Tải bản đầy đủ (.doc) (145 trang)

Phát triển công nghiệp hỗ trợ trên địa bàn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 145 trang )

i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận án là trung thực và chưa từng
được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Thái Nguyên, tháng

năm 2018

Phùng Ngọc Tám


ii

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng và cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo, các Phòng, Bộ
môn và các Thầy giáo, Cô giáo, cán bộ Trường Đại học Y Dược – Đại học Thái
Nguyên đã trang bị cho tôi kiến thức, tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận án.
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân
thành tới PGS.TS Nguyễn Tuấn Hưng – Vụ Tổ Chức Cán Bộ - Bộ Y Tế; PGS.TS Đàm
Thị Tuyết – Trưởng Khoa Y tế công cộng Trường Đại học Y Dược – Đại học Thái
Nguyên, là những người Thầy, Cô đã dành nhiều thời gian hướng dẫn, tận tình chỉ bảo
và định hướng cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành Luận án.

Tôi xin trân trọng cảm ơn các nhà khoa học, các cán bộ và nhân viên Khoa Y
tế công cộng, Ban giám hiệu Trường Trung cấp Y tế Bến Tre đã giúp đỡ và tạo điều
kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu đề tài Luận án.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám đốc Sở Y Tế tỉnh Bến Tre, Ban giám đốc


Trung Tâm Y Tế Dự Phòng tỉnh Bến Tre, Ban giám đốc Trung Tâm Y tế huyện Châu
Thành, Ban giám đốc Trung Tâm Y tế huyện Mỏ Cày Nam, các anh, chị, em cán bộ,
nhân viên y tế xã và các anh, chị, em cộng tác viên xã hội đã nhiệt tình hợp tác,
giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập số liệu nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu hoàn thành Luận án, tôi đã nhận được sự động
viên, chia sẻ, giúp đỡ của gia đình, anh, chị, em, bạn bè, đồng nghiệp, những người
thân. Tôi xin phép được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc.
Xin trân trọng cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng

năm 2018

Phùng Ngọc Tám


iii

BẢNG CÁC KÝ HIỆU, BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt
Ae. aegypti
Ae. albopictus
BI

Ý nghĩa chữ
Aedes aegypti
Aedes albopictus
Breteau Index
(Chỉ số DCCN có bọ gậy/lăng quăng/100 nhà điều tra)

CI


Container Index
(Chỉ số DCCN có bọ gậy/ 100 DCCN điều tra)

CSHQ

Chỉ số hiệu quả

CSMĐM

Chỉ số mật độ muỗi

CSMĐBG

Chỉ số mật độ bọ gậy

CBYT

Cán bộ y tế

COMBI

Applying Commmunication-for-Behavioural-Impact
(Áp dụng truyền thông tác động về hành vi)

CTV

Cộng tác viên

DEN-1


Dengue typ 1

DEN-2

Dengue typ 2

DEN-3

Dengue typ 3

DEN-4

Dengue typ 4

DI

Density Index (Chỉ số mật độ muỗi/ Số nhà điều tra)

DCCN

Dụng cụ chứa nước

DCPT

Dụng cụ phế thải

ELISA

Enzyme Linked Immunorbent Assay

(Thử nghiệm miễn dịch gắn men)

HGĐ

Hộ gia đình

HI

House Index


iv

(Chỉ số nhà có bọ gậy/lăng quăng/100 nhà điều tra)
HQCT

Hiệu quả can thiệp

IgG, IgM

Immunoglobulin ( Kháng thể)

KAP

Knowledge- Attitude- Practice (Kiến thức- Thái độ- Thực hành)

LQ-BG

Lăng quăng/bọ gậy


PAHO

Pan American Health Organization (Tổ chức y tế phụ trách
châu Mỹ)

PCSXHD

Phòng, chống sốt xuất huyết Dengue

SXHD

Sốt xuất huyết Dengue

SXHS

Sốt xuất huyết Dengue sốc

TTYTDP

Trung tâm Y tế dự phòng

TT-GDSK

Truyền thông - giáo dục sức khoẻ

TCYTTG

Tổ chức Y tế thế giới

TTYT


Trung tâm Y tế

TYTX

Trạm y tế xã

YT

Y tế

UBND

Uỷ ban nhân dân

Tổ NDTQ

Tổ Nhân dân tự quản

VSMT

Vệ sinh môi trường

WHO

World Health Organization (Tổ chức y tế thế giới)

WPRO

Western Pacific Region Office

(Văn phòng khu vực Tây Thái Bình Dương)


v

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN

i

LỜI CẢM ƠN

ii

CHỮ VIẾT TẮT

iii

MỤC LỤC

v

DANH MỤC BẢNG

vii

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

ix


DANH MỤC HÌNH

x

DANH MỤC HỘP

xi

ĐẶT VẤN ĐỀ

1

Chương I. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

3

1.1. Đặc điểm dịch tễ học bệnh sốt xuất huyết Dengue

3

1.2. Căn nguyên và một số yếu tố liên quan đến bệnh sốt xuất huyết Dengue 10
1.3. Một số biện pháp can thiệp phòng chống bệnh sốt xuất huyết Dengue

17

Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

29

2.1. Đối tượng nghiên cứu


29

2.2. Địa điểm nghiên cứu

30

2.3. Thời gian nghiên cứu

31

2.4. Phương pháp nghiên cứu

31

2.5. Các chỉ số nghiên cứu

36

2.6. Nội dung và phương pháp can thiệp

37

2.7. Sơ đồ tổng hợp quá trình nghiên cứu

46

2.8. Kỹ thuật thu thập số liệu

47


2.9. Vật liệu nghiên cứu

51

2.10. Phương pháp khống chế sai số

52

2.11. Phương pháp xử lý số liệu

53

2.12. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu

55


vi

Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Một số đặc điểm dịch tễ học SXHD giai đoạn 2010 - 2014

56
56

3.2. Hiệu quả một số giải pháp can thiệp cộng đồng phòng chống SXHD

69


tại 2 huyện Châu Thành và huyện Mỏ Cày Nam tỉnh Bến Tre
Chương 4. BÀN LUẬN

81

4.1. Một số đặc điểm dịch tễ học SXHD giai đoạn 2010 - 2014

81

4.2. Hiệu quả một số giải pháp can thiệp cộng đồng phòng chống SXHD

91

tại 2 xã huyện Châu Thành tỉnh Bến Tre
Chương 5. KẾT LUẬN

106

1. Một số đặc điểm dịch tễ SXHD ở huyện Châu Thành và huyện Mỏ

106

Cày Nam, tỉnh Bến Tre giai đoạn năm 2010 – 2014.
2. Hiệu quả một số giải pháp can thiệp cộng đồng phòng chống SXHD

106

tại 2 xã huyện Châu Thành tỉnh Bến Tre
KHUYẾN NGHỊ


108

TÀI LIỆU THAM KHẢO

109

Phụ lục


vii

DANH MỤC BẢNG
Nội dung

STT
Bảng 2.1.

Phân bố hành chính địa phương nghiên cứu

Bảng 3.1.

Tình hình mắc, chết do sốt xuất huyết Dengue trên
100.000 dân giai đoạn 2010 - 2014

Bảng 3.2.

33
56

Tỷ lệ mắc SXHD giai đoạn 2010 - 2014 theo tháng tại

huyện Châu Thành và Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre

Bảng 3.3.

Trang

57

Tỷ lệ mắc sốt xuất huyết Dengue giai đoạn 2010 - 2014
theo địa dư

58

Bảng 3.4.

Tỉ lệ mắc SXHD giai đoạn 2010 - 2014 theo nhóm tuổi

58

Bảng 3.5.

Mối tương quan giữa quan giữa nhiệt độ trung bình với số
ca mắc SXHD trung bình giai đoạn 2010 - 2014

Bảng 3.6.

Mối tương quan quan giữa lượng mưa trung bình với số
ca mắc SXHD trung bình giai đoạn 2010 – 2014

Bảng 3.7.


63

Mối tương quan giữa lượng mưa trung bình với chỉ số côn
trùng giai đoạn 2010 - 2014 của huyện Châu Thành

Bảng 3.10.

62

Mối tương quan giữa nhiệt độ trung bình với chỉ số côn
trùng giai đoạn 2010 - 2014 của huyện Mỏ Cày Nam

Bảng 3.9.

61

Mối tương quan giữa nhiệt độ trung bình với chỉ số côn
trùng giai đoạn 2010 - 2014 của huyện Châu Thành

Bảng 3.8.

60

64

Mối tương quan giữa lượng mưa trung bình với chỉ số côn
trùng giai đoạn 2010 - 2014 của huyện Mỏ Cày Nam

65


Bảng 3.11.

Đặc điểm chung đối tượng nghiên cứu

69

Bảng 3.12.

Hiệu quả can thiệp cải thiện kiến thức đúng về muỗi
truyền bệnh của người dân

70


viii

Bảng 3.13. Hiệu quả can thiệp cải thiện kiến thức đúng về các biện
pháp phòng chống bệnh sốt xuất huyết dengue

71

Bảng 3.14. Hiệu quả can thiệp cải thiện thực hành đúng về các biện
pháp dự phòng bệnh SXHD

72

Bảng 3.15. Hiệu quả can thiệp cải thiện kiến thức - thực hành đúng
trong dự phòng bệnh SXHD của người dân


73

Bảng 3.16. Giám sát khả năng sống của cá trong các DCCN tại các
điểm nuôi
Bảng 3.17. Giám sát các chỉ số côn trùng trước và sau khi thả cá

74
75

Bảng 3.18. So sánh tỷ lệ hộ gia đình đậy kín dụng cụ chứa nước ở xã
can thiệp

75

Bảng 3.19. So sánh tỷ lệ dụng cụ chứa nước tại các hộ gia đình có thả
cá trước và sau can thiệp

76

Bảng 3.20. So sánh tỉ lệ mắc/ chết do sốt xuất huyết Dengue tại xã
can thiệp và xã chứng sau 2 năm can thiệp

78


ix

STT

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Nội dung

Trang

Biểu đồ 3.1. Tỷ lệ mắc bệnh sốt xuất huyết Dengue giai đoạn 2010 2014 theo giới tính
Biểu đồ 3.2. Các chỉ số giám sát côn trùng giai đoạn 2010 - 2014

59
59

Biểu đồ 3.3. Chỉ số mật độ muỗi Aedes aegypti tại xã can thiệp (A) và
xã đối chứng (B) sau 2 năm can thiệp

76

Biểu đồ 3.4. Chỉ số nhà có bọ gậy tại xã can thiệp và xã đối chứng

77

Biểu đồ 3.5. Chỉ số DCCN có bọ gậy tại xã can thiệp và xã đối chứng

77

Biểu đồ 3.6. Chỉ số Breteau tại xã can thiệp và xã đối chứng

78


x


STT

DANH MỤC HÌNH
Nội dung

Trang

Hình 1.1. Bản đồ phân bố bệnh sốt xuất huyết trên thế giới của WHO

4

Hình 1.2. Muỗi Aedes aegypti và Aedes alpopictus trưởng thành

11

Hình 1.3. Vòng đời và trứng của muỗi Aedes aegypti

13

Hình 1.4. Khả năng lan truyền vi rút Dengue của muỗi Aedes aegypti

13

Hình 1.5. Giáp xác Mesocyclops đang ăn bọ gậy muỗi truyền bệnh

20

Hình 1.6. Muỗi mang vi khuẩn Wolbachia

25


Hình 2.1. Bản đồ tỉnh Bến Tre

30


xi

DANH MỤC HỘP
Nội dung

STT

Trang

Hộp 3.1. Kết quả thảo luận nhóm của người dân và các cộng tác viên

66

Hộp 3.2. Kết quả phỏng vấn sâu lãnh đạo Trung tâm y tế huyện

66

Hộp 3.3. Kết quả phỏng vấn sâu lãnh đạo xã

67

Hộp 3.4. Kết quả phỏng vấn sâu các lãnh đạo trạm Y tế xã

68


Hộp 3.5. Kết quả thảo luận nhóm của người dân và các cộng tác viên
sau can thiệp

79

Hộp 3.6. Kết quả phỏng vấn sâu lãnh đạo Trung tâm y tế huyện sau
can thiệp

79

Hộp 3.7. Kết quả phỏng vấn sâu Phó chủ tịch xã sau can thiệp

80

Hộp 3.8.

80

Kết quả phỏng vấn sâu các Trưởng trạm y tế xã sau can thiệp


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Sốt xuất huyết Dengue (hay còn gọi là sốt xuất huyết) là bệnh truyền
nhiễm cấp tính do vi rút Dengue gây nên. Bệnh lây truyền từ người sang
người qua vật chủ trung gian truyền bệnh là muỗi vằn đốt. Bệnh có thể gây
thành dịch lớn và có tỷ lệ tử vong tương đối cao [34] với sự có mặt ở hơn 125
nước trên thế giới [89], ảnh hưởng đến kinh tế xã hội ở nhiều vùng nhiệt đới

và cận nhiệt đới [73], [77].
Hiện nay sốt xuất huyết Dengue được coi là một trong số các bệnh
truyền nhiễm quan trọng nhất trên thế giới với hơn 50% dân số thế giới sinh
sống ở những nơi có nguy cơ mắc bệnh và khoảng 50% sống ở các quốc gia
có lưu hành bệnh sốt xuất huyết [73], [115]. Theo Tổ chức Y tế thế giới, mỗi
năm có khoảng 100 triệu trường hợp mắc, phần lớn là trẻ em dưới 15 tuổi, tỷ
lệ tử vong trung bình khoảng 2,5 - 5% [115].
Tại Việt Nam, sốt xuất huyết Dengue tập trung chủ yếu tại các tỉnh miền
Nam và miền Trung. Năm 2014, được ghi nhận có 32.049 số ca mắc sốt xuất
huyết và 20 trường hợp tử vong [9]. được ghi nhận có 32.049 số ca mắc sốt
xuất huyết và 20 trường hợp tử vong [9]. Theo Bộ y tế, năm 2017, cả nước
ghi nhận 181.054 trường hợp mắc SXH, trong đó có 152.659 ca nhập viện với
30 trường hợp tử vong. So với cùng kỳ năm 2016 số ca mắc tăng 2,7%, số ca
tử vong giảm 9 trường hợp. Tỷ lệ tử vong của nước ta năm 2017 là 0,03%
trên tổng số ca mắc, thấp hơn các nước như Malaysia (0,23%), Philippines
(0,24%), Campuchia (0,23%)…[1]. Trước đây dịch chỉ xuất hiện ở thành phố,
thị xã, nay lan rộng đến nông thôn [34]. Mặc dù Việt Nam đã nỗ lực thực hiện
nhiều biện pháp nhưng SXHD vẫn còn là một vấn đề y tế công cộng to lớn.
Theo nghiên cứu thì số tử vong do SXHD ở khu vực phía Nam chiếm tỉ lệ
trên 80% tổng số tử vong của cả nước [47].


2

Bến Tre là tỉnh thuộc Đồng Bằng sông Cửu Long với hệ thống sông
ngòi, kênh mương nhiều. Khí hậu tỉnh Bến Tre nằm trong vùng khí hậu nhiệt
đới gió mùa cận xích đạo, với hai mùa rõ rệt: Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng
11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Lượng mưa trung bình hàng
năm từ 2.000 đến 2.300 mm, nhiệt độ trung bình hàng năm từ 26 0C - 270C.
Đây là điều kiện thuận lợi cho muỗi, lăng quăng phát triển cũng như bệnh sốt

xuất huyết xuất hiện. Năm 2015 ghi nhận 1084 ca mắc trong đó có 01 cas tử
vong. Năm 2016 số mắc sốt xuất huyết Dengue của toàn tỉnh là 3.230 ca sốt
xuất huyết trong đó có 2 ca tử vong. Năm 2017, toàn tỉnh ghi nhận 1.132 ca
mắc sốt xuất huyết, 01 ca tử vong [49]. Tuy số ca mắc và tử vong tại tỉnh Bến
Tre không phải cao nhất trong khu vực nhưng diễn biến bệnh sốt xuất huyết
vẫn còn phức tạp.
Vậy vấn đề đặt ra là thực trạng Sốt xuất huyết Dengue tại tỉnh Bến Tre ra
sao? Các yếu tố nào liên quan đến Sốt xuất huyết Dengue ? Giải pháp nào phù
hợp với cộng đồng để giảm thiểu vấn đề đó? Để trả lời cho những vấn đề trên,
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Một số đặc điểm dịch tễ và hiệu quả
can thiệp cộng đồng phòng chống bệnh sốt xuất huyết Dengue tại hai
huyện tỉnh Bến Tre”, nhằm thực hiện 2 mục tiêu sau:
1. Mô tả một số đặc điểm dịch tễ sốt xuất huyết Dengue ở huyện Châu
Thành và huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre giai đoạn năm 2010 – 2014.
2. Đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp cộng đồng phòng
chống bệnh sốt xuất huyết Dengue tại 02 xã của huyện Châu Thành, tỉnh Bến
Tre giai đoạn năm 2015-2017.


3

Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đặc điểm dịch tễ học bệnh sốt xuất huyết Dengue
1.1.1. Đặc điểm dịch tễ học bệnh sốt xuất huyết Dengue trên thế giới
1.1.1.1. Lịch sử dịch bệnh sốt xuất huyết Dengue
Sốt xuất huyết Dengue (SXHD) hiện được coi là một trong số các bệnh
truyền nhiễm quan trọng nhất trên thế giới. Từ những năm 265 - 420 sau
Công nguyên, ở triều đại nhà Tần - Trung Quốc đã ghi nhận trong sử sách
những triệu chứng của loại bệnh tương thích với bệnh sốt xuất huyết (SXH)
hiện nay [72], [89]. Tại thời điểm đó, người ta cho rằng bệnh SXH có nguồn

gốc từ một loại chất độc trong nước và liên quan đến côn trùng bay [71]. Sau
đó vào khoảng các năm 1635 và 1699 ở Tây Ấn và Trung Mỹ các bệnh dịch
giống với bệnh SXH, với các bệnh tương tự đã xảy ra và lây lan khắp khu vực
[72]. Năm 1780 một vụ dịch lớn xảy ra ở Philadelphia, Pennsylvania. Sau đó
các trận dịch lớn đã xảy ra trong thế kỷ 18 đến thế kỷ 20 ở bờ biển Đại Tây
Dương của Mỹ và Nam Mỹ, đảo Caribe và lưu vực sông Mississippi, vụ bùng
phát cuối cùng xảy ra vào năm 1945 ở New Orleans [72]. Sự gia tăng dịch
bệnh trong Thế chiến thứ II, khi quân đội bắt đầu phân tán trên đất liền và sử
dụng phương tiện giao thông hiện đại trong và giữa các quốc gia, do đó dịch
bệnh SXH trở nên bùng phát mạnh hơn. Vào cuối chiến tranh, do sự phát triển
của vấn đề giao thông, vận chuyển và đô thị hóa đã dẫn đến sự gia tăng truyền
bệnh SXH ở nhiều nước Đông Nam Á và sau đó là sự xuất hiện các dạng
bệnh SXH [73], [74]. Cuối cùng, căn nguyên vi rút và sự lây lan của muỗi
cũng đã được xác định trong thế kỷ 20 [72].
1.1.1.2. Thực trạng sốt xuất huyết Dengue trên thế giới
Trong nửa thế kỷ qua, tỷ lệ mắc sốt xuất huyết trên toàn thế giới đã tăng
30 lần, với ước tính xấp xỉ 390 triệu ca nhiễm/năm. Những năm 2014 và 2015
được mô tả bởi sự bùng phát bệnh sốt xuất huyết trên toàn thế giới, là mối đe


4

dọa đối với sức khoẻ cộng đồng, đặc biệt là ở các nước châu Á [109]. Sự lây
lan về mặt địa lý của cả véc tơ muỗi và vi rút đã dẫn đến sự gia tăng toàn cầu
của dịch bệnh sốt xuất huyết và xuất hiện những hình thái nghiêm trọng trong
25 năm qua [85]. Từ những năm 1950, chỉ có 9 quốc gia báo cáo có dịch sốt
xuất huyết thì cho đến nay sốt Dengue hiện đang là mối quan ngại về sức
khoẻ cộng đồng ở hơn 100 quốc gia [76]. Số lượng trung bình các trường hợp
mắc bệnh sốt xuất huyết được báo cáo cho Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã
tăng từ 908 trường hợp trong giai đoạn 1950 - 1999 lên 514.139 trường hợp

trong giai đoạn 1990 - 1999 [76]. Theo ước tính hiện nay có khoảng 3,6 tỷ
người hiện đang sinh sống ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, nơi lưu hành
các loại vi rút sốt xuất huyết [68], [73], [117]. Theo nhiều nghiên cứu khác
nhau, ước tính khoảng từ 50 đến 200 triệu người mắc bệnh sốt xuất huyết,
500.000 trường hợp mắc SXH nặng và hơn 20.000 trường hợp tử vong vì
bệnh sốt xuất huyết xảy ra hàng năm [97]. Tỉ lệ hiện nhiễm toàn cầu đã tăng
lên đáng kể trong những thập kỷ gần đây đặc biệt là ở Đông Nam Á và đang
có dấu hiệu tiếp tục gia tăng [88].

Nguồn: Tổ chức Y tế thế giới [116]

Hình 1.1. Bản đồ phân bố bệnh sốt xuất huyết Dengue trên thế giới
của WHO năm 2011


5

Năm 2012, Tổ chức Y tế Thế giới đã xếp loại Dengue là căn bệnh do vi
rút gây ra quan trọng nhất trên thế giới [115] do sự xuất hiện và lây lan rộng
của vi rút và véc tơ ở các khu vực trước đây không bị ảnh hưởng cũng như
gánh nặng bệnh tật và sự ảnh hưởng về kinh tế xã hội do nó mang lại [70],
[73], [116]. Ở hầu hết các quốc gia, gánh nặng chính của tỷ lệ bệnh tật và tử
vong này chủ yếu là ở trẻ em [78], [79].
Ở Châu Mỹ, ước tính tổng chi phí cho SXH hàng năm là 2,1 tỷ đô la Mỹ
[97].

Một nghiên cứu của 12 nước ở Đông Nam Á cho thấy tổng gánh nặng

kinh tế hàng năm do SXH mang lại là 950 triệu USD [99]. Thực tế con số có
thể sẽ lớn hơn rất nhiều do sự giám sát bệnh vẫn còn hạn chế, báo cáo chưa

đầy đủ cũng như việc chẩn đoán bệnh còn bị bỏ sót [66], [73], [98].
Mặc dù con số thống kê về số người mắc cũng như sự ảnh hưởng về kinh
tế xã hội còn khác nhau giữa các nghiên cứu, nhưng không thể phủ nhận sự có
mặt, lây lan của SXH tại tất cả các khu vực trên thế giới.
Nghiên cứu của Raghwani J cho thấy phần lớn gánh nặng bệnh tật chỉ
hạn chế ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới [91] cũng như gần 75% dân số toàn
cầu tiếp xúc với bệnh sốt xuất huyết sống ở châu Á Thái Bình Dương [114],
[115]. Tuy nhiên vào năm 2014, lần đầu tiên trong hơn 70 năm một đợt dịch
sốt xuất huyết đã xảy ra ở Nhật Bản mặc dù đây là đất nước có khí hậu ôn đới.
Qua phân tích, các nhà khoa học cho thấy dịch SXH xảy ra ở Nhật Bản là kết
quả của việc đi du lịch quốc tế từ các nước Đông Nam Á. Năm 2014, dịch sốt
xuất huyết cũng đã ảnh hưởng đến một số quốc gia Châu Á, bao gồm Trung
Quốc, Thái Lan, Việt Nam và Nhật Bản [108], [112]. Một số nghiên cứu đã
cho thấy tỷ lệ các ca sốt xuất huyết nặng ở khu vực Đông Nam Á cao gấp 18
lần khu vực Châu Mỹ [99], [114]. Trong năm 2011, khu vực Đông Nam Á có
tổng số 244.855 trường hợp mắc bệnh, trong đó 839 trường hợp tử vong,
chiếm 0,34%. Trong đó Philippines là nước có tỷ lệ mắc SXHD cao


6

nhất trong khu vực với 125.975 trường hợp, 675 người tử vong. Việt Nam
đứng hàng thứ 2 với 69.680 ca mắc mới, 61 người tử vong [58]. Tại Úc,
SXHD không phải là bệnh phổ biến, tuy nhiên ở phía Bắc Queensland đã ghi
nhận các trường hợp mắc SXH từ khu vực Đông Nam Á đem lại [83].
Khu vực Châu Mỹ, mặc dù không có sự xuất hiện của SXHD cho đến
giữa thế kỷ 20, nhưng đến năm 2010 hầu hết các nước ở Châu Mỹ đều xảy ra
dịch với chu kỳ xuất hiện từ 3 - 5 năm [69], [115] với quy mô ngày càng tăng
đặc biệt là ở Mỹ Latinh [97] với hơn 1,6 triệu ca sốt xuất huyết, trong số đó
49.000 ca là SXHD thể nặng. Vào năm 2013, ở Châu Mỹ có hơn 2 triệu

trường hợp mắc SXH (trong đó 32.270 trường hợp nặng), tỷ lệ mắc là
404,35/100.000 dân và 1175 trường hợp tử vong (trường hợp tử vong =
0,05%) [119]. Chỉ có hai nước ở châu Mỹ La tinh không có sự xuất hiện của
SXHD là Uruguay và Chile [95]. Do sự hồi sinh của bệnh sốt xuất huyết và
các véc tơ ở châu Mỹ trong những thập kỷ gần đây, Tổ chức Y tế khu vực
Châu Mỹ đã một lần nữa đưa ra “Chiến lược Quản lý tổng hợp để phòng
chống sốt xuất huyết " và phấn đấu để giảm bệnh tật và giảm gánh nặng kinh
tế do SXHD mang lại [115].
Kể từ năm 1960 đến 2010 có 22 nước Châu Phi đã báo cáo xuất hiện các
trường hợp SXHD hoặc bùng phát thành dịch [57], [100], [111] và cho đến
nay có 32 quốc gia ở Châu Phi đã ghi nhận sự xuất hiện của vi rút Dengue
[80]. Trong số 96 triệu ca nhiễm trên toàn thế giới thì châu Phi chiếm 16%
tương tự như ở Mỹ Latinh (≈14%) [60]. Do đặc điểm riêng của sốt rét trên
toàn khu vực châu Phi, phần lớn (> 70%) các trường hợp sốt, bao gồm cả xuất
huyết, có khả năng được chẩn đoán nhầm và điều trị như bệnh sốt rét
Plasmodium malaria [75]. Điều này tác động tiêu cực đến bức tranh toàn diện
của dịch tễ học bệnh sốt xuất huyết trong khu vực và cho thấy sư cần thiết của


7

việc giám sát thường xuyên dịch bệnh cũng như các hoạt động dự phòng có
liên quan.
Khu vực Đông Địa Trung Hải trong 2 thập kỷ qua đã có nhiều đợt bùng
phát SXHD ở 3 quốc gia - Ả Rập Saudi, Pakistan và Yemen. Năm 2011, thành
phố Lahore ở Pakistan đã trải qua một dịch sốt xuất huyết Dengue lớn với
21.685 trường hợp mắc và 350 trường hợp tử vong [82], [92].
Tại Châu Âu dịch bệnh sốt xuất huyết Dengue cuối cùng ở châu Âu xảy
ra vào khoảng năm 1926 đến năm 1928 ở Hy Lạp. Dịch này có liên quan đến
Aedes aegypti và có tỷ lệ tử vong cao [115]. Cho đến những năm 1990 khi

Aedes albopictus có mặt tại Châu Âu thì bệnh dịch đã quay trở lại. Ngày nay,
dịch SXHD đã được phát hiện tại Pháp, Croatia và một số quốc gia khác ở
châu Âu [93]. Như vậy, mặc dù Châu Âu không bị sốt xuất huyết trong phần
lớn thế kỷ 20, tuy nhiên do sự phát triển toàn cầu của bệnh sốt xuất huyết
Dengue đã ảnh hưởng đến khu vực vào thời điểm hiện tại [89].
Như vậy SXHD đã xuất hiện ở hầu hết các nước, ở các khu vực trên thế
giới với các tần suất khác nhau. Hiện nay SXHD cũng được coi là bệnh truyền
nhiễm quan trọng nhất trên thế giới khi hơn 50% dân số thế giới sinh sống ở
những nơi có nguy cơ mắc bệnh và khoảng 50% sống ở các quốc gia lưu hành
bệnh sốt xuất huyết, trong đó có khu vực Châu Á Thái Bình Dương, cụ thể
Việt Nam là một điểm nóng của bệnh SXHD [89].
1.1.2. Đặc điểm dịch tễ học bệnh sốt xuất huyết Dengue tại Việt Nam
Tại Việt Nam, từ năm 1913, Gaide đã thông báo về bệnh Dengue cổ điển
tại miền Bắc và miền Trung. Năm 1929, Boyé có viết về một vụ dịch Dengue
cổ điển (1927) ở miền Nam [43], [54]. Năm 1958, lần đầu tiên Chu Văn
Tường và cộng sự căn cứ trên một số bệnh nhi ở bệnh viện Bạch Mai, các tác
giả đã đưa ra thông báo về một vụ dịch nhỏ sốt xuất huyết ở Hà Nội. Tới
tháng 8 năm 1963, dịch SXH xảy ra ở đồng bằng sông Cửu Long với tổng số


8

bệnh nhân được thông báo là 331, trong đó có 116 trẻ em tử vong. Trong vụ
dịch này Halstead và cộng sự đã phân lập được vi rút D2 [43], [54]. Tiếp sau
đó, vụ dịch sốt Dengue lớn đã xảy ra ở 19 tỉnh, thành phố ở miền Bắc năm
1969. Từ năm 1970 đến năm 1974, dịch xảy ra lẻ tẻ ở một số địa điểm trong
nội thành Hà Nội với số bệnh nhân từ vài chục tới hàng trăm trường hợp phải
vào viện điều trị tại các bệnh viện. Trong thời gian đó, dịch cũng lan ra các
thành phố, thị xã, thị trấn và cả các vùng nông thôn. Cho đến nay, SXHD tăng
dần và lan rộng ra cả nước, từ các thành phố đông dân lan về các thị trấn nông

thôn, khoảng cách thời gian giữa các vụ dịch cũng gần nhau hơn [43], [54].
Mặc dù chương trình kiểm soát sốt xuất huyết Dengue quốc gia đã có từ
năm 1998, sốt Dengue vẫn là một vấn đề sức khoẻ ở Việt Nam. Sốt xuất huyết
và sốt xuất huyết Dengue là nguyên nhân hàng đầu gây ra tình trạng nhập
viện, chiếm tới 1.000.866 trường hợp được báo cáo tại Việt Nam trong giai
đoạn 1991-2004, con số cao nhất ở Tây Thái Bình Dương [113].
Dịch sốt Dengue/SXHD bùng nổ theo chu kỳ với khoảng cách trung bình
từ 4 - 5 năm [47], năm 1998 cả nước ghi nhận số trường hợp mắc là 234.920
và 377 trường hợp tử vong, năm 2010 với 128.710 ca mắc, 109 ca tử vong.
Giai đoạn 2011 - 2013, số ca mắc và tử vong giảm xuống theo qui luật chung
do miễn dịch cộng đồng sau vụ dịch năm 2010 [8].
Sốt Dengue /SXHD lưu hành rộng rãi ở vùng châu thổ sông Hồng (miền
Bắc), sông Cửu Long (miền Nam) và dọc theo bờ biển miền Trung. Bệnh
không chỉ xuất hiện ở đô thị mà cả vùng nông thôn, nơi có muỗi véc tơ sinh
sống. Ở những nơi khác, nếu có, bệnh được coi như là kết quả của sự xâm
nhập vi rút Dengue từ vùng có bệnh dịch lưu hành tới. Mức độ lan rộng của
sốt Dengue /SXHD tùy thuộc vào sự phát triển giao thông và sự giao lưu của
dân cư giữa các vùng. Ở những vùng núi, cao nguyên biên giới phía Bắc,
không thấy xuất hiện bệnh, kể cả những năm có dịch lớn [56].


9

Do đặc điểm địa lý và khí hậu nên khu vực miền Nam Việt Nam là khu
vực có tỷ lệ mắc SXHD cao nhất cả nước [12], [47] với trên 85% ca mắc và
90% ca tử vong và tiếp tục có xu hướng gia tăng [6]. Trong giai đoạn từ 2001
- 2011 có 76,9% ca mắc SXHD và 83,3% ca tử vong do SXHD là ở 20 tỉnh
phía Nam [54]. Nguyên nhân có thể do đặc điểm khí hậu, địa lý nhiều kênh
ngòi, sông nước và tập quán của người dân tích trữ nước trong lu, vại,
chum...đã tạo điều kiện cho dịch bệnh gia tăng [12], [16].

Mặc dù vậy, những năm trở lại đây số ca mắc tại các tỉnh Bắc bộ cũng
gia tăng nhất là Hà Nội có xu hướng tăng nhanh và là điểm nóng của sốt xuất
huyết của toàn miền Bắc [62], [64], [90]. Năm 2013, khu vực Miền Bắc chỉ
ghi nhận một số ổ dịch có tính tản phát, phân bố rải rác tại Hà Nội, Hải
Phòng, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Ninh, các ổ dịch ở quy mô nhỏ [11].
Do vấn đề bệnh dịch xuất hiện phức tạp và rộng khắp các tỉnh thành trên
cả nước nên việc kiểm soát và có những biện pháp ứng phó kịp thời với sốt
xuất huyết là vấn đề vô cùng có ý nghĩa. Nghiên cứu được quy luật, dự đoán
được mô hình bệnh tật sẽ làm giảm gánh nặng bệnh tật và kinh tế [56].
1.1.3. Tình hình mắc bệnh và tử vong do sốt xuất huyết Dengue tại Bến Tre
Sốt xuất huyết Dengue là một bệnh dịch lưu hành trên 08 huyện 01 thành
phố của tỉnh Bến Tre, nhưng tập trung chủ yếu là các huyện vùng hạ của tỉnh
như Ba Tri, Thạnh Phú, Bình Đại…là những huyện vùng biển người dân có
tập quán chứa nước mưa để uống và sinh hoạt.
Tuy tỉnh Bến Tre không nằm trong số 10 tỉnh có số mắc (54/100.000
dân) cao nhất cả nước nhưng đứng hàng thứ 7 các tỉnh có tỷ lệ chết/ mắc
SXHD cao nhất cả nước với 0,14% [36]. Hàng năm ngành y tế tỉnh Bến Tre
đều xây dựng kế hoạch hoạt động phòng chống sốt xuất huyết đưa ra các chỉ
tiêu cụ thể về giảm tỷ lệ mắc, giảm tỷ lệ chết khống chế không để dịch lớn
xảy ra. Kế hoạch tập trung chủ yếu vào việc làm thay đổi hành vi kiểm soát


10

lăng quăng của các hộ gia đình. Chương trình phòng chống dịch bệnh và
chăm sóc sức khỏe ban đầu đã được lồng ghép vào xây dựng nông thôn mới
tại các địa phương. Tuy vậy, từ năm 2010 đến nay, năm nào cũng có ca tử
vong về sốt xuất huyết Dengue và 3 năm trở lại đây thì tỷ lệ mắc và chết vẫn
còn [48].
Theo các chuyên gia, giai đoạn 2014 - 2016 là giai đoạn hiện tượng El

Nino hoạt động mạnh, gây nên thời tiết khô hạn khiến việc tích trữ nước gia
tăng, gia tăng nhiệt độ trung bình cũng như thời gian phát triển chu kỳ trứng
thành muỗi rút ngắn, kéo dài thời gian sống của muỗi và làm gia tăng mật độ
muỗi khiến cho dịch sốt xuất huyết bùng phát trở lại. Do đó việc xác định
được tình hình dịch tễ học của bệnh để từ đó áp dụng các giải pháp can thiệp
trong nghiên cứu của chúng tôi là điều hết sức cần thiết nhằm góp phần hạn
chế sự gia tăng của bệnh SXH hiện nay.
1.2. Căn nguyên và một số yếu tố liên quan đến bệnh sốt xuất huyết Dengue

1.2.1. Căn nguyên gây bệnh sốt xuất huyết Dengue
Năm 1943 các nhà khoa học đã xác định được căn nguyên gây bệnh
SXHD là do vi rút Dengue gây nên với 4 týp huyết thanh DEN - 1, DEN - 2,
DEN - 3, DEN - 4 [88]. Nhiễm vi rút Dengue lần đầu tạo ra miễn dịch bền
suốt đời với týp đã nhiễm. Ngoài ra, miễn dịch chéo một phần với 3 týp còn
lại có tính bảo vệ rất ngắn. Như vậy, nếu nhiễm lần 2 với một týp vi rút
Dengue khác (nhiễm thứ phát) bệnh sẽ nặng hơn [34].
Hiện nay, tất cả bốn týp vi rút Dengue đều được tìm thấy trong hầu hết
các môi trường nhiệt đới và cận nhiệt đới, nơi Aedes aegypti có mặt [65]. Các
hiện tượng toàn cầu như đô thị hoá và du lịch quốc tế là những yếu tố chủ
chốt trong việc tạo điều kiện cho sự lây lan của bệnh sốt xuất huyết cũng như
sự xuất hiện của các týp huyết thanh [88].


11

Có nghiên cứu cho rằng bệnh nhân nhiễm týp vi rút DEN - 2 sẽ dẫn đến
bệnh nặng hơn, trong khi nhiễm DENV - 1 thì bệnh sẽ nhẹ hơn [59]. Ngoài ra
nghiên cứu cho thấy DEN - 2 có liên quan tới sốt Dengue xuất huyết Dengue xuất huyết có sốc, gần đây thì liên quan tới DEN - 3 [34].
Theo tác giả Phạm Thị Nhã Trúc sự phân bố của các týp vi rút Dengue
qua các vụ dịch SXHD đã cho thấy có sự thay đổi vai trò gây bệnh của các týp

vi rút [47]. Tại Việt Nam trước năm 1990, chủng vi rút thường gây thành dịch
là týp DEN - 2. Tuy nhiên trong những năm gần đây các tác giả nhận thấy týp
DEN - 4 mới là týp chiếm ưu thế trong các vụ dịch [47].
Khi các týp huyết thanh Dengue lưu hành đa dạng và hay thay đổi sẽ dẫn
đến bệnh cảnh lâm sàng sốt xuất huyết ngày càng đa dạng và phức tạp.
1.2.2. Véc tơ gây bệnh sốt xuất huyết Dengue
Bệnh SXHD không truyền trực tiếp từ người sang người mà do muỗi đốt
bệnh nhân rồi truyền vi rút sang người lành qua vết đốt của muỗi Aedes cái.
Có hai loài muỗi truyền bệnh SXHD là muỗi Aedes aegypti (Ae. aegypti) và
Aedes albopictus (Ae. albopictus), trong đó quan trọng nhất là Aedes aegypti véc tơ giữ vai trò trung gian chính truyền bệnh, còn Aedes albopictus giữ vai
trò trung gian truyền bệnh thứ cấp của bệnh SXHD [47].
Muỗi Aedes aegypti và Aedes alpopictus trưởng thành có màu đen xen lẫn
trắng trên khắp cơ thể muỗi tạo nên vằn trắng đen nên thường được gọi là muỗi vằn.

Aedes aegypti

Aedes albopictus


12

Muỗi vằn thường sống trong nhà, gần người, trú đậu nơi có ánh sáng
yếu, thường là các góc hoặc xó tối trong nhà, trên quần áo, chăn màn, dây
phơi và các đồ dùng trong nhà, đẻ trứng nơi nước sạch, ở những vật chứa
nước tự nhiên hay nhân tạo như chum, vại, phuy, hồ, bể chứa nước không đậy
nắp, lọ hoa chậu cây cảnh, chậu nước chống kiến dưới chân tủ thức ăn, lon đồ
hộp, ve chai, gáo dừa, vỏ xe hoặc bất kì một vật dụng chứa nước nào khác có
thể tích trữ nước đến 7 ngày.
Muỗi vằn cái thường đốt người vào ban ngày, mạnh nhất là vào sáng sớm
và chiều tối. Đặc biêt, chúng bay rất nhanh, nếu tìm thấy mồi là lao vào đốt và

hút máu ngay; đồng thời bám theo mồi rất dai và chỉ bay đi khi đã hút no máu.
Hoạt động tìm mồi hút máu của loài muỗi này phụ thuộc vào nhiệt độ môi
0

trường, nếu nhiệt độ môi trường dưới 23 C thì muỗi hầu như không có khả năng
hoạt động hút máu. Vì thế muỗi vằn thường phát triển mạnh nhất vào mùa mưa,
0

thời tiết nóng ẩm, khi nhiệt độ trung bình hàng tháng vượt trên 20 C.

Chu kỳ phát triển của muỗi vằn Aedes từ lúc đẻ trứng đến phát triển
thành bọ gậy trung bình là 7 ngày, thời gian phát triển từ bọ gậy thành muỗi
trưởng thành chỉ mất khoảng 2 đến 3 ngày. Muỗi cái chuyên đi hút máu người
có thể sống từ 20 - 40 ngày. Tỷ lệ nhiễm sốt xuất huyết cao hơn ở ngoài trời
và vào ban ngày, khi những con muỗi này đốt thường xuyên nhất. Tuy nhiên,
Aedes aegypti đẻ ở trong nhà có khả năng đốt bất cứ ai trong suốt cả ngày,
môi trường sống ở trong nhà ít nhạy cảm với sự thay đổi khí hậu và làm gia
tăng tuổi thọ của muỗi. Theo các nhà nghiên cứu hầu hết muỗi Aedes aegypti
cái có thể dành cả cuộc đời trong hoặc xung quanh nhà, nơi đó chúng trở
thành muỗi trưởng thành với khoảng cách bay trung bình là 400 mét.


13

Hình 1.3. Vòng đời và trứng của muỗi Aedes aegypti
Ngay khi bị nhiễm, con người trở thành vật chủ mang và nhân lên của
các vi rút, như là một nguồn của vi rút cho những con muỗi không bị nhiễm
bệnh. Vi rút lưu thông trong máu trong người bị nhiễm bệnh từ 2 - 7 ngày, xấp
xỉ với thời gian mà người phát triển thành sốt. Bệnh nhân đã bị nhiễm vi rút
sốt xuất huyết có thể truyền sự lây nhiễm qua muỗi Aedes sau khi các triệu

chứng đầu tiên xuất hiện (trong vòng 4 - 5 ngày, tối đa là 12 ngày).

Hình 1.4. Khả năng lan truyền vi rút Dengue của muỗi Aedes
aegypti 1.2.3. Yếu tố thời tiết/mùa
Đặc trưng của yếu tố thời tiết/mùa liên quan đến SXH chính là lượng
mưa và nhiệt độ.
- Lượng mưa : Bằng sự phân tích khí tượng và các dữ liệu giám sát dịch
tễ và côn trùng, tác giả Elodie Descloux đã nghiên cứu sự ảnh hưởng của khí
hậu đối với bệnh SXHD ở Noumea, thủ đô của New Caledonia, trong giai


14

đoạn 1971 - 2010. Kết quả cho thấy đỉnh dịch ở vào tháng có nhiệt độ nóng
nhất trong 1 đến 2 tháng với lượng mưa và độ ẩm tương đối ở mức tối đa. Sự
phát triển theo mùa của các chỉ số côn trùng phù hợp với mùa vụ của dịch sốt
xuất huyết. Có mối tương quan thuận giữa nhiệt độ, độ ẩm và lượng mưa với
tỷ lệ mắc SXHD [67]. Theo kết quả nghiên cứu của Díaz Quijano và
Waldman cho thấy lượng mưa có liên quan chặt chẽ với tỉ lệ tử vong do sốt
xuất huyết ở Mỹ Latinh và các nước khu vực Caribbean [63]. Theo nghiên
cứu của Nguyễn Thi Văn Văn (Đồng Nai) có mối tương quan mạnh giữa
lượng mưa và số ca mắc (r = 0,897), giữa nhiệt độ với chỉ số nhà có bọ gậy và
dụng cụ chứa nước có bọ gậy (0,7 < r < 0,9) [52]. Điều này thể hiện tính phân
bố theo mùa của SXHD trên thế giới cũng như tại Việt Nam.
- Nhiệt độ: Nghiên cứu của tác giả Tsuzuki và cộng sự năm 2009 tại
thành phố Nha Trang tỉnh Khánh Hòa trong giai đoạn từ năm 2004 - 2006 đã
chỉ ra rằng sau khoảng 2 tháng khi nhiệt độ tăng cao thì số ca bệnh bắt đầu
tăng và khi nhiệt độ giảm thì số ca mắc vẫn còn duy trì ở mức cao sau 1 đến 2
tháng nữa rồi mới giảm [110].
Như vậy khi lượng mưa và nhiệt độ môi trường gia tăng là điều kiện hết

sức lý tưởng, phù hợp cho sự sinh sôi và phát triển của véc tơ truyền bệnh
SXH [104]. Các thống kê khoa học cho thấy, sự xuất hiện dịch sốt xuất huyết
có tính chất chu kỳ cứ 3 đến 5 năm lại xảy ra một trận dịch. Tại Việt Nam, cao
điểm của dịch sốt xuất huyết là vào mùa mưa, bởi đây là thời điểm độ ẩm tăng
cao, và dịch cũng liên quan từng thời điểm và từng vùng miền, thông thường
có 2 đỉnh dịch đáng lưu ý là tháng 4 - 5 và tháng 9 - 10 ở cả 3 miền Bắc,
Trung, Nam [27], [47].
1.2.4. Yếu tố di cư
Sự di cư đóng vai trò quan trọng trong sự xuất hiện của bệnh dịch
SXHD. Phần lớn thế kỷ 20, mặc dù châu Âu không có sự xuất hiện của bệnh


×