
thời kì cổ đại. Nó chứa đựng những yếu tố duy vật, vô thần và manh nha hình
thành các tư tưởng biện chứng sơ khai. Từ trong hoàn cảnh lịch sử và truyền
thống Vêđa, triết học Ấn Độ cổ đại đã hình thành và phát triển. Chính
Upanisát - tác phẩm Vêđa xuất hiện muộn nhất – đã thể hiện rõ những triết lý
sâu sắc của người Ấn Độ. Những triết lý này tạo thành những mạch suối
ngầm làm phát sinh ra nhiều dòng chảy tư tưởng triết học – tôn giáo của Ấn
Độ. Upanisát cố lý giải những vấn đề về bản thể – nhân sinh, về sự sống – cái
chết…, nó ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống tinh thần của người dân Ấn Độ
nói riêng, của nhiều dân tộc phương Đông nói chung.
Do chịu ảnh hưởng bởi tinh thần Vêđa mà triết học Ấn Độ cổ đại không
thể phân chia rõ ràng thành chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, phép
biện chứng và phép siêu hình (như triết học phương Tây), mà chủ yếu được
chia thành các hệ thống chính thống và các hệ thống không chính thống.
Trong các trường phái triết học cụ thể luôn có sự đan xen giữa chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa phép biện chứng và phép siêu hình với nhau.
Bên cạnh đó, ảnh hưởng sâu sắc bởi các tư tưởng tôn giáo mà triết học Ấn Độ
cổ đại thường là một bộ phận lý luận quan trọng tạo nên nội dung giáo lý của
các tôn giáo lớn.
Do đặc thù của sự phát triển kinh tế, điều kiện tự nhiên và đặc biệt là sự
phát triển tôn giáo nên những tư tưởng triết học cũng chịu ảnh hưởng nhiều từ
những tư tưởng tôn giáo có tính “hướng nội”. Điều đó cũng xảy ra tương tự
trong quan niệm về bản thể luận của họ. Các nhà triết học ở Ấn độ cổ đại ban
đầu quan niệm bản thể của thế giới chính là các vị thần có tính chất tự nhiên.
Họ giải thích rằng vũ trụ tồn tại ba thế lực có liên hệ mật thiết với nhau là

thiên giới, trần thế và địa ngục. Khi bắt đầu xuất hiện tư duy triết học về bản
thể luận, các trường phái triết học khác nhau của người Ấn độ cổ đã đưa ra
nhiều quan niệm khác nhau về bản thể luận. Tuy nhiên, tư duy triết học thời kì

17


này bộc lộ nhiều hạn chế như: Coi linh hồn con người là bất tử (Đạo Phật)
hay phán đoán về thế giới hiện tượng của phái jaina...

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Toan (2002), Lịch sử triết học Ấn Độ cổ đại, Nxb Đại học
sư phạm, Hà Nội.
2. Lê Công Sự (2014), Triết học cổ đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
3. Doãn Chính (1998), Lịch sử tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội
4. Nguyễn Thị Mai Liên (2014), Tư tưởng tôn giáo - triết học trong văn
học Ấn Độ thời kì cổ - trung đại, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.
5. Heinrich Zimmer (2015), Triết học Ấn Độ - Một cách tiếp cận mới,
Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội

19



×