Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Luận văn tội chống người thi hành công vụ trong luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (537.86 KB, 84 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÙI HOÀI THƯƠNG

TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2016

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BỘ TƯ PHÁP


2

BÙI HOÀI THƯƠNG

TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Chuyên ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. NGUYỄN NGỌC HOÀ

HÀ NỘI - NĂM 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của


3

luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

XÁC NHẬN CỦA

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN

GS. TS. Nguyễn Ngọc Hoà

Bùi Hoài Thương


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT


4

1. Bộ luật hình sự

:

BLHS

2. Trách nhiệm hình sự:

TNHS

3. Năng lực trách nhiệm hình sự:

NLTNHS

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài


5

Nghiên cứu lịch sử lập pháp hình sự cho thấy, tội chống người thi hành
công vụ tuy chỉ được quy định từ khi có BLHS đầu tiên nhưng nội dung về thi
hành công vụ đã được quy định trong nhiều văn bản trước đó. Điều này thể
hiện sự quan tâm của các nhà lập pháp trong việc bảo vệ tính nghiêm minh,
đúng đắn của pháp luật cũng như bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của

người thi hành công vụ. Đến nay, các quy định về tội chống người thi hành
công vụ đã tương đối hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý cần thiết trong công
tác chống loại tội phạm này.
Tuy nhiên, một số vấn đề có liên quan đến tội danh chống người thi
hành công vụ như: khái niệm “công vụ”, “người thi hành công vụ”, tính trái
pháp luật của công vụ... chưa được quy định rõ ràng, cụ thể trong các văn bản
pháp luật. Do đó, làm phát sinh những khó khăn, vướng mắc khi áp dụng các
quy định của pháp luật trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử tội phạm này.
Trong khi đó, những năm gần đây, tội chống người thi hành công vụ đang có
chiều hướng gia tăng và diễn biến phức tạp cả về số vụ và tính chất phạm tội.
Việc phòng ngừa và đấu tranh chống loại tội phạm này đặt ra yêu cầu có tính
cấp thiết là cần sớm hoàn thiện những điểm bất cập trong BLHS cũng như các
văn bản hướng dẫn về tội chống người thi hành công vụ. Do vậy, tác giả lựa
chọn đề tài “Tội chống người thi hành công vụ trong luật hình sự Việt Nam”
làm đề tài luận văn cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua quá trình nghiên cứu, tác giả nhận thấy các công trình khoa học
nghiên cứu về tội chống người thi hành công vụ hiện nay chủ yếu được thực
hiện theo hai hướng nghiên cứu như sau:
Thứ nhất, nghiên cứu tội chống người thi hành công vụ dưới góc độ tội
phạm học, trong đó có kèm theo việc nghiên cứu khái quát tội phạm này dưới
góc độ luật hình sự làm cơ sở cho nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học. Cụ
thể: Luận văn thạc sĩ của tác giả Hoàng Yến (1996) – trường Đại học Luật Hà
Nội với đề tài “Tội chống người thi hành công vụ – Thực trạng, nguyên nhân


6

và giải pháp”, luận văn thạc sĩ của tác giả Vũ Văn Kiệm (2006) - Khoa Luật
– Đại học Quốc gia Hà Nội với đề tài “Tội chống người thi hành công vụ

trong luật Hình sự Việt Nam và đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này”
và luận văn thạc sĩ của tác giả Lê Như Quỳnh (2013) – Khoa luật Đại học
Quốc gia Hà Nội với đề tài “Tội chống người thi hành công vụ trong luật
hình sự Việt Nam (Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn ở Hà Tĩnh)”. Trong các
luận văn này, phần nghiên cứu tội chống người thi hành công vụ dưới góc độ
luật hình sự chưa toàn diện, cụ thể mà chủ yếu có tính khái quát làm “nền”
cho nội dung nghiên cứu chính là nghiên cứu tội phạm này dưới góc độ tội
phạm học.
Thứ hai, nghiên cứu một số nội dung liên quan đến dấu hiệu pháp lý
của tội chống người thi hành công vụ. Cụ thể: Khái niệm “công vụ” và “người
thi hành công vụ” được nghiên cứu tương đối toàn diện trong bài viết “Vấn
đề thi hành công vụ và chế định phòng vệ chính đáng trong luật hình sự Việt
Nam” của tác giả GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa đăng trên Tạp chí Luật học số 2/
2012 cũng như trong luận văn thạc sĩ của tác giả Mai Thị Thanh Nhung
(2014) – trường Đại học Luật Hà Nội với đề tài “Dấu hiệu thi hành công vụ
trong Bộ luật hình sự Việt Nam”. Ngoài ra, dấu hiệu chống người thi hành
công vụ cũng được nghiên cứu để giúp việc định tội cũng như phân biệt giữa
tội chống người thi hành công vụ với các trường hợp phạm tội khác. Cụ thể:
Bài viết “Phân biệt tội chống người thi hành công vụ với các tội xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm người đang thi hành công vụ hoặc
vì lý do công vụ của nạn nhân” của tác giả Mai Bộ trong Tạp chí Tòa án nhân
dân số 12/ 2012, “Tội chống người thi hành công vụ và một số tội khác có
dấu hiệu chống người thi hành công vụ trong luật hình sự Việt Nam” của tác
giả Th.S. Phạm Văn Báu trong Tạp chí Luật học số 6 năm 2005, “Một số khó
khăn, vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật hình sự để xử lý hành vi chống
người thi hành công vụ” của tác giả Trần Vi Dân, Đào Anh Tới trong Tạp chí
Kiểm sát số 14, tháng 7/2011...


7


Như vậy, điểm chung của tất cả các công trình nghiên cứu về tội chống
người thi hành công vụ ở nước ta hiện nay là đều chưa nghiên cứu chuyên sâu
về tội danh này theo luật hình sự Việt Nam, đặc biệt là theo quy định của
BLHS năm 2015. Khác với các công trình nghiên cứu trước, luận văn của tác
giả nghiên cứu về tội chống người thi hành công vụ chỉ dưới góc độ luật hình
sự, bao gồm dấu hiệu pháp lý và chính sách hình sự thể hiện qua các khung
hình phạt của tội này theo quy định BLHS năm 2015 trong sự so sánh lịch sử
lập pháp Việt Nam cũng như so sánh với pháp luật hình sự một số quốc gia
khác.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn có đối tượng nghiên cứu trước hết và
chủ yếu là các quy định của pháp luật Việt Nam có nội dung liên quan đến
hành vi chống người thi hành công vụ (bao gồm các văn bản luật và dưới
luật). Đồng thời, để có cơ sở thực tiễn, luận văn cũng nghiên cứu một số bản
án về tội chống người thi hành công vụ. Ngoài ra, luận văn cũng có đối tượng
nghiên cứu là các quy định về hành vi phạm tội này trong BLHS một số nước
trên thế giới…
- Phạm vi nghiên cứu: Các văn bản pháp luật của Việt Nam có nội dung
liên quan đến hành vi phạm tội chống người thi hành công vụ được nghiên
cứu là các văn bản pháp luật được ban hành từ năm 1945 đến nay. Pháp luật
hình sự nước ngoài được nghiên cứu là các quy định hiện hành về hành vi
phạm tội chống người thi hành công vụ trong 3 BLHS (BLHS của Trung
Quốc, BLHS của Thụy Điển và BLHS của Cộng hoà liên bang Đức). Các bản
án về tội chống người thi hành công vụ được giới hạn là các bản án được
tuyên theo BLHS năm 1999.

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn



8

Mục đích của luận văn là đánh giá quy định của BLHS năm 2015 về tội
chống người thi hành công vụ và đề xuất ý kiến phục vụ việc triển khai thi
hành quy định này.
Để đạt được mục đích trên, tác giả đã tập trung nghiên cứu, giải quyết
các nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của các quy định về tội
chống người thi hành công vụ trong luật hình sự Việt Nam;
- Phân tích quy định của pháp luật hình sự một số nước trên thế giới về
hành vi chống người thi hành công vụ;
- Phân tích các dấu hiệu pháp lý và dấu hiệu định khung tăng nặng của
tội chống người thi hành công vụ trong BLHS năm 2015;
- Đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội
chống người thi hành công vụ trong BLHS năm 1999.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Để đạt được những mục tiêu trên của luận văn, tác giả đã đặt ra những
câu hỏi nghiên cứu sau:
- Các quy định về tội chống người thi hành công vụ được thể hiện như
thế nào trong các văn bản pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay?
- BLHS của một số nước khác quy định về hành vi chống người thi
hành công vụ như thế nào?
- Các dấu hiệu pháp lý của tội chống người thi hành công vụ được thể
hiện trong BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015 như thế nào?
- Tội chống người thi hành công vụ được phân biệt với một số tội khác
có dấu hiệu “chống người thi hành công vụ” như thế nào?
- Thực tiễn áp dụng quy định về tội chống người thi hành công vụ theo
BLHS năm 1999 thường gặp khó khăn, vướng mắc như thế nào?
- Những khó khăn, vướng mắc này được khắc phục trong BLHS năm
2015 như thế nào?



9

- Để việc triển khai áp dụng quy định về tội chống người thi hành công
vụ theo BLHS năm 2015 có hiệu quả, tác giả có kiến nghị, đề xuất gì?
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được tác giả thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận khoa
học của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận văn để
thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu là phương pháp phân tích, phương pháp tổng
hợp, phương pháp so sánh... Phương pháp phân tích được tác giả sử dụng
xuyên suốt các chương, mục trong luận văn và đặc biệt là trong Chương 2 khi
phân tích các dấu hiệu pháp lý và các dấu hiệu định khung hình phạt tăng
nặng của tội chống người thi hành công vụ theo BLHS năm 2015. Phương
pháp so sánh được áp dụng khi nghiên cứu pháp luật hình sự một số nước trên
thế giới về hành vi chống người thi hành công vụ và khi phân biệt giữa tội
chống người thi hành công vụ với các hành vi phạm tội khác. Phương pháp
tổng hợp được sử dụng tại phần kết luận các chương và kết luận của luận văn.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Đây là công trình khoa học nghiên cứu ở cấp độ thạc sĩ một cách tương
đối đầy đủ các vấn đề về tội chống người thi hành công vụ theo pháp luật
hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến thời điểm BLHS năm 2015 được ban
hành. Kết quả nghiên cứu và những kiến nghị của luận văn có ý nghĩa góp
phần triển khai thi hành quy định của BLHS năm 2015 về tội chống người thi
hành công vụ.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được kết cấu gồm 3 chương:
- Chương 1: Những vấn đề chung về tội chống người thi hành công vụ

- Chương 2: Tội chống người thi hành công vụ theo quy định của Bộ
luật hình sự năm 2015 trong sự so sánh với Bộ luật hình sự 1999


10

- Chương 3: Thực tiễn áp dụng quy định về tội chống người thi hành
công vụ theo Bộ luật hình sự năm 1999 và việc triển khai áp dụng quy định
này theo Bộ luật hình sự năm 2015.


11

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ
TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
1.1. Những khái niệm có liên quan đến tội chống người thi hành công vụ
1.1.1. Khái niệm công vụ
Công vụ là thuật ngữ được xem xét đánh giá từ nhiều góc độ khác
nhau. Do đó, công vụ được hiểu theo các phạm vi rộng hẹp khác nhau. Theo
cách hiểu chung nhất, công vụ là các việc công. Các việc này được thực hiện
vì lợi ích chung, lợi ích cộng đồng, lợi ích xã hội, lợi ích của nhà nước.
Ở nước ta hiện nay, trong các văn bản pháp luật, thuật ngữ “công vụ”
cũng chưa được hiểu thống nhất. Thuật ngữ “công vụ” đã được ghi nhận trong
một số văn bản pháp luật sau đây:
Thứ nhất, Nghị quyết số 04-HĐTPTANDTC/NQ của Hội đồng thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao ngày 29/11/1985 xác định: “Công vụ là một
công việc mà cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội giao cho một người thực
hiện”. Có thể nói rằng, đây là quy định về “công vụ” theo nghĩa rộng, không
giới hạn phạm vi lĩnh vực công vụ, không giới hạn về phạm vi chủ thể của

công vụ.
Thứ hai, Điều 2 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định: “Hoạt
động công vụ của cán bộ, công chức là việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của cán bộ, công chức theo quy định của Luật này và các quy định khác có
liên quan”. Quy định này đã chỉ ra đặc điểm quan trọng nhất của công vụ và
giới hạn phạm vi chủ thể của hoạt động công vụ. Về bản chất, công vụ là hoạt
động được tiến hành trên cơ sở pháp luật nhằm thực hiện các chức năng của
Nhà nước vì lợi ích xã hội, lợi ích nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và
cá nhân. Do đó, tính đúng pháp luật là đặc điểm quan trọng nhất của “công
vụ”. Định nghĩa này cũng giới hạn phạm vi chủ thể được giao công vụ chỉ
trong phạm vi đối tượng là cán bộ, công chức.


12

Thứ ba, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2010 tuy
không quy định trực tiếp về “công vụ” nhưng có nội dung xác định “người thi
hành công vụ”. Theo đó, “Người thi hành công vụ là người được bầu cử, phê
chuẩn, tuyển dụng hoặc bổ nhiệm vào một vị trí trong cơ quan nhà nước để
thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án hoặc người khác
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao thực hiện nhiệm vụ có liên quan
đến hoạt động quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án”. Điều luật này đã
giới hạn phạm vi lĩnh vực của công vụ chỉ là quản lý hành chính, tố tụng và
thi hành án.
Tác giả cho rằng việc giới hạn phạm vi của công vụ chỉ trong ba lĩnh
vực là quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án là phù hợp. Hoạt động quản
lý nhà nước trong những lĩnh vực này hầu hết thông qua các quyết định cá
biệt, có tính chất mệnh lệnh – phục tùng và tác động tới từng cá nhân cụ thể.
Cũng chính vì vậy, chủ thể của các hoạt động này dễ bị các cá nhân bị tác
động của công vụ chống lại, gây thiệt hại. 1

Từ ba định nghĩa trên, có thể thấy đặc điểm của công vụ là tính đúng
pháp luật và được giới hạn trong phạm vi nhất định bao gồm giới hạn về
phạm vi chủ thể của công vụ và giới hạn về phạm vi lĩnh vực của công vụ. Từ
các đặc điểm này, tác giả đồng tình với quan điểm về “công vụ” của GS.TS.
Nguyễn Ngọc Hoà: “Công vụ là hoạt động theo đúng pháp luật của chủ thể
được cơ quan nhà nước giao nhằm thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước bao
gồm quản lý hành chính, tố tụng hoặc thi hành án.” 2
Theo đó, công vụ phải là hoạt động quản lý nhà nước và đúng pháp
luật, tức là những hoạt động được thực hiện dựa trên cơ sở quy định của pháp
luật bao gồm pháp luật nội dung và pháp luật hình thức. Phạm vi lĩnh vực của
hoạt động công vụ được giới hạn trong ba lĩnh vực quản lý hành chính, tố
1 Mai Thị Thanh Nhung (2014), Luận văn Thạc sĩ luật học, Dấu hiệu thi hành công vụ trong Bộ luật hình sự
Việt Nam, trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 15.
2 Nguyễn Ngọc Hòa (2012), Vấn đề thi hành công vụ và chế định phòng vệ chính đáng trong luật hình sự
Việt Nam, Tạp chí Luật học (02), tr. 26.


13

tụng và thi hành án. Chủ thể của công vụ là người thuộc các cơ quan nhà
nước hoặc được cơ quan nhà nước giao quyền thực hiện những nhiệm vụ nhất
định.
Với cách hiểu trên đây về công vụ thì đặc điểm quan trọng nhất của
công vụ là tính đúng pháp luật. Muốn được coi là công vụ thì hoạt động phải
đúng pháp luật và được biểu hiện thông qua nội dung hoạt động đúng pháp
luật, thủ tục thực hiện đúng pháp luật và người thực hiện có thẩm quyền theo
đúng pháp luật. Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật được coi là một trong các
nguyên tắc của hoạt động công vụ. Hoạt động không đúng pháp luật là hoạt
động “làm trái công vụ” và rõ ràng không phải là công vụ. 3
Như vậy, trong trường hợp người thi hành công vụ có hoạt động làm

trái công vụ thì hành vi không được xem là hành vi thực hiện công vụ và dẫn
đến người thực hiện cũng không được coi là người thi hành công vụ. Việc xác
định chính xác thế nào là hoạt động “công vụ” có ý nghĩa quan trọng trong
việc xác định dấu hiệu “người thi hành công vụ”.
1.1.2. Khái niệm người thi hành công
Do quan điểm về “công vụ” còn chưa được thống nhất nên “người thi
hành công vụ” được quy định trong các văn bản pháp luật cũng khác nhau. Cụ
thể:
Thứ nhất, Nghị quyết 04-HĐTPTANDTC/NQ ngày 29/11/1986 của
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy
định trong phần các tội phạm của BLHS quy định: “Người thi hành công vụ
là người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội,
thực hiện chức năng, nghiệp vụ của mình và cũng có thể là những công dân
được huy động làm nghiệp vụ (như: tuần tra, canh gác…) theo kế hoạch của
cơ quan có thẩm quyền, phục vụ lợi ích chung của Nhà nước, của xã hội”.
Theo đó, Nghị quyết xác định người thi hành công vụ có thể là:

3 Nguyễn Ngọc Hòa, tlđd chú thích 2, tr. 26.


14

- Người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã
hội thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
- Những công dân được huy động làm nhiệm vụ theo kế hoạch của cơ
quan có thẩm quyền.
Tuy nhiên, như đã xác định, “công vụ” chỉ là hoạt động quản lý của cơ
quan nhà nước và chủ thể của công vụ chỉ được giới hạn là người thuộc các
cơ quan nhà nước hoặc được cơ quan nhà nước giao. Tổ chức xã hội chỉ tham
gia hoạt động quản lý nhà nước nhưng không phải chủ thể của quản lý nhà

nước. Do đó, việc quy định thành viên của tổ chức xã hội là chủ thể của công
vụ như Nghị quyết là không hợp lý.
Thứ hai, khoản 1 Điều 3 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
năm 2010 quy định: “Người thi hành công vụ là người được bầu cử, phê
chuẩn, tuyển dụng hoặc bổ nhiệm vào một vị trí trong cơ quan nhà nước để
thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án hoặc người khác
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao thực hiện nhiệm vụ có liên quan
đến hoạt động quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án”.
Thứ ba, khoản 1 Điều 3 Nghị định 208/2013/NĐ-CP ngày 17/12/2013
của Chính phủ quy định các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý hành
vi chống người thi hành công vụ xác định người thi hành công vụ “… là cán
bộ, công chức, viên chức, sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ lực lượng vũ trang
nhân dân được cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền giao thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật và được pháp luật bảo vệ
nhằm phục vụ lợi ích của Nhà nước, nhân dân và xã hội”.
Từ những định nghĩa trên, tác giả rút ra một số đặc điểm của người thi
hành công vụ như sau:
- Thứ nhất, người thi hành công vụ là người có thẩm quyền thực hiện
công vụ nhất định, bao gồm hai nhóm là:


15

+ Người được bầu cử, phê chuẩn, tuyển dụng hoặc bổ nhiệm vào một
vị trí trong cơ quan nhà nước thuộc lĩnh vực quản lý hành chính, tố tụng, thi
hành án;
+ Người tuy không được bầu cử, phê chuẩn, tuyển dụng hoặc bổ nhiệm
vào làm việc trong các cơ quan nhà nước nhưng được các cơ quan nhà nước
hay người có chức vụ quyền hạn giao thực hiện một nhiệm vụ quản lý nhà
nước trong lĩnh vực quản lý hành chính, tố tụng hoặc thi hành án.

Dù người thi hành công vụ thuộc nhóm 1 hay nhóm 2 thì họ vẫn có đặc
điểm chung là có thẩm quyền thực hiện công vụ nhất định. Tư cách pháp lý là
điều kiện tiên quyết để cá nhân trở thành người thi hành công vụ và quyền
hạn là cơ sở, điều kiện để thực hiện công vụ nhất định.
Trong đó, quyền hạn được hiểu là quyền lực pháp lý của nhà nước
trong một phạm vi nhất định được trao cho các tổ chức, cá nhân để thực thi
công vụ. Nói cách khác, đó là quyền đã được xác định về nội dung, mức độ
và luôn gắn liền với công việc được giao. Quyền hạn này có thể phát sinh từ
vị trí công tác thường xuyên của người thi hành công vụ và trên cơ sở phù
hợp với công vụ cụ thể được giao thực hiện.4
Trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, quyền hạn là yếu tố cần
thiết để thực hiện công vụ, nhưng quyền hạn được trao phải phù hợp với công
vụ. Nếu công vụ được giao không kèm theo đầy đủ các quyền hạn thì sẽ có
không ít công vụ không được thực hiện và như vậy mục tiêu chung của cơ
quan nhà nước sẽ không đạt được, ngược lại khi có nhiều quyền hạn mà quá ít
công vụ phải thực hiện thì có thể sinh ra lạm quyền.
Thứ hai, người thi hành công vụ phải đang thực hiện một công vụ nhất
định. Một người được xác định là người thi hành công vụ không chỉ vì người
đó có thẩm quyền trong việc thực hiện công vụ nhất định. Nội dung này chỉ
khẳng định một người có thể là người thi hành công vụ vì họ có vị trí công tác
có thẩm quyền tiến hành công vụ. Họ chỉ thực sự là người thi hành công vụ
4 Mai Thị Thanh Nhung, tlđd chú thích 1, tr. 17.


16

khi đang thực hiện công vụ (hoạt động đúng pháp luật) theo đúng thẩm
quyền. Nội dung thứ hai này thường bị bỏ qua ngay cả trong các quy định của
các văn bản pháp luật nêu trên. “Đang thực hiện công vụ” được hiểu là người
có thẩm quyền đã bắt đầu thực hiện công vụ nhưng chưa kết thúc. Nếu việc

thực hiện công vụ chưa bắt đầu hoặc đã kết thúc thì không còn là “đang thực
hiện công vụ”. Như vậy, người thi hành công vụ luôn gắn liền với công vụ cụ
thể; việc xác định người thi hành công vụ đặt ra yêu cầu cần xác định sự tồn
tại của một công vụ thực tế và công vụ đó đang được thực hiện một cách đúng
pháp luật bởi một chủ thể theo đúng thẩm quyền được giao.5
Thứ ba, việc thực hiện công vụ của cá nhân phải đúng pháp luật. Đặc
điểm đúng pháp luật này xuất phát từ bản chất của công vụ. Người thi hành
công vụ theo đúng nghĩa phải là người thực hiện hoạt động đúng pháp luật cả
về nội dung, hình thức và thẩm quyền. 6 Cụ thể, nội dung hoạt động phải
đúng pháp luật; trình tự, thủ tục thực hiện phải đúng pháp luật và người thực
hiện phải có thẩm quyền theo đúng pháp luật.
Dựa trên các đặc điểm trên, tác giả đưa ra định nghĩa về người thi hành
công vụ như sau: “Người thi hành công vụ là người được bầu cử, phê chuẩn,
tuyển dụng hoặc bổ nhiệm vào một vị trí trong cơ quan nhà nước hoặc người
khác đang tiến hành các hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực quản lý
hành chính, tố tụng, thi hành án theo đúng pháp luật và đúng thẩm quyền do
cơ quan nhà nước giao”.
Trên thực tế, chúng ta có thể nhận biết được một người đang thi hành
công vụ căn cứ vào các dấu hiệu rõ ràng về đồng phục đặc trưng của công vụ,
giấy tờ hợp pháp, đeo phù hiệu hoặc thẻ nghề nghiệp… trong trường hợp
không có những dấu hiệu đó thì người đang thi hành công vụ phải được mọi
người hoặc ít nhất là người thực hiện hành vi phạm tội biết rõ tư cách của
mình.

5 Mai Thị Thanh Nhung, tlđd chú thích 1, tr. 17.
6 Mai Thị Thanh Nhung, tlđd chú thích 1, tr. 18.


17


1.1.3. Dấu hiệu chống người thi hành công vụ
- Từ điển Luật học định nghĩa: “Chống người thi hành công vụ là (hành
vi) cản trở người thi hành công vụ thực hiện nhiệm vụ của mình bằng thủ
đoạn dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc là hành vi cưỡng ép người đó
thực hiện hành vi trái pháp luật”.7
- Khoản 2 Điều 3 Nghị định 208/2013/NĐ-CP quy định: “Hành vi chống
người thi hành công vụ là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc
không chấp hành hiệu lệnh, yêu cầu của người thi hành công vụ hoặc có hành
vi khác nhằm cản trở người thi hành công vụ thực hiện nhiệm vụ được giao
hoặc ép buộc người thi hành công vụ không thực hiện nhiệm vụ được giao”.
- Khoản 1 Điều 330 BLHS năm 2015 cũng miêu tả hành vi khách quan
của tội chống người thi hành công vụ như sau: “dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ
lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công
vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật”.
Như vậy, hành vi chống người thi hành công vụ là hành vi cản trở người
thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc cưỡng ép người thi hành
công vụ thực hiện hành vi trái pháp luật bằng các thủ đoạn khác nhau (như
dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần). Có
thể thấy bản chất của hành vi chống người thi hành công vụ là chống việc thi
hành công vụ, cản trở hoạt động thi hành công vụ, thực thi pháp luật hay nói
cách khác đây là hành vi xâm phạm đến hoạt động bình thường của các cơ
quan, tổ chức, làm giảm hiệu lực quản lý của các cơ quan, tổ chức đó và có
thể xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín của chính
người thi hành công vụ. Dù dùng thủ đoạn nào thì hành vi chống người thi
hành công vụ là nhằm cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ hoặc
ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật để bảo vệ lợi ích của người phạm
tội. Nguyên nhân của hành vi chống người thi hành công vụ có thể do việc thi
hành công vụ của người có chức vụ, quyền hạn ảnh hưởng đến lợi ích của
7 Bộ Tư pháp, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 143.



18

người có hành vi đó hoặc do hành vi sai trái, hống hách coi thường pháp luật
của người thi hành công vụ hoặc đơn thuần so sự coi thường pháp luật của
người chống người thi hành công vụ.
1.1.4. Khái niệm tội chống người thi hành công vụ
Từ những nội dung được phân tích tại mục 1.1.2 và 1.1.3 cũng như từ
cách hiểu của từ “chống”, tác giả định nghĩa tội chống người thi hành công vụ
như sau: Tội chống người thi hành công vụ là hành vi cố ý cản trở người thi
hành công vụ thực hiện nhiệm vụ thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước về hành
chính, tố tụng và thi hành án.
Từ định nghĩa này, có thể rút ra một số đặc điểm của tội chống người
thi hành công vụ như sau:
Thứ nhất, tội chống người thi hành công vụ xâm phạm hoạt động quản
lý nhà nước trong lĩnh vực hành chính, tố tụng và thi hành án, xâm phạm sự
hoạt động bình thường của cơ quan nhà nước, làm giảm hiệu quả quản lý của
các cơ quan này. Quan hệ xã hội bị tội chống người thi hành công vụ xâm hại
là quan hệ liên quan trực tiếp đến các hoạt động “công vụ”, là hoạt động
thuộc lĩnh vực quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án (như đã phân tích tại
mục 1.1.1 của luận văn). Tội chống người thi hành công vụ xâm hại đến các
quan hệ xã hội trên thông qua việc tác động trực tiếp đến người đang thi hành
công vụ.
Thứ hai, chủ thể của tội chống người thi hành công vụ là chủ thể bình
thường, chỉ đòi hỏi thỏa mãn điều kiện về năng lực trách nhiệm hình sự (đủ
tuổi chịu TNHS theo quy định của luật và không thuộc trường hợp trong tình
trạng mất năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển do mắc bệnh).
Thứ ba, hành vi phạm tội của tội này là hành vi cố ý có khả năng cản
trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ. Trong đó, “cản trở
người thi hành công vụ” có thể được hiểu là:

- Làm họ không thực hiện được công vụ hoặc
- Làm họ thực hiện hành vi trái với công vụ.


19

Việc cản trở này có thể được thực hiện bằng các thủ đoạn như dùng vũ
lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác có khả năng cản trở người thi
hành công vụ. Trong đó,
- Dùng vũ lực được hiểu là sự tác động vào cơ thể của người thi hành
công vụ (có hoặc không sử dụng công cụ, phương tiện) như đấm, đá, trói hoặc
đánh bằng gậy, chém bằng dao …
- Đe dọa dùng vũ lực được hiểu là sự tác động bằng cử chỉ, lời nói có
tính răn đe, uy hiếp tinh thần để làm cho người thi hành công vụ lo sợ vũ lực
sẽ xảy ra …
- Thủ đoạn khác được hiểu là các thủ đoạn tuy không phải là dùng vũ
lực hay đe dọa dùng vũ lực nhưng vẫn có thể uy hiếp được tinh thần người thi
hành công vụ như đe doạ sẽ công bố những tin tức, tài liệu bất lợi cho người
thi hành công vụ hoặc cho người thân thích của họ, đe doạ huỷ hoại tài sản;
cởi bỏ quần áo trước người đang thi hành công vụ; tự gây thương tích hoặc
giả gây thương tích để vu khống bị người thi hành công vụ hành hung...
Lỗi của người phạm tội chống người thi hành công vụ là lỗi cố ý trực
tiếp. Người phạm tội nhận thức được đầy đủ hành vi trái pháp luật của mình
là cản trở việc thực hiện công vụ của người thi hành công vụ và mong muốn
người đang thi hành công vụ không thể hoàn thành công vụ mà họ được giao.
Từ các đặc điểm chung trên đây, nhà làm luật có thể xây dựng cấu
thành tội phạm của tội chống người thi hành công vụ theo các mô hình khác
nhau với thời điểm hoàn thành của tội phạm khác nhau. Trong đó, có thể xây
dựng dấu hiệu hành vi là thủ đoạn dùng vũ lực, thủ đoạn đe dọa dùng vũ lực
và thủ đoạn khác và dấu hiệu mục đích phạm tội là “cản trở người thi hành

công vụ thực hiện công vụ” (không thực hiện được công vụ hoặc thực hiện
hành vi trái công vụ).
1.2. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội chống
người thi hành công vụ


20

1.2.1. Quy định về tội chống người thi hành công vụ trong giai đoạn từ
năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời đánh dấu một mốc lịch sử
quan trọng trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc. Ngay từ khi
ra đời, Nhà nước ta đã nhận thức được tầm quan trọng của pháp luật trong
việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, nhất là trong thời kỳ đất nước còn
gặp nhiều khó khăn. Trong giai đoạn này, nước ta chưa có BLHS mà chỉ có
các văn bản pháp luật riêng lẻ quy định các vấn đề hình sự. Tuy nhiên, lúc
này, tội chống người thi hành công vụ chưa được quy định thành tội phạm
riêng mà chỉ được gián tiếp đề cập trong các văn bản pháp luật bảo vệ tính
mạng, sức khỏe của con người nói chung. Cụ thể:
- Điều 6 Sắc lệnh số 151-SL ngày 12/4/1953 trừng trị địa chủ chống
pháp luật quy định:
“Địa chủ nào phạm một trong những tội sau đây:
1) Cấu kết với đế quốc, ngụy quyền, gián điệp thành lập hay cầm đầu
những tổ chức, những đảng phái phản động để chống Chính phủ, phá hoại
kháng chiến, làm hại nhân dân, giết hại nông dân, cán bộ và nhân viên;… thì
sẽ bị phạt tù từ 10 năm đến chung thân hoặc xử tử hình…”.
- Điều 14 Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng năm 1967 quy
định về tội phá rối trật tự, an ninh như sau:
“1. Kẻ nào vì mục đích phản cách mạng mà kích động, lôi kéo, tụ tập
nhiều người nhằm phá rối trật tự, an ninh, ngăn trở cán bộ, nhân viên nhà

nước, bộ đội, công an thi hành nhiệm vụ thì bị phạt tù từ 5 năm đến 12 năm”.
- Công văn số 452-HS2 ngày 10/8/1970 của Tòa án nhân dân tối cao về
thực tiễn xét xử tội giết người quy định những tình tiết tăng nặng đặc biệt của
tội giết người. Trong đó, có tình tiết “giết người được giao nhiệm vụ công tác
hoặc trong khi nạn nhân thi hành nhiệm vụ”.
- Điều 9 Sắc lệnh số 03-SL/76 ngày 15/3/1976 của Hội đồng Chính phủ
cách mạng lâm thời quy định dấu hiệu của Tội xâm phạm đến trật tự công


21

cộng, an toàn công cộng và sức khoẻ của nhân dân. Trong đó, có dấu hiệu
“…chống lại nhân viên nhà nước khi làm nhiệm vụ”.
Những quy định gián tiếp về hành vi chống người thi hành công vụ
trong giai đoạn này tuy chưa thực sự cụ thể, rõ ràng nhưng là cơ sở cho những
quy định về tội chống người thi hành công vụ sau này. Những quy định này
cũng thể hiện sự quan tâm của các nhà lập pháp trong việc bảo vệ quyền và
lợi ích chính đáng của người thi hành công vụ.
1.2.2. Quy định về tội chống người thi hành công vụ theo Bộ luật hình
sự năm 1985
Năm 1985 đánh dấu một mốc quan trọng trong lịch sử lập pháp của
nước ta, BLHS đầu tiên của nước Việt Nam được ban hành. Trong khoảng 15
năm tồn tại, BLHS năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung 4 lần vào các năm
1989, 1991, 1992 và 1997. So với pháp luật hình sự trong những giai đoạn
trước thì BLHS năm 1985 có phạm vi điều chỉnh rộng hơn, với những quy
định rõ ràng về tội phạm và hình phạt.
Trong BLHS năm 1985, tội chống người thi hành công vụ được quy
định thành một tội danh riêng tại Điều 205 trong Mục C – Các tội xâm phạm
trật tự quản lý hành chính của Chương VIII. Các tội xâm phạm an toàn, trật tự
công cộng và trật tự quản lý hành chính. Bên cạnh đó, dấu hiệu chống người

thi hành công vụ còn được quy định tại Điều 83 – Tội phá rối an ninh, Điều
101 - Tội giết người và Điều 109 - Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
sức khoẻ cho người khác. Cụ thể, Điều 205 quy định về tội chống người thi
hành công vụ như sau:
“1- Người nào dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực chống người thi hành
công vụ cũng như dùng mọi thủ đoạn cưỡng ép họ thực hiện những hành vi
trái pháp luật, nếu không thuộc trường hợp quy định ở Điều 101 và Điều 109,
thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng
đến ba năm.


22

2- Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai năm đến mười
năm.”
Hành vi khách quan của tội chống người thi hành công vụ đã được
hướng dẫn cụ thể tại Nghị quyết số 04-HĐTPTANDTC/NQ ngày 29/11/1986
như sau:
“- Dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực chống người thi hành công vụ
như đánh, trói… nhưng chưa gây chết người, thương tích hoặc tổn hại sức
khỏe của người thi hành công vụ hoặc đe dọa sẽ đánh, trói… người đó.
- Dùng mọi thủ đoạn cưỡng ép người thi hành công vụ thực hiện những
hành vi trái pháp luật như: dùng số đông người lấy danh nghĩa thương binh
cưỡng ép cán bộ quản lý thị trường cho đem hàng hóa đầu cơ đang bị tạm
giữ, cưỡng ép cán bộ kiểm lâm cho chở gỗ khai thác trái phép đang bị tạm
giữ…”
Dấu hiệu “hậu quả nghiêm trọng” quy định tại khoản 2 Điều 205 BLHS
năm 1985 cũng được Nghị quyết giải thích như sau: “Hậu quả nghiêm trọng
(quy định ở khoản 2) có thể là: người thi hành công vụ không hoàn thành
được nhiệm vụ; việc chấp hành pháp luật ở địa phương hoặc khu vực trở nên

lỏng lẻo; kẻ xấu lợi dụng cơ hội reo rắc dư luận gây ảnh hưởng xấu.”
Có thể nói việc quy định tội chống người thi hành công vụ thành một
tội danh độc lập trong BLHS năm 1985 của nước ta là một bước tiến quan
trọng của hoạt động lập pháp nước ta. Nó chứng tỏ rằng, Nhà nước ta rất quan
tâm đến việc bảo vệ tính nghiêm minh của pháp luật, danh dự và uy tín của
những người thực hiện chức trách mà Nhà nước giao.
1.2.3. Quy định về tội chống người thi hành công vụ theo Bộ luật hình
sự năm 1999
Năm 1999, BLHS thứ hai của nước ta được ban hành. Sự ra đời của
BLHS năm 1999 thể hiện một bước phát triển mới của pháp luật hình sự Việt
Nam, góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn


23

xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đấu tranh phòng chống
tội phạm trên địa bàn cả nước.
Trên cơ sở kế thừa BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 quy định tội
chống người thi hành công vụ tại Điều 257 thuộc Chương XX – Các tội xâm
phạm trật tự quản lý hành chính.
Điều 257 BLHS năm 1999 quy định tội chống người thi hành công vụ
như sau:
“1. Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn
khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc
họ thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba
năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
hai năm đến bảy năm :
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội nhiều lần;

c) Xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội;
d) Gây hậu quả nghiêm trọng;
đ) Tái phạm nguy hiểm.”
So sánh quy định về tội chống người thi hành công vụ trong BLHS
năm 1985 với quy định tương ứng trong BLHS năm 1999, có thể nhận ra
những thay đổi giữa hai điều luật như sau:
- Khoản 1 Điều 257 BLHS năm 1999 bỏ nội dung “nếu không thuộc
trường hợp quy định ở Điều 101 và Điều 109” đã được quy định trong khoản
1 Điều 205 BLHS năm 1985 vì nội dung này không cần thiết.
- Khoản 1 Điều 257 BLHS năm 1999 bổ sung thêm “thủ đoạn khác cản
trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ” ngoài hành vi “dùng vũ
lực, đe doạ dùng vũ lực chống người thi hành công vụ cũng như dùng mọi thủ
đoạn cưỡng ép họ thực hiện hành vi trái pháp luật” như khoản 1 Điều 205


24

BLHS năm 1985 đã quy định. Sự bổ sung này là cần thiết để mô tả cụ thể và
rõ ràng hơn mặt khách quan của tội chống người thi hành công vụ.
- Về hình phạt: Cả hai BLHS đều quy định hai khung hình phạt nhưng
BLHS năm 1999 đã nâng mức hình phạt cải tạo không giam giữ từ 1 năm lên
thành 3 năm (khung cơ bản) và hạ mức tối đa của khung hình phạt từ 10 năm
xuống còn 7 năm (khung tăng nặng). Việc điều chỉnh này nhằm đảm bảo sự
phù hợp với thực tế của tội phạm. Ngoài ra, BLHS năm 1999 bổ sung một số
tình tiết định khung hình phạt tăng nặng ngoài tình tiết phạm tội gây hậu quả
nghiêm trọng được quy định trong BLHS năm 1985. Đó là tình tiết: Phạm tội
có tổ chức; phạm tội nhiều lần; xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm
tội; tái phạm nguy hiểm. Đây là những tình tiết thường gặp trong các vụ án
chống người thi hành công vụ. Do vậy, việc bổ sung các tình tiết này có ý
nghĩa tích cực trong việc truy cứu TNHS người phạm tội, khắc phục hạn chế

của BLHS năm 1985 trong việc quy định tội chống người thi hành công vụ.
Nhìn chung những quy định của BLHS năm 1999 về tội chống người
thi hành công vụ đã có sự cụ thể và rõ ràng hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho
xét xử, đặc biệt là những quy định cụ thể tại khoản 2.
1.2.4. Quy định về tội chống người thi hành công vụ theo Bộ luật Hình
sự năm 2015
Ngày 27/11/2015, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã thông qua
BLHS số 100/2015/QH13 (sau đây được gọi là BLHS năm 2015). Trong
BLHS này, tội chống người thi hành công vụ được quy định tại Điều 330 với
nội dung như sau:
“1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn
khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc
họ thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03
năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
02 năm đến 07 năm:


25

a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội;
d) Gây thiệt hại về tài sản 50.000.000 đồng trở lên;
đ) Tái phạm nguy hiểm.”
Nhìn chung, quy định về tội chống người thi hành công vụ của BLHS
năm 2015 không có thay đổi so với BLHS năm 1999. Điều 330 BLHS năm
2015 chỉ cụ thể hoá tình tiết định khung tăng nặng hình phạt được quy định
tại điểm d khoản 2 Điều 257 BLHS năm 1999. Theo đó, ‘gây hậu quả nghiêm
trọng” được cụ thể hóa là “Gây thiệt hại về tài sản 50.000.000 đồng trở lên”.

1.3. Quy định của pháp luật hình sự một số nước về hành vi chống
người thi hành công vụ
1.3.1. Bộ luật hình sự nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa
BLHS nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa (sau đây gọi tắt là BLHS
Trung Hoa) có kết cấu gồm 2 phần (Phần chung và Phần các tội phạm), 15
chương, 37 mục với 452 điều luật. Hành vi chống người thi hành công vụ
được ghi nhận tại Điều 277 thuộc Mục 1- Tội gây rối trật tự công cộng –
Chương VI – Tội xâm phạm trật tự quản lý xã hội như sau:
“Người nào dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực nhằm cản trở nhân
viên cơ quan nhà nước thi hành nhiệm vụ thì bị phạt tù đến 3 năm, cải tạo lao
động, quản chế hoặc bị phạt tiền.
Nếu dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực nhằm cản trở đại biểu Đại
hội nhân dân các cấp địa phương và đại biểu Đại hội nhân dân toàn quốc thi
hành nhiệm vụ đại biểu, thì sẽ bị xử phạt theo quy định trên.
Người nào dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực nhằm cản trở nhân
viên chữ thập đỏ thực hiện nhiệm vụ trong hoàn cảnh xảy ra thiên tai hoặc
trong trường hợp khẩn cấp, thì sẽ bị xử phạt theo quy định tại khoản 1 Điều
này.


×