Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Luận văn bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong tư pháp quốc tế VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (557.02 KB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐỖ PHƯƠNG LAN

BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG TRONG
TƯ PHÁP QUỐC TẾ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2016


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU

1

CHƯƠNG 1

9

LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
NGOÀI HỢP ĐỒNG TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ
9
1.1
tế


Khái quát bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong tư pháp quốc
9
1.1.1 Khái niệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
1.1.2 Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài

9
15

1.2 Nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật về bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài
18
1.3 Ý nghĩa bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài
20
1.4 Cơ sở pháp lý điều chỉnh bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu
tố nước ngoài ở Việt Nam
22
CHƯƠNG 2

25

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
25
2.1. Quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước
ngoài trong các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên25
2.1.1 Nguyên tắc xác định pháp luật áp dụng

25

2.1.2 Thẩm quyền giải quyết của Tòa án


29

2.2 Quy định của pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài 32
2.2.1 Nguyên tắc xác định pháp luật áp dụng

32

2.2.2 Thẩm quyền tài phán của Tòa án Việt Nam

50

CHƯƠNG 3

59

THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG CÓ YẾU
TỐ NƯỚC NGOÀI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI


QUYẾT BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
59
TẠI VIỆT NAM
3.1 Thực

trạng giải quyết bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố
nước ngoài 60
3.1.1 Thực trạng pháp luật


60

3.1.2 Thực tiễn giải quyết bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố
nước ngoài
65
3.2 Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài 67
KẾT LUẬN

73


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh xã hội như hiện nay, không chỉ các quốc gia thiết lập
các mối quan hệ hợp tác song phương, đa phương với nhau; mà ngay cả công
dân của các quốc gia cũng tiến hành những giao dịch dân sự với số lượng
ngày càng đa dạng và phức tạp. Theo đó, một mặt, tạo tiền đề cho sự phát
triển quan hệ hợp tác giữa các bên, qua đó thúc đẩy sự phát triển về kinh tế,
văn hóa, xã hội, giáo dục, và các vấn đề khác. Tuy nhiên, một mặt cũng làm
phát sinh những nghĩa vụ, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
có yếu tố nước ngoài.
Không chỉ ở Việt Nam, mà ở các nước trên thế giới, vấn đề về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài là một trong
những chế định quan trọng trong quy định pháp luật dân sự, hơn nữa đây còn
là một vấn đề mang tính pháp lý quốc tế, là nội dung quan trọng trong Tư
pháp quốc tế. Xuất phát từ tầm quan trọng của chế định này, pháp luật Việt
Nam theo từng thời kỳ, như Bộ luật dân sự năm 2005 và các văn bản hướng
dẫn thi hành Bộ luật dân sự năm 2005, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 sửa
đổi bổ sung năm 2011, và mới đây nhất là tại Bộ luật dân sự năm 2015 cùng

với Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đều có các điều luật quy định về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Qua từng
thời kỳ, các quy định càng có tính chặt chẽ cũng như phù hợp hơn với thực
trạng xã hội của Việt Nam, bên cạnh đó cũng đã tạo ra cơ sở pháp lý để bảo
vệ các quyền và lợi ích chính đáng của các bên có liên quan trong vấn đề bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Hơn thế nữa, Việt
Nam và một số quốc gia có ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề
dân sự, gia đình và hình sự, cũng có các điều khoản quy định liên quan tới
vấn đề giải quyết các tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong


5

Tư pháp quốc tế, cụ thể là các nguyên tắc chọn luật áp dụng để giải quyết và
thẩm quyền tài phán của Tòa án. Điều này đã góp phần tạo ra hành lang pháp
lí cho các chủ thể khi tham gia vào quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, mà
đặc biệt là liên quan tới bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Ở Việt Nam hiện nay, các vụ việc liên quan tới tranh chấp phát sinh
ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài không còn là vấn đề quá mới mẻ và đã
có các quy định về vấn đề này, tuy nhiên việc giải quyết các trường hợp này
trên thực tế chưa thể đáp ứng được các yêu cầu đề ra, cũng như chưa bảo vệ
được một cách đầy đủ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia. Bởi
lẽ pháp luật hiện hành được áp dụng để giải quyết là Bộ luật dân sự năm
2005 và Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011 đã bộc
lộ nhiều điểm hạn chế qua quá trình áp dụng vào thực tế giải quyết. Bên cạnh
đó, số lượng các Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự, gia đình và hình sự
được ký kết bởi Việt Nam và một số nước vẫn còn quá ít, đồng thời Việt
Nam chưa phải là thành viên của bất kỳ Điều ước quốc tế đa phương nào về
vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Tư pháp quốc tế, điều đó
dẫn tới các căn cứ pháp lý để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ

thể ở thời điểm hiện tại là chưa đầy đủ và chưa thực sự tạo ra nền tảng vững
chắc. Ngoài ra, ngay cả trong vấn đề đưa ra các quan điểm, khái niệm về mặt
lý luận của các tranh chấp này hiện nay ở Việt Nam vẫn chưa hoàn toàn có
sự thống nhất giữa các nhà nghiên cứu luật cũng như các nhà làm luật, từ đó
không tạo nên sự đồng bộ trong tư tưởng định hướng và xây dựng pháp luật.
Trước tình hình thực thi pháp luật về vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng như vậy, yêu cầu cấp thiết chính là cần có những sự điều chỉnh
trong quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng để phù
hợp với thực trạng hiện nay. Tại kỳ họp của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, có 446/494 đại biểu tham gia biểu quyết tán
thành, tương đương 86,84% tổng số đại biểu, sáng ngày 24 tháng 11 năm


6

2015, Quốc hội đã chính thức thông qua Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu
lực kể từ ngày 01 tháng 1 năm 2017; và với đa số phiếu thuận, sáng ngày 25
tháng 11 năm 2015, Quốc hội đã chính thức thông qua Bộ luật Tố tụng dân
sự (sửa đổi) gồm 42 chương, 517 điều có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng
7 năm 2016. Các quy định tại Bộ luật dân sự năm 2015 và Bộ luật tố tụng
dân sự 2015 đã khắc phục được những thiếu sót cũng như hạn chế trong các
quy định tại Bộ luật dân sự năm 2005 và Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004
sửa đổi bổ sung năm 2011, tạo cơ sở pháp lý vững chắc hơn đối với việc giải
quyết các vấn đề liên quan tới các giao dịch dân sự có yếu tố nước ngoài nói
chung và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài nói
riêng.
Do vậy, việc nghiên cứu đề tài “Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
trong Tư pháp quốc tế Việt Nam” theo quy định của Bộ luật Dân sự năm
2015, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và các Điều ước quốc tế song
phương ký kết giữa Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới, đồng thời so

sánh và đối chiếu với Bộ luật dân sự năm 2005, Bộ luật tố tụng dân sự năm
2004 sửa đổi bổ sung năm 2011 là hết sức cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật về bồi thường thiệt hại có yếu tố nước ngoài là một chế định
quan trọng của tư pháp quốc tế nên đã có nhiều nhà luật học, nhà nghiên cứu
quan tâm và có các đề tài nghiên cứu, bài viết trên tạp chí, khóa luận có đề
cập tới vấn đề này, tiêu biểu như:
- Luận văn, khóa luận tốt nghiệp:
Đề tài “Một số vấn đề về Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong tư
pháp quốc tế Việt Nam”, của Nguyễn Thị Gấm, Khóa luận tốt nghiệp,
Trường Đại học luật Hà Nội năm 2010.
- Đề tài nghiên cứu khoa học


7

Trường Đại học Luật Hà Nội, Trần Thị Huệ (chủ nhiệm), “Trách
nhiệm dân sự do tài sản gây thiệt hại – vấn đề lý luận và thực tiễn”, Đề tài
khoa học cấp trường năm 2009.
- Các bài viết trên tạp chí:
Bài viết “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố
nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam - Những bất cập và hướng
hoàn thiện” của TS. Nguyễn Hồng Bắc và Lê Thị Bích Thủy đăng trên Tạp
chí luật học số 04/2014.
Bài viết “Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong
Tư pháp quốc tế hiện đại” của PGS. TS. Nguyễn Bá Diến đăng trên Tạp chí
Nhà nước và pháp luật, Viện Nhà nước và pháp luật số 04/2007.
Bài viết “Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” của tác giả Nguyễn
Văn Cương – Chu Thị Hoa, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ tư pháp
đăng trên Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 4/2005.

Bài viết “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong pháp
luật dân sự của Cộng hòa Pháp” của ThS. Trần Ngọc Dương đăng trên Tạp
chí luật học số 01/2009.
Nhìn chung, trong các bài viết của các tác giả như kể trên cũng như
trong các công trình nghiên cứu khác về vấn đề bồi thường thiệt hại trong Tư
pháp quốc tế đã đề cập tới một số khía cạnh khác nhau của vấn đề bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài dưới góc độ của Tư
pháp quốc tế, và chủ yếu nghiên cứu dựa trên các quy định của Bộ luật dân
sự năm 2005 và Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011.
Do vậy, tính tới thời điểm hiện tại, chưa có bài viết hay công trình nghiên
cứu nào đi sâu phân tích, tìm hiểu về các quy định mới về bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài theo quy định của Bộ luật dân sự
năm 2015 và Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 cũng như so sánh với các quy


8

định của theo Bộ luật dân sự năm 2005 và Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004
sửa đổi bổ sung năm 2011.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu về các quy định pháp
luật đối với quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước
ngoài theo pháp luật Việt Nam và các Điều ước quốc tế song phương mà
Việt Nam là thành viên; cụ thể là các quy định về nguyên tắc chọn luật áp
dụng để giải quyết các tranh chấp liên quan tới bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng và xác định thẩm quyền tài phán của Tòa án trong việc thụ lý và
giải quyết các tranh chấp đó.
- Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi của chế định về bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài là rất rộng và trong phạm vi đề tài luận
văn này, tác giả lựa chọn nghiên cứu về các vấn đề pháp lí cơ bản của trách

nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Tư pháp quốc tế Việt Nam,
cụ thể là các quy định pháp luật về nguyên tắc lựa chọn pháp luật để giải
quyết tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài
và phân tích thẩm quyền tài phán của Tòa án đối với các vụ việc bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài trong giai đoạn từ 2005 cho
đến nay, căn cứ theo Bộ luật dân sự năm 2005, Bộ luật tố tụng dân sự năm
2004 sửa đổi bổ sung năm 2011, Bộ luật dân sự năm 2015 và Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015 và các Điều ước quốc tế song phương mà Việt Nam ký kết
với một số quốc gia trên thế giới.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích
- Luận văn làm rõ các vấn đề về lý luận về vấn đề trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài,
- Phân tích và đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam và các
Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên đối với việc chọn luật áp dụng


9

giải quyết các tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước
ngoài.
- Phân tích và đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam đối với
việc xác định thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
- Đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật
Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước
ngoài.
Nhiệm vụ
- Nghiên cứu cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý về vấn đề trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài.
- Đối chiếu các quy định của pháp luật Việt Nam với các Điều ước

quốc tế mà Việt Nam là thành viên và pháp luật của một số quốc gia trên thế
giới trong việc giải quyết xung đột pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài từ đó đánh giá những điểm tương
đồng và khác biệt trong cách xây dựng các quy định pháp luật về vấn đề này,
qua đó rút ra những kinh nghiệm thực tiễn hữu ích cho pháp luật Việt Nam.
- Phân tích và chỉ ra những bất cập trong quá trình thực thi các
quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài trong
thực tiễn áp dụng theo Bộ luật dân sự 2005 và các văn bản có liên quan. Trên
cơ sở đó, đánh giá được những điểm tiến bộ của Bộ luật dân sự 2015 và các
văn bản có liên quan sẽ có tác động tới thực trạng giải quyết các vụ việc liên
quan tới bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Tư pháp quốc tế của Việt
Nam.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Để thực hiện nghiên cứu đề tài về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng trong Tư pháp quốc tế Việt Nam, tác giả đặt ra một số câu
hỏi xuyên suốt luận văn nhằm đạt được các mục đích và nhiệm vụ của luận
văn, bao gồm:


10

- Khi yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước
ngoài được đặt ra thì áp dụng những nguyên tắc nào để xác định luật giải
quyết?
- Trên phương diện quy định của pháp luật, pháp luật Việt Nam, pháp
luật một số nước trên thế giới và một số Điều ước quốc tế mà Việt Nam là
thành viên thì áp dụng nguyên tắc nào để chọn luật và thẩm quyền để giải
quyết đối với các trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố
nước ngoài?
- Thực trạng giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có

yếu tố nước ngoài tại Việt Nam theo Bộ luật dân sự năm 2005 và các văn
bản có liên quan còn những điểm hạn chế nào?
- Bộ luật dân sự năm 2015 đã có quy định nào để khắc phục những
điểm còn bất cập trong quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 về vấn đề
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài.
6. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin làm để tiếp cận các vấn đề của luận
văn. Ngoài ra, các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh cũng được sử
dụng để đưa ra những nhận định và đánh giá về các quy định của pháp luật
Việt Nam về vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Tư pháp quốc
tế.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Trong tình hình hiện nay, có rất ít công trình khoa học đề cập tới vấn
đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự
năm 2015 và Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015, do vậy luận văn có vai trò
làm rõ cơ sở lý luận theo tinh thần của các văn bản pháp luật kể trên. Kết quả
nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho những
đối tượng muốn tìm hiểu về vấn đề này.


11

8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Lời mở đầu và Kết luận thì Luận văn gồm ba chương
chính gồm:
Chương 1: Lý luận chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng trong tư pháp quốc tế.
Chương 2: Quy định của pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài.

Chương 3: Thực trạng giải quyết bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
có yếu tố nước ngoài và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam.


12

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
NGOÀI HỢP ĐỒNG TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ
1.1 Khái quát bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong tư pháp quốc tế
1.1.1 Khái niệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Theo định nghĩa nêu trong Giáo trình Pháp luật về Hợp đồng và bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì “trách nhiệm dân sự phát sinh giữa các
chủ thể mà trước đó không có quan hệ hợp đồng hoặc tuy có quan hệ hợp
đồng nhưng hành vi của chủ thể gây thiệt hại không thuộc về nghĩa vụ thi
hành hợp đồng đã ký”1, hay như trong Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, tập
2 định nghĩa như sau “một loại trách nhiệm pháp lý được phát sinh dựa trên
các điều kiện do pháp luật quy định khi một chủ thể có hành vi gây hại cho
các lợi ích được pháp luật bảo vệ2.”.
Có thể thấy, với khái niệm được đưa ra trong Giáo trình Pháp luật về
Hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì khái niệm trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được đưa ra dựa trên cơ sở có hợp đồng
liên quan tới thiệt hại được gây ra; định nghĩa này không bao hàm tới những
yếu tố liên quan tới bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng như yếu tố lỗi, yếu
tố đối tượng bị xâm phạm. Còn trong cách đưa ra định nghĩa trong Giáo trình
luật dân sự tập 2, thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng không
đưa ra một cách chi tiết về điều kiện phát sinh mà chỉ nêu rằng “điều kiện do
pháp luật quy định”, ở đây tác giả chỉ tập trung về khía cạnh đối tượng bị
xâm phạm có thuộc các đối tượng được pháp luật bảo vệ hay không; vì thế

đối với định nghĩa này, khi áp dụng để tìm hiểu về mặt lý luận của trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì cần phải tìm hiểu thêm nữa về
1 Xem Giáo trình Pháp luật về Hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng- Nhà xuất bản Hồng Đức
– Hội Luật gia Việt Nam, của Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh năm 2013 – Trang 434
2Xem Giáo trình Luật dân sự Việt Nam tập 2 - , Nhà xuất bản Giáo dục của TS. Lê Đình Nghị (chủ biên)
năm 2009 – Trang 191.


13

việc pháp luật có quy định thế nào về các điều kiện được coi là cơ sở để xác
định yếu tố ngoài hợp đồng cũng như các yếu tố khác của loại hình trách
nhiệm này.
Về mặt bản chất, có thể hiểu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng là một chế định của pháp luật dân sự có tính cưỡng chế đối với đối
tượng gây thiệt hại có đủ năng lực hành vi dân sự được áp dụng trong trường
hợp các thiệt hại phát sinh không dựa trên cơ sở tự do thỏa thuận giữa các
bên; theo đó, các thiệt hại phát sinh phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời
bởi đối tượng gây thiệt hại. Tuy nhiên, trên cơ sở tôn trọng thỏa thuận của
các bên, pháp luật có quy định các bên trong quan hệ pháp luật dân sự này
(cụ thể là chủ thể bị thiệt hại và chủ thể gây thiệt hại) được quyền thỏa thuận
về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực
hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần.
Các quan hệ dân sự trong xã hội hiện tại rất phong phú, đa dạng về
chủ thể, khách thể, nội dung, cách thức phát sinh, quyền, lợi ích và nghĩa vụ
của các bên. Thông thường một quan hệ pháp luật dân sự sẽ không gặp phải
những “rắc rối” về mặt pháp luật nếu các quyền và nghĩa vụ đều được các
bên trong quan hệ đó thực hiện đầy đủ. Tuy nhiên, trên thực tế, một quan hệ
dân sự luôn có thể phát sinh những thiệt hại vì nhiều nguyên nhân khách
quan (như thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh), hoặc cũng có thể do nguyên nhân

chủ quan (như bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ trên cơ sở hợp đồng dân sự).
Về mặt pháp luật, theo quy định tại khoản 1 Điều 584 Bộ luật Dân sự
năm 2015 thì trường hợp được coi là căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng là khi một chủ thể có hành vi xâm phạm đến
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp
pháp của một chủ thể khác mà việc gây thiệt hại này phải bồi thường. Tuy
nhiên, tại khoản 2 Điều 584 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định rằng trong


14

trường hợp thiệt hại xảy ra do sự kiện bất khả kháng hoặc do lỗi của chủ thể
bị thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng sẽ không
phát sinh; và tại khoản 3 Điều 584 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng quy định
trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Có thể thấy đây là các trường hợp
ngoại lệ trong vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Và đặc biệt theo
quy định tại khoản 2 Điều 584 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì đây là một điểm
mới so với các quy định trong bộ luật dân sự trước đây, thể hiện cách nhìn
nhận vấn đề công bằng hơn, đặt quyền, lợi ích và nghĩa vụ của các bên có
liên quan trong vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cân bằng và bình
đẳng hơn bởi lẽ theo quy định trước kia, các quy định của pháp luật không đề
cập tới trường hợp do sự kiện bất khả kháng và thiệt hại do lỗi của chủ thể bị
thiệt hại thì không phải bồi thường, mà mặc nhiên thừa nhận rằng cứ trường
hợp có hành vi gây ra thiệt hại ngoài hợp đồng thì chủ thể gây ra thiệt hại
phải bồi thường.
Như vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của pháp
luật dân sự Việt Nam phát sinh trong trường hợp đồng thời có đủ các đặc
điểm sau:

Thứ nhất là “hành vi trái pháp luật”.
Các hành vi phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
được quy định cụ thể từ Điều 594 đến Điều 608 Bộ luật Dân sự năm 2015,
cụ thể là: Bồi thường thiệt hại trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng; bồi thường thiệt hại trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình
thế cấp thiết; bồi thường thiệt hại do người dùng chất kích thích gây ra; bồi
thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra; bồi thường thiệt hại do
người thi hành công vụ gây ra; bồi thường thiệt hại do người dưới mười lăm
tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây ra trong thời gian trường học,
bệnh viện, pháp nhân khác trực tiếp quản lý; bồi thường thiệt hại do người


15

làm công, người học nghề gây ra; bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra; bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường; bồi thường
thiệt hại do súc vật gây ra; bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra; bồi thường
thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra; bồi thường thiệt hại do
xâm phạm thi thể; bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả; và bồi thường
thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng. Không chỉ trong quy
định tại Bộ luật dân sự năm 2015 mà ngay trong Bộ luật Dân sự năm 2005,
các quy định về trường hợp cụ thể liên quan tới bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng cũng đã được đề cập tới, điều này nhằm mục đích tạo cơ sở pháp
lý cho các bên cũng như cho cơ quan có thẩm quyền tài phán có căn cứ để
giải quyết.
Khi nghiên cứu về pháp luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong
Tư pháp Thụy Sĩ, tác giả nhận thấy trong quy định của pháp luật Thụy Sĩ
cũng liệt kê các trường hợp cụ thể về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
như trong các trường hợp: tai nạn; trách nhiệm đối với sản phẩm; cạnh tranh
không lành mạnh và kìm hãm cạnh tranh. Tuy nhiên, phạm vi cụ thể của

pháp luật Thụy Sĩ không tương đồng với phạm vi cụ thể được liệt kê trong
Bộ luật dân sự năm 2015.
Điểm cần lưu ý ở đặc điểm này là yếu tố “ngoài hợp đồng”. Yếu tố
“ngoài hợp đồng” được hiểu là khi các hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại
được thực hiện mà giữa chủ thể gây thiệt hại và chủ thể bị thiệt hại không có
bất kỳ thỏa thuận hoặc hợp đồng nào liên quan tới thiệt hại xảy ra trên thực
tế; mối quan hệ, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của các bên chỉ phát
sinh khi thiệt hại xảy ra và chủ thể gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại cho
chủ thể bị thiệt hại về tài sản hoặc tinh thần. Chủ thể bị thiệt hại có quyền
yêu cầu chủ thể gây thiệt hại phải có nghĩa vụ thực hiện những hành vi nhất
định nhằm đảm bảo lợi ích của mình, và chủ thể gây thiệt hại là người duy
nhất phải thực hiện trách nhiệm đối với chủ thể bị thiệt hại.


16

Đây chính là yếu tố quan trọng để phân biệt trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng với trách nhiệm bồi thường thiệt hại trên cơ sở có
hợp đồng, bởi nếu căn cứ theo hợp đồng thì việc chọn luật áp dụng cũng như
xác định thẩm quyền giải quyết đối với các thiệt hại xảy ra sẽ không gặp
nhiều khó khăn; nhưng riêng đối với trường hợp không có hợp đồng hay bất
kỳ thỏa thuận nào liên quan tới thiệt hại xảy ra, thì cần căn cứ vào nhiều yếu
tố khác nhau để xác định được luật áp dụng cũng như thẩm quyền giải quyết
thuộc về cơ quan nào để có thể giải quyết được vụ việc.
Thứ hai là “thiệt hại thực tế”.
Theo quy định tại Điều 585 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì nguyên tắc
bồi thường thiệt hại đó là chỉ phát sinh khi có thiệt hại thực tế xảy ra; trường
hợp không có thiệt hại thực tế thì dù đó là hành vi trái pháp luật, cũng sẽ
không phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đối với
quan hệ dân sự, mà khi đó có thể sẽ phát sinh các trách nhiệm pháp lý khác

như trách nhiệm hình sự, trách nhiệm hành chính. Các thiệt hại này có thể là:
(i) thiệt hại do tài sản bị xâm phạm, ví dụ như tài sản bị mất, bị hủy hoại
hoặc hư hỏng; (ii) thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm; (iii) thiệt hại do tính
mạng bị xâm phạm; (iv) thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm
phạm.
Yếu tố này được hiểu là sau thời điểm hành vi trái pháp luật được thực
hiện thì dẫn tới phát sinh các hậu quả ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới
chủ thể bị thiệt hại trên thực tế.
Thứ ba là “mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi”.
Một trong những yếu tố quan trọng để xác định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng đó là xác định được mối quan hệ nhân quả
giữa thiệt hại thực tế xảy ra và hành vi gây ra thiệt hại. Mối quan hệ nhân
quả được hiểu là thiệt hại phát sinh trên thực tế là hậu quả của hành vi trái
pháp luật gây nên, và ngược lại, hành vi trái pháp luật đã gây ra thiệt hại đó.


17

Bởi vì nếu có thiệt hại thực tế phát sinh trên thực tế nhưng thiệt hại này
không phải do hành vi trái pháp luật của chủ thể gây thiệt hại gây ra thì chủ
thể có hành vi trái pháp luật không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng đối với các thiệt hại này.
Căn cứ quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015 thì các đặc điểm về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng gồm ba đặc điểm đó là: Có hành vi trái pháp
luật, có thiệt hại thực tế xảy ra và có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và
hành vi. Một điểm khác biệt rõ rệt giữa quy định về các đặc điểm của bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo Bộ luật Dân sự năm 2015 và Bộ luật
Dân sự năm 2005 đó là Bộ luật Dân sự năm 2005 có quy định yếu tố “lỗi”
cũng được coi là một trong những đặc điểm để phân biệt trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng với các loại trách nhiệm khác; trong khi đó,

theo khoản 1 Điều 584 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015 không quy định yếu
tố lỗi là một trong các căn cứ để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng mà yếu tố lỗi chỉ được đề cập trong nguyên tắc bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng. Theo tác giả, việc lược bỏ yếu tố lỗi trong quy định
tại Bộ luật Dân sự năm 2015 là dựa trên các lí do sau đây:
Thứ nhất, bản chất của lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành
vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra
được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý, điều này có nghĩa khi thực
hiện hành vi trái pháp luật, chủ thể phải có nhận thức tâm lý về hành vi trái
pháp luật mà mình thực hiện dù ở dạng cố ý hay vô ý. Theo đó, nếu hiểu về
lỗi là trạng thái tâm lý và nhận thức của chủ thể đối với hành vi và hậu quả
do hành vi đó gây ra, thì yếu tố này không thể áp dụng được với trường hợp
thiệt hại phát sinh do cây cối gây ra hoặc do nhà cửa, công trình xây dựng
khác gây ra bởi đây là những tài sản vô tri vô giác3 thì không thể có nhận
thức về yếu tố lỗi trong trường hợp gây ra thiệt hại cho chủ thể bị thiệt hại.
3 Xem ngày truy cập 03/8/2016


18

Thứ hai, trong thực tế xét xử của Tòa án thì những người không có
khả năng nhận thức đầy đủ (người chưa thành niên, người mất năng lực hành
vi dân sự) thì chỉ cần ba yếu tố4 đó là có hành vi trái pháp luật, có thiệt hại
thực tế và có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi bởi khả năng
nhận thức về lỗi của những đối tượng này về hành vi trái pháp luật do mình
gây ra gần như là không có, do vậy không thể áp dụng yếu tố lỗi làm điều
kiện xem xét. Điều đó tạo nên sự không công bằng giữa các đối tượng không
có khả năng nhận thức đầy đủ và những người có khả năng nhận thức đầy đủ
khi cùng thực hiện một hành vi trái pháp luật và cùng gây ra hậu quả tương
tự nhau, thì những người không có khả năng nhận thức đầy đủ được xác định

trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng căn cứ trên ba yếu tố, còn
những người có khả năng nhận thức đầy đủ thì phải có đủ bốn yếu tố mới đủ
căn cứ xác định nghĩa vụ.
Như vậy, có thể hiểu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
là nghĩa vụ dân sự không căn cứ theo một thỏa thuận dân sự hoặc một hợp
đồng dân sự có liên quan, phát sinh khi có hành vi trái pháp luật, mà theo đó
gây ra các thiệt hại về mặt vật chất hoặc tinh thần cho các chủ thể khác.
1.1.2 Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài
Theo quy định tại khoản 2 Điều 663 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nếu thuộc một trong những trường hợp
sau đây:
Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước
ngoài.
Căn cứ nội dung của quy định này, thì việc xác định yếu tố nước ngoài
cần phải dựa trên cơ sở quốc tịch của các chủ thể tham gia quan hệ dân sự

4 Xem ngày truy cập 03/8/2016


19

nói chung và trong quan hệ trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
nói riêng.
Ví dụ: một bên trong quan hệ dân sự có quốc tịch Việt Nam, bên còn
lại trong quan hệ dân sự có quốc tịch Nhật Bản; hoặc đối với trường hợp
pháp nhân thì một bên trong quan hệ dân sự đó là công ty được thành lập và
có trụ sở chính tại Việt Nam, bên còn lại trong quan hệ dân sự đó là một
công ty được thành lập và có trụ sở chính tại Pháp.
Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam
nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại

nước ngoài.
Trường hợp này được hiểu là nếu các cá nhân hoặc pháp nhân đều có
quốc tịch Việt Nam nhưng có quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
tại nước ngoài thì được coi là một trong những trường hợp bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài.
Ví dụ: anh Nguyễn Văn A – công dân Việt Nam, du lịch tại Thái Lan,
do uống quá nhiều rượu dẫn đến tình trạng mất kiểm soát hành vi đã gây
thiệt hại tới sức khỏe của chị Trần Thị B – công dân Việt Nam, cũng đang du
lịch tại Thái Lan; theo đó ở trường hợp này, cả anh A và chị B đều là công
dân Việt Nam, nhưng phát sinh quan hệ dân sự tại Thái Lan nên được coi là
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, mà cụ thể ở đây là quan hệ bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài do xâm phạm sức khỏe của
chị B.
Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam
nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài.
Ở đây yếu tố nước ngoài được xác định dựa vào đối tượng của quan hệ
dân sự chứ không dựa vào quốc tịch của chủ thể hay nơi tồn tại quan hệ dân
sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng như hai trường hợp kể trên.


20

Ví dụ: công ty A – quốc tịch Việt Nam bán sản phẩm tại thị trường
Hàn Quốc, công ty B – quốc tịch Việt Nam cũng bán sản phẩm có mẫu mã
tương tự sản phẩm của công ty A tại thị trường Hàn Quốc nhưng chất lượng
kém hơn, điều này gây ảnh hưởng tới danh tiếng của công ty A ở thị trường
Hàn Quốc, do đó hai bên phát sinh tranh chấp liên quan đến việc tiêu thụ sản
phẩm của mình tại thị trường Hàn Quốc.
Có thể thấy định nghĩa về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài theo
Bộ luật Dân sự năm 2015 về cơ bản cũng tương tự với định nghĩa về quan hệ

dân sự có yếu tố nước ngoài theo Bộ luật dân sự năm 2005, đó là đều xác
định trên cơ sở quốc tịch, nơi tồn tại quan hệ dân sự, nơi có đối tượng của
quan hệ dân sự. Tuy nhiên, phạm vi chủ thể theo Bộ luật Dân sự năm 2015
hẹp hơn so với Bộ luật dân sự năm 2005, cụ thể là theo Điều 758 Bộ luật dân
sự năm 2005 thì các chủ thể trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là
“cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài,… công dân, tổ chức Việt Nam”, còn theo Bộ luật Dân sự năm 2015
thì chủ thể ở đây là “cá nhân, pháp nhân”. Theo tác giả, có sự điều chỉnh về
quy định liên quan tới các chủ thể trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng theo Bộ luật Dân sự năm 2015 xuất phát từ thực trạng của pháp
luật Việt Nam, mà theo đó không có bất kỳ điều khoản nào đưa ra định nghĩa
hoặc giải thích về khái niệm “cơ quan, tổ chức”, vì vậy khi áp dụng trên thực
tế, để xác định tư cách chủ thể thì không có căn cứ để xác định đó là cơ quan
hay tổ chức hay pháp nhân.
Như vậy, căn cứ theo Điều 663 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài là nghĩa vụ dân sự của
một chủ thể không căn cứ theo một thỏa thuận dân sự hoặc một hợp đồng
dân sự có liên quan, phát sinh khi có hành vi trái pháp luật, mà theo đó gây
ra các thiệt hại về mặt vật chất hoặc tinh thần cho các chủ thể khác đồng
thời thỏa mãn một trong các điều kiện sau đây: (i) Quan hệ có sự tham gia


21

của ít nhất một chủ thể là: cá nhân, pháp nhân nước ngoài; (ii) Sự kiện pháp
lý xảy ra ở nước ngoài; (iii) Đối tượng của quan hệ ở nước ngoài.
1.2 Nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật về bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một trong những vấn đề pháp
lý quan trọng trong pháp luật về dân sự của các quốc gia trên thế giới, tuy

nhiên mỗi quốc gia khác nhau, tùy theo hệ thống pháp luật được lựa chọn để
áp dụng, sẽ áp dụng nguyên tắc giải quyết vấn đề phát sinh khác nhau.
Nhưng về cơ bản, các quốc gia đều có cách hiểu chung về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong tư pháp quốc tế nhưng nguyên tắc để
giải quyết xung đột pháp luật thì có những sự khác biệt nhất định.
Hiện nay trên thế giới, pháp luật của nhiều các quốc gia lựa chọn
nguyên tắc Lex Voluntatis là nguyên tắc được ưu tiên áp dụng đầu tiên để
giải quyết vụ việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài.
Nguyên tắc Lex Voluntatis được hiểu là luật do các bên tự thỏa thuận và lựa
chọn.
Ví dụ như theo quy định của pháp luật Trung Quốc tại Điều 44 Luật
áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài của nước Cộng hòa dân
chủ nhân dân Trung Hoa ban hành ngày 28 tháng 10 năm 2010 như sau “...
Sau khi xảy ra hành vi gây thiệt hại ngoài hợp đồng, các chủ thể có liên
quan tự thỏa thuận việc lựa chọn pháp luật để áp dụng, thì áp dụng theo
pháp luật được họ lựa chọn.5; theo đó khi vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng có yếu tố nước ngoài xảy ra, chủ thể gây thiệt hại và chủ thể bị
thiệt hại có quyền tự do thỏa thuận về việc lựa chọn luật áp dụng để giải
quyết vụ việc. Nguyên tắc này thể hiện sự tiến bộ trong nhận thức của các
nhà làm luật nói chung và các nhà làm luật của Việt Nam nói riêng xét ở
5Nguyên văn “侵权行为发生后,当事人协议选择适用法律的,按照其协议。”. Phần dịch được thực
hiện bởi tác giả.


22

khía cạnh tôn trọng quyền con người, tôn trọng sự lựa chọn của các bên thay
vì áp đặt trong một khuôn khổ nhất định như trước kia; bên cạnh đó cũng thể
hiện tính khách quan, bình đẳng giữa các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp
luật.

Bên cạnh nguyên tắc Lex Voluntatis thì nguyên tắc Lex loci delicti
commissi cũng được lựa chọn để giải quyết vụ việc bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Nguyên tắc Lex loci delicti commissi6
được hiểu là luật nơi có hành vi vi phạm hoặc có thiệt hại, cũng có từ điển
pháp lý định nghĩa nguyên tắc Lex loci delicti commissi là nơi mà có hành vi
gây thiệt hại7. Chính bởi có sự khác nhau trong quan điểm về nguyên tắc này
của từng quốc gia nên đã tạo ra sự không đồng nhất giữa các quốc gia trong
việc giải thích nguyên tắc và áp dụng nguyên tắc trên thực tế, cụ thể là có
những quốc gia xác định luật áp dụng để giải quyết theo luật nơi xảy ra hành
vi gây thiệt hại ngoài hợp đồng, nhưng có quốc gia lại xác định luật nơi phát
sinh hậu quả của hành vi gây thiệt hại ngoài hợp đồng; hay cũng có những
quốc gia giải thích đó là nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại được xác định là nơi
có hành vi gây thiệt hại và là nơi phát sinh hậu quả của hành vi gây thiệt hại.
Bên cạnh đó, một hệ thuộc luật cũng thường được sử dụng để xác định
luật áp dụng giải quyết bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước
ngoài đó là nguyên tắc Lex domicilii – Luật nơi cư trú. “Nơi cư trú” được
xác định theo nơi cư trú thường xuyên của chủ thể bị thiệt hại hoặc chủ thể
gây ra thiệt hại.
Như vậy, có thể thấy ba hệ thuộc luật chủ yếu được sử dụng để xác
định luật giải quyết các vấn đề liên quan tới trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài của các quốc gia đó là nguyên tắc Lex
Voluntatis, nguyên tắc Lex loci delicti commissi và nguyên tắc Lex
6

/>
7

/>

23


domicilii. Tùy từng nội dung vụ việc và quy định của pháp luật mà các
nguyên tắc này có thể được áp dụng cùng với pháp luật quốc gia để giải
quyết vụ việc.
1.3 Ý nghĩa bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài
Pháp luật được hiểu là một phương diện để nhà nước quản lý mọi mặt
của đời sống xã hội và duy trì, thiết lập, củng cố, tăng cường quyền lực nhà
nước; là phương tiện thực hiện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mỗi
công dân. Chính vì vậy khi có thiệt hại xảy ra do hành vi của một chủ thể
này gây ra với chủ thể khác đem lại những hậu quả bất lợi (thiệt hại), để bù
đắp tổn hại cho chủ thể bị thiệt hại thì chủ thể gây ra thiệt hại phải có nghĩa
vụ bồi thường tương ứng với những giá trị về vật chất và tinh thần mà chủ
thể bị thiệt hại phải chịu. Chế định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng có yếu tố nước ngoài được coi là cơ sở để:
Thứ nhất: là căn cứ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể
có quyền, lợi ích bị xâm phạm.
Khi quyền, lợi ích của các chủ thể bị xâm phạm, nó có thể tác động tới
sự ổn định của trật tự xã hội của quốc gia; chính vì thế, các chế định về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được thiết lập nhằm để bảo vệ,
duy trì, thiết lập lại sự ổn định xã hội đã bị hành vi vi phạm pháp luật tác
động. Vì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng không có căn cứ
cụ thể để xác định quyền yêu cầu bồi thường của chủ thể bị thiệt hại, chính
vì thế các chế định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đóng
vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra cơ sở pháp lý để đảm bảo quyền, lợi
ích hợp pháp của chủ thể bị thiệt hại và duy trì sự công bằng trong xã hội.
Theo đó, chủ thể bị thiệt hại có quyền yêu cầu bên gây ra thiệt hại phải bồi
thường, và bên gây ra thiệt hại phải có nghĩa vụ bồi thường. Trong trường
hợp bên gây ra thiệt hại không bồi thường hoặc bồi thường không đúng theo



24

yêu cầu của chủ thể bị thiệt hại, thì chủ thể bị thiệt hại có quyền khởi kiện ra
Tòa án.
Thứ hai, các chế định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng có yếu tố nước ngoài nhằm răn đe, phòng ngừa các hành vi có thể xảy
ra trong tương lai dẫn tới xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể
khác.
Mặc dù các hành vi gây thiệt hại ngoài hợp đồng thường xảy ra một
cách bất ngờ, do chủ quan của chủ thể nhưng thiệt hại xảy ra do những hành
vi này cũng đem lại những hậu quả đáng kể đối với chủ thể bị thiệt hại.
Chính vì thế các chế định này sẽ góp phần giúp các chủ thể tham gia các
quan hệ dân sự tự ý thức trước được hành vi của mình, nhận thức được trách
nhiệm có thể phải gánh chịu nếu để thiệt hại xảy ra, từ đó giảm thiểu những
thiệt hại có thể xảy ra trong tương lai.
Thứ ba, các chế định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng có yếu tố nước ngoài cũng góp phần duy trì mối quan hệ giữa các quốc
gia.
Quan hệ giữa các quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay
không chỉ đơn thuần là sự hợp tác về kinh tế, văn hóa, xã hội mà vấn đề
chính trị cũng đóng một vai trò rất quan trọng trong việc duy trì mối quan hệ
giữa các bên, bởi vậy, việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
nước khác tại Việt Nam một mặt thể hiện sự thiện chí trong việc duy trì quan
hệ giữa hai bên, mặt khác cũng là để bảo vệ quyền và lợi ích của công dân
Việt Nam tại nước ngoài theo nguyên tắc có đi có lại. Vì vậy, các cơ sở pháp
lý liên quan đến các quan hệ có yếu tố nước ngoài nói chung và đặc biệt là
quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài nói riêng
ở Việt Nam càng cần được xây dựng một cách có khoa học, tạo nền tảng
vững chắc cho việc áp dụng trên thực tế và giải quyết các tranh chấp phát
sinh từ các vấn đề này.



25

1.4 Cơ sở pháp lý điều chỉnh bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu
tố nước ngoài ở Việt Nam
Đối với vấn đề cơ sở pháp lý để điều chỉnh bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam hiện nay chủ yếu dựa vào hai
nguồn luật đó là các Điều ước quốc tế song phương mà Việt Nam là thành
viên và pháp luật của Việt Nam.
(i) Điều ước quốc tế song phương mà Việt Nam là thành viên.
Vào thời kì những năm 80, Việt Nam đã ký kết một số các Hiệp định
tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự với một số quốc
gia như Cộng hòa nhân dân Bungary, Cộng hoà nhân dân Hungary, ….trong
đó có các quy định về vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng trong Tư pháp quốc tế. Điều này thể hiện được tầm nhìn của các nhà
làm luật trong việc định hướng được sự phát triển sau này của Việt Nam, và
đây cũng có thể được coi là một trong những nền tảng đầu tiên bảo vệ quyền
và lợi ích của công dân Việt Nam khi tham gia các quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngoài.
Giai đoạn từ những năm 90 tới nay, Việt Nam đã tiếp tục ký kết nhiều
Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự, gia đình và hình sự với nhiều quốc
gia khác trên thế giới, từ đó ngày càng củng cố vững chắc các cơ sở pháp lý
về vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Tư pháp quốc tế của
Việt Nam.
(ii) Pháp luật quốc gia.
Các vấn đề về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Tư pháp
quốc tế Việt Nam đã được thể hiện trong các văn bản pháp luật qua từng thời
kỳ, mà chủ yếu là trong các Bộ luật Dân sự, cụ thể là:
- Trong Bộ luật dân sự năm 1995 và các văn bản hướng dẫn thi hành

như Nghị định 60/NĐ-CP ngày 6 tháng 6 năm 1997 hướng dẫn thi hành các
quy định của Bộ Luật Dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, Nghị


×