Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Câu hỏi thảo luận phần III, phần chủ nghĩa xã hội khoa học năm 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (610.94 KB, 26 trang )

CÂU HỎI THẢO LUẬN- PHẦN III - PHẦN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC NĂM 2018

Câu 1: Hãy phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về giai cấp công nhân và sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân? Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt
Nam hiện nay?
I. Khái niệm giai cấp công nhân
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin
C.Mác và Ăngghen đã dùng nhiều thuật ngữ khác nhau để nói về GCCN như: giai cấp vơ
sản, giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ dựa vào việc bán sức lao động của mình, lao động làm thuê ở
thế kỉ XIX, giai cấp vô sản hiện đại, giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp công nhân đại công
nghiệp như những cụm từ đồng nghĩa để biểu thị một khái niệm: GCCN - con đẻ của nền đại công
nghiệp TBCN, giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất hiện
đại.
Cũng theo C.Mác và Ăngghen, GCCN ln mang hai thuộc tính cơ bản sau:
• Về phương thức lao động, phương thức sản xuất: đó là những người lao động trực tiếp hay
gián tiếp vận hành các cơng cụ sản xuất có tính chất cơng nghiệp ngày càng hiện đại và xã
hội hố cao.
• Về vị trí trong quan hệ sản xuất TBCN: đó là người lao động khơng có tư liệu sản xuất,
phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột về giá trị thặng dư. Thuộc
tính thứ hai này nói lên một trong những đặc trưng cơ bản của giai cấp công nhân dưới chế
độ TBCN nên C.Mác và Ăngghen cịn gọi là giai cấp vơ sản.
2. Định nghĩa giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân là một tập đồn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với q
trình phát triển của nền cơng nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính
chất xã hội hố ngày càng cao; là lực lượng lao động cơ bản tiên tiến trong các quy trình cơng
nghệ, dịch vụ cơng nghiệp, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra
của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức sản
xuất tiên tiến trong thời đại hiện nay.
Tại các nước tư bản, GCCN là những người khơng có hoặc về cơ bản khơng có tư liệu sản
xuất, làm thuê cho giai cấp tư sản và bị bóc lột giá trị thặng dư. Cịn ở các nước xã hội chủ nghĩa,
GCCN là người đã cùng nhân dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu, là giai cấp


lãnh đạo xã hội trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
II. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
1. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
GCCN là giai cấp tiên tiến nhất. GCCN - con đẻ của nền sản xuất công nghiệp hiện đại,
đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; có lợi ích trực tiếp đối kháng với lợi ích của giai cấp
tư sản và thống nhất với lợi ích lâu dài của các tầng lớp nhân dân lao động khác; có hệ tư tưởng là
chủ nghĩa Mác - Lênin, có đảng tiên phong của mình là Đảng cộng sản; có tinh thần cách mạng
triệt để; có tính tổ chức kỷ luật cao - điều kiện sản xuất tập trung và trình độ kỹ thuật ngày càng
hiện đại, cơ cấu tổ chức sản xuất chặt chẽ đã tơi luyện cho giai cấp cơng nhân hiện đại tính tổ chức
và kỷ luật cao; là giai cấp có bản chất quốc tế.
* Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân: Trong sự chuyển biến từ hình thái kinh
tế xã hội TBCN lên hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa, GCCN là giai cấp trung tâm, có
nhiệm vụ phải thoả mãn các điều kiện: là giai cấp đại diện cho một phương thức sản xuất tiên tiến;
là giai cấp có hệ tư tưởng độc lập; giai cấp này phải tiến hành thuyết phục tập hợp và tổ chức quần

1


chúng làm cách mạng. Và hai nhiệm vụ quan trọng nhất đó là: tiến hành xố bỏ chế độ cũ, xây
dựng hình thái kinh tế xã hội mới tiến bộ hơn.
Thực chất nội dung sứ mệnh lịch sử của GCCN đó là:
• Trong lĩnh vực kinh tế: GCCN tiến hành xoá bỏ chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất,
xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nâng cao năng suất lao động, thoả mãn từng
bước nhu cầu phát triển của nhân dân.
• Trong lĩnh vực chính trị: GCCN phải trở thành giai cấp thống trị trong xã hội. Muốn vậy
nhiệm vụ đặt ra là phải đập tan chính quyền tư sản, xây dựng nền chun chính vơ sản mà
thực chất là để đảm bảo quyền lực chính trị thuộc về nhân dân.
• Trong lĩnh vực xã hội: GCCN phải tiến hành xoá bỏ giai cấp bóc lột, phải xố bỏ giai cấp
nói chung, tạo ra sự bình đẳng trong quan hệ giữa người với người.
GCCN có vai trị vơ cùng quan trọng trong lịch sử tồn nhân loại. Họ chính là lực lượng

lãnh đạo các sự nghiệp: sự nghiệp giải phóng giai cấp; sự nghiệp giải phóng xã hội và dân tộc; sự
nghiệp giải phóng người lao động và sự nghiệp giải phóng con người. Do đó sứ mệnh lịch sử của
GCCN phải được thực hiện trên toàn thế giới.
Điều kiện khách quan đã trao cho GCCN sứ mệnh lịch sử ấy là do địa vị kinh tế - xã hội,
GCCN là giai cấp gắn với lực lượng sản xuất tiên tiến nhất dưới CNTB, là con đẻ của nền đại công
nghiệp. Nền đại công nghiệp ngày càng làm cho GCCN trưởng thành hơn về học vấn, về ý thức tổ
chức kỷ luật và về đoàn kết đội ngũ. Nền sản xuất đại công nghiệp cũng làm cho mâu thuẫn cơ
bản của CNTB ngày càng gay gắt, đó là mâu thuẫn QHSX dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân với
LLSX hiện đại và XH hóa ngày càng cao. Chế độ chiếm hữu tư nhân chỉ phù hợp với tính chất sản
xuất cá thể, trình độ sản xuất thủ cơng. Với LLSX hiện đại và xã hội hóa cao thì họ khơng chấp
nhận chế độ chiếm hữu này cho nên dẫn đến mâu thuẫn. Mâu thuẫn này biểu hiện ra bên ngoài là
giữa giai cấp tư sản và GCCN, để giải quyết mâu thuẫn này thì chỉ có con đường đấu tranh cách
mạng. Và như vậy GCCN là lực lượng quyết định phá vỡ quan hệ sản xuất TBCN.
Bên cạnh đó cịn những điều kiện chủ quan (điều kiện quyết định) về SMLS GCCN đó là
GCCN ln vươn lên, hồn thiện ba tố chất đó là trình độ học vấn, đặt mình và kỷ luật và xây
dựng khối đoàn kết. Điều kiện chủ quan thứ hai là GCCN có Đảng cộng sản vững mạnh, tồn dân.
Đảng phải vững mạnh trên 4 mặt đó là tư tưởng (xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lenin),
chính trị (xây dựng đường lối, chính sách đúng đắn), tổ chức (chọn đúng người vào các vị trí,
nhiệm vụ), và đạo đức. Khi Đảng đã vững mạnh thì Đảng mới xứng đáng là đội tiên phong của
GCCN, xứng đáng là lãnh tụ chính trị của GCCN và xứng đáng là bộ tham mưu chiến đấu của
GCCN.
2. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay
Trước hết, GCCN phải là giai cấp thống trị về chính trị; là giai cấp quyết định xu hướng
phát triển của lịch sử; cầm quyền ở một số quốc gia trên thế giới. Hơn nữa, GCCN là động lực và
là lực lượng lãnh đạo cuộc đấu tranh nhằm thủ tiêu mọi sự áp bức bóc lột và sự tha hố con người,
sáng tạo ra xã hội mới. Thủ tiêu áp bức bóc lột và mọi hình thức tha hố, thực hiện sự giải phóng
con người địi hỏi GCCN trước hết phải giành lấy dân chủ, giành lấy chính quyền. Sau khi trở
thành giai cấp cầm quyền, GCCN trở thành lực lượng lãnh đạo, tổ chức và thực hiện quá trình xây
dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và CSCN trên phạm vi mỗi dân tộc và trên tồn thế giới,
thực hiện sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con

người. GCCN là lực lượng lãnh đạo tồn bộ cuộc đấu tranh để thủ tiêu hoàn toàn các giai cấp.
Thực hiện sứ mệnh lịch sử của GCCN không phải nhằm duy trì GCCN mà vì mục tiêu giải phóng
con người. Ngày nay trước sự biến đổi khơng ngừng của thế giới, khi mà CNTB đang thắng thế,
phong trào cách mạng trên thế giới đang tạm thoái trào và đặc biệt là cuộc cách mạng khoa học
2


cơng nghệ đang diễn ra với một tốc độ chóng mặt trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội thì
bản thân GCCN cũng đang có nhiều thay đổi.
Trước hết là những thay đổi về mặt chất của đội ngũ cơng nhân trên tồn thế giới. Ngày
nay trình độ tay nghề chuyên môn của giai cấp công nhân đã được nâng lên rõ rệt. Công nhân ngày
càng được nâng cao trình độ, tay nghề thêm vào đó là xu hướng "trí thức hố" cơng nhân đang
diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu. Đây là một xu thế tất yếu khách quan bởi nó xuất phát từ địi hỏi
của thực tiễn sản xuất. Đời sống của công nhân không ngừng được cải thiện. Tại các nước phát
triển GCCN đang được trung lưu hố, được quan tâm khơng chỉ về mặt vật chất mà còn cả về mặt
tinh thần. Bản thân GCCN thế giới cũng có nhiều chuyển biến tích cực về giác ngộ cách mạng,
tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin. Các phong trào đấu tranh của công nhân về vấn đề dân sinh dân
chủ đang diễn ra mạnh mẽ.
Bên cạnh đó GCCN hiện nay cũng có những chuyển biến mạnh mẽ về mặt lượng. Số lượng
công nhân thế giới không ngừng tăng lên, họ trở thành lực lượng lao động đơng đảo, chiếm vị trí
quan trọng hàng đầu trong xã hội. Khơng những vậy GCCN cịn đang biến đổi mạnh mẽ về cơ cấu
chủ yếu theo hướng: giảm số lượng lao động giản đơn, lao động trong những ngành nghề truyền
thống - tăng số lượng lao động phức tạp, lao động trong các ngành nghề hiện đại.
Ngày nay, kẻ thù của chủ nghĩa xã hội khoa học và một số kẻ cơ hội đang phủ nhận học
thuyết Mác - Lênin về sứ mệnh lịch sử của GCCN. Theo họ giai cấp công nhân ngày càng “teo
đi“, “tan biến” vào các giai cấp, tầng lớp xã hội khác. Nhưng thực tế đã chứng minh đó là ý kiến
hồn tồn sai lầm, vì GCCN hiện nay tuy có sự biến đổi về mặt số lượng hoặc dịch chuyển vào
các giai cấp khác, chất lượng công nhân không ngừng được năng cao nhưng bản chất của công
nhân và GCCN không hề thay đổi. Mặt khác, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất trong lòng chế độ TBCN đang diễn ra hết sức gay gắt. Tuy đã đạt được một số thành tựu

nhưng CNTB vẫn không sao giải quyết được những mâu thuẫn nội tại trong lịng nó. Nền kinh tế
TBCN có khả năng phát triển nhưng thường xuyên phải đương đầu với các cuộc khủng hoảng
nặng nề, với nhiều cơn suy thoái và nạn thất nghiệp. Phong trào đấu tranh của GCCN tuy đang
đứng trước những thách thức to lớn, nhưng sự phát triển LLSX thế giới vẫn đang chuẩn bị những
tiền đề khách quan cho GCCN thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Ở những nước tư bản phát
triển, tuy đời sống của một bộ phận không nhỏ trong GCCN đã được cải thiện, họ được "trung lưu
hoá", được nắm cổ phần trong các nhà máy, xí nghiệp. Song điều đó khơng có nghĩa là cơng nhân
ở các nước này khơng cịn bị bóc lột giá trị thặng dư. Một số cơng nhân có cổ phần, cổ phiếu trong
cơng ty nhưng điều đó khơng hề làm thay đổi một sự thật là toàn bộ tư liệu sản xuất TBCN vẫn
nằm trong tay giai cấp tư sản. Do đó GCCN về cơ bản vẫn bị bóc lột giá trị thặng dư và bị bóc lột
nhiều hơn trước. Mặt khác, cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ ngày nay
cũng là một trong những biện pháp "hoàn hảo" và "tinh vi" giúp giai cấp tư sản tiếp tục bóc lột giá
trị thặng dư của cơng nhân. Cũng có quan điểm cho rằng thời đại ngày nay là thời đại của nền “văn
minh trí tuệ”, của “kinh tế tri thức”, do đó tri thức mới là lực lượng tiên phong, có vai trị lãnh đạo
cách mạng. Tất nhiên, trí thức có vai trị quan trọng trong mọi thời đại. Song trí thức khơng thể
đóng vai trò lãnh đạo thay thế vai trò lãnh đạo thay thế giai cấp công nhân. Bởi lẽ trong xã hội trí
thức chỉ là một tầng lớp, họ chưa bao giờ và không bao giờ là một giai cấp. Mặt khác, trí thức
khơng có lợi ích đối kháng trực tiếp với lợi ích của giai cấp tư sản chính vì vậy mà trí thức khơng
có tinh thần cách mạng triệt để như giai cấp cơng nhân.
Những phân tích trên đã làm rõ những cơ sở khách quan để khẳng định GCCN có sứ mệnh
lịch sử là đấu tranh để thủ tiêu chế độ TBCN và từng bước xây dựng thành công xã hội mới - xã
hội CSCN với giai đoạn đầu là xã hội XHCN trên phạm vi toàn thế giới. Và dù lịch sử thế giới có
thay đổi như thế nào, GCCN có những bước chuyển biến ra sao thì sự thực đó là sứ mệnh lịch sử
3


của GCCN không thay đổi và GCCN sẽ thực hiện thành cơng sứ mệnh lịch sử của mình khi thời
cơ đến.
III. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam
1. Sứ mệnh lịch sử của GCCN Việt Nam

Cuối thế kỷ XI, đầu thế kỷ XX, nước ta là một nước thuộc địa nữa phong kiến với nền kinh
tế nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu. GCCN nước ta không phải là sản phẩm của nền đại công nghiệp
mà do chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp và là giai cấp có lợi ích trực tiếp đối kháng
với tư bản thực dân Pháp. Cùng với quá trình phát triển của cách mạng, GCCN nước ta sớm trở
thành một bộ phận của GCCN quốc tế. Song do điều kiện KTXH và hoàn cảnh ra đời nên GCCN
VN ngoài những đặc điểm chung của GCCN quốc tế, còn mang những đặc điểm riêng. Ra đời sau
cách mạng tháng mười Nga, GCCN nước ta là giai cấp thuần nhất về tư tưởng, sớm tập trung về
lực lượng, sớm giác ngộ cách mạng, tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lenin và tổ chức chính Đảng của
mình. Hơn nữa GCCN VN được thừa kế truyền thống đấu tranh anh hùng, bất khuất của dân tộc,
lại phải chị ba tầng áp bức nặng nề nên họ có tinh thần cách mạng cao. Đa số công nhân xuất thân
từ nông dân và các tầng lớp lao động khác nên có mối liên hệ khăng khít, thường xun, chặt chẽ
với giai cấp nơng dân, tầng lớp tri thức cũng như những giai tầng khác trong xã hội. Là một bộ
phận của GCCN quốc tế nhưng với những đặc điểm vừa phân tích, SMLS của GCCN VN cũng có
những nội dung khác so với SMLS của GCCN thế giới nói chung.
Trong giai đoạn những năm 30 của thế kỷ XX, ta có thể khẳng định SMLS của GCCN VN
đó là lãnh đạo cách mạng thơng qua đội tiên phong của mình là ĐCSVN đánh đuổi bè lũ thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ, giành lại độc lập tự do cho dân tộc.
Trong giai đoạn hiện nay, khi mà đất nước ta đã và đang tiến hành cơng cuộc đổi mới trên
tất cả các lĩnh vực thì GCCN VN phải “tự mình trở thành dân tộc”, tiêu biểu cho quyền lợi dân
tộc, đặt quyền lợi dân tộc lên trên quyền lợi giai cấp, giữ vững bản chất cách mạng, bản lĩnh chính
trị của mình, lấy mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh để phấn đấu
và đặc biệt là trở thành lực lượng đi đầu trong công cuộc CNH-HDH, xây dựng đất nước thời kỳ
đổi mới.
NQ 20 NQ/TW hội nghị lần thứ sáu BCH TW Đảng khóa X khẳng định: Giai cấp cơng
nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn: Là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong
là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên
phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh;
lực lượng nịng cốt trong liên minh giai cấp cơng nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức
dưới sự lãnh đạo của Đảng.

2. Thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam
NQ 20 NQ/TW hội nghị lần thứ sáu BCH TW Đảng khóa X, qua hơn 20 năm đổi mới,
cùng với q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, giai cấp cơng nhân nước ta đã có những
chuyển biến quan trọng, tăng nhanh về số lượng, đa đạng về cơ cấu, chất lượng được nâng lên, đã
hình thành ngày càng đơng đảo bộ phận cơng nhân trí thức; đang tiếp tục phát huy vai trò là giai
cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp tiên phong
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp cơng nghiệp hố,
hiện đại hố đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế; có nhiều cố gắng để phát huy vai trò là lực lượng
nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giai cấp cơng nhân đã đóng góp trực tiếp to
lớn vào quá trình phát triển của đất nước, cùng với các giai cấp, tầng lớp và thành phần xã hội
khác, giai cấp cơng nhân nước ta là cơ sở chính trị - xã hội vững chắc của Đảng và Nhà nước.
4


Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, việc làm và đời sống của giai cấp công
nhân ngày càng được cải thiện.
Tuy nhiên, sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng,
cơ cấu và trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của sự nghiệp cơng nghiệp hố,
hiện đại hố và hội nhập kinh tế quốc tế; thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản
lý giỏi, công nhân lành nghề; tác phong cơng nghiệp và kỷ luật lao động cịn nhiều hạn chế; đa
phần công nhân từ nông dân, chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống. Một bộ phận cơng nhân
chậm thích nghi với cơ chế thị trường. Địa vị chính trị của giai cấp cơng nhân chưa thể hiện đầy
đủ. Giai cấp cơng nhân cịn hạn chế về phát huy vai trò nòng cốt trong liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Giác ngộ giai cấp và
bản lĩnh chính trị của cơng nhân khơng đồng đều; sự hiểu biết về chính sách, pháp luật còn nhiều
hạn chế. Tỉ lệ đảng viên và cán bộ lãnh đạo xuất thân từ cơng nhân cịn thấp. Một bộ phận công
nhân chưa thiết tha phấn đấu vào Đảng và tham gia hoạt động trong các tổ chức chính trị - xã hội.
Nhìn tổng qt, lợi ích một bộ phận công nhân được hưởng chưa tương xứng với những thành tựu
của cơng cuộc đổi mới và nhưng đóng góp của chính mình; việc làm, đời sống vật chất và tinh

thần của cơng nhân đang có nhiều khó khăn, bức xúc, đặc biệt là ở bộ phận công nhân lao động
giản đơn tại các doanh nghiệp của tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi.
Tình hình trên bắt nguồn từ các nguyên nhân: Quá trình đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội
đã mở ra một giai đoạn lịch sử mới trong sự phát triển của giai cấp công nhân; tuy nhiên những
hạn chế, yếu kém trong phát triển kinh tế - xã hội cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc làm, đời
sống và tư tưởng, tình cảm của cơng nhân. Đảng có chú trọng xây dựng giai cấp công nhân; nhưng
quan tâm chưa đầy đủ, chưa ngang tầm với vị trí, vai trị của giai cấp công nhân trong thời kỳ mới.
Nhà nước ban hành nhiều chính sách, pháp luật xây dựng giai cấp cơng nhân; nhưng những chính
sách, pháp luật này vẫn cịn nhiều hạn chế, bất cập. Cơng đồn và các tổ chức chính trị - xã hội
khác có nhiều đóng góp tích cực vào việc xây dựng giai cấp công nhân; nhưng hiệu quả chưa cao,
còn nhiều yếu kém. Bản thân giai cấp cơng nhân đã có nhiều nỗ lực vươn lên; nhưng chưa đáp ứng
được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Các doanh nghiệp và người
sử dụng lao động thuộc các thành phần kinh tế đóng góp tích cực vào tạo việc làm và thu nhập cho
cơng nhân; nhưng khơng ít trường hợp cịn vi phạm chính sách, pháp luật đối với người lao động.
3. Những phương hướng, giải pháp xây dựng GCCN VN
NQ 20 NQ/TW hội nghị lần thứ sáu BCH TW Đảng khóa X, mục tiêu xây dựng giai cấp
cơng nhân
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu “đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại”, mục tiêu xây dựng giai cấp công nhân đến năm 2020 là:
Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, có giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị vững
vàng; có ý thức cơng dân, u nước, u chủ nghĩa xã hội, tiêu biểu cho tinh hoa văn hoá của dân
tộc; nhạy bén và vững vàng trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và những biến
đổi của tình hình trong nước; có tinh thần đồn kết dân tộc, đoàn kết, hợp tác quốc tế; thực hiện
sứ mệnh lịch sử của giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt
Nam. Nói chung, trong các doanh nghiệp đều có tổ chức cơ sở đảng, cơng đồn, Đồn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam.
Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, phát triển nhanh về số lượng, nâng cao chất lượng,
có cơ cấu đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước; ngày càng được trí thức hố: có trình độ học vấn,
chun mơn, kỹ năng nghề nghiệp cao, có khả năng tiếp cận và làm chủ khoa học - công nghệ tiên
tiến, hiện đại trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức; thích ứng nhanh với cơ chế thị trường và


5


hội nhập kinh tế quốc tế; có giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị vững vàng, có tác phong công
nghiệp và kỷ luật lao động cao.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần IX ĐCSVN đặc biệt chú trọng phương hướng xây dựng
GCCN VN trong quá trình CNH-HĐH đất nước theo định hướng XHCN như sau: “Đối với GCCN,
coi trọng việc phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình
độ học vấn và nghề nghiệp, thực hiện “trí thức hóa cơng nhân”, nâng cao năng lực ứng dụng và
sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất cao, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao, xứng
đáng là lực lượng đi đầu trong CNH, HĐH đất nước và vai trò lãnh đạo cách mạng trong thời kì
mới. Bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của GCCN trong điều kiện thực
hiện kinh tế thị trường. Tăng cường đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lí và kết nạp đảng viên từ những
công nhân ưu tú, tăng cường thành phần công nhân trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp, các
ngành”.
Để thực hiện được phương hướng trên, Hội nghị BCHTW lầ thứ sáu khóa X, Đảng đã đưa
ra một số giải pháp sau:
Tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về giai cấp công nhân trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng đào tạo nghề, từng bước trí thức hố giai cấp cơng nhân.
Quan tâm bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp, tinh thần dân tộc cho giai
cấp công nhân
Bổ sung, sửa đổi, xây dựng và thực hiện nghiêm hệ thống chính sách, pháp luật để đảm
bảo quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho
công nhân
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của tổ chức cơng đồn và các tổ chức
chính trị - xã hội khác trong xây dựng giai cấp công nhân
Kết luận: SMLS của GCCN là xóa bỏ CNTB, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải

phóng mình, giải phóng nhân dân lao động và tồn thể nhân loại thốt khỏi sự áp bức bóc lột, xây
dựng thành cơng XH CSCN. Là một bộ phận của GCCN thế giới, GCCN VN cũng mang trên mình
sứ mệnh lịch sử ấy nhưng ngồi ra trong giai đoạn hiện nay khi mà Đảng và Nhà nước đang đẩu
nhanh quá trình CNH-HĐH đất nước thì GCCN VN cần: “Coi trọng việc phát triển về số lượng và
chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, thực hiện “trí
thức hóa cơng nhân”, nâng cao năng lực ứng dụng và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng
suất cao, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong quá trình
CNH-HĐH đất nước và vai trò lãnh đạo cách mạng trong thời kì mới”.
Câu 2: Trình bày tính tất yếu ra đời và các giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế cộng
sản chủ nghĩa? Nêu sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam về con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta hiện nay?
1. Khái niệm hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
C.Mác và Ph.Ăngghen đã vận đụng một cách triệt để quan điểm duy vật về lịch sử để
nghiên cứu xã hội lồi người, từ đó đã xây dựng nên học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, phân
tích một cách khoa học sự chuyển biến từ hình thái kinh tế - xã hội thấp lên hình thái kinh tế - xã
hội cao hơn và khẳng định lịch sử xã hội loài người là lịch sử kế tiếp nhau của các hình thái kinh
tế - xã hội phát triển từ thấp đến cao diễn ra như “một quá trình lịch sử - tự nhiên”.
Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa là chế độ xã hội phát triển cao nhất, có quan
hệ sản xuất dựa trên sở hữu cơng cộng về tư liệu sản xuất, thích ứng với lực lượng sản xuất ngày
6


càng phát triển, tạo thành cơ sở hạ tầng có trình độ cao hơn so với cơ sở hạ tầng của chủ nghĩa tư
bản; có kiến trúc thượng tầng tương ứng thực sự là của nhân dân với trình độ xã hội hoá ngày càng
cao.
2. Xu thế tất yếu ra đời hình thái kinh tế CSCN
Sự phát triển của xã hội lồi người là một q trình lịch sử tự nhiên của sự thay thế các
hình thái kinh tế xã hội từ thấp đến cao. Lịch sử xã hội loài người trải qua các hình thái kinh tế xã
hội: cộng xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và tiến tới là cộng sản
chủ nghĩa. Sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa như một quá trình lịch sử tự

nhiên. C. Mác và Ph. Ăng ghen đã luận giải làm rõ sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản là hoàn toàn tất yếu mang tính quy luật.
Thứ nhất, đó là quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất. Đây cũng là tất yếu về kinh tế của sự ra đời của một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn
hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa, nó sẽ tạo ra sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với lực
lượng sản xuất.
Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một mức nào đó thì quan hệ sản xuất cũ sẽ khơng
cịn phù hợp, gây cản trở cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. Mâu thuẫn đó sẽ được giải quyết
bằng việc phá vỡ quan hệ sản xuất cũ, hình thành quan hệ sản xuất mới tiến bộ, phù hợp kéo theo
sự thay đổi của phương thức sản xuất nói riêng và của hình thái kinh tế - xã hội nói chung. Một
hình thái kinh tế - xã hội tiến bộ hơn sẽ ra đời. Từ giữa thế kỷ XIX, phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa phát triển cả chiều rộng và chiều sâu, lực lượng sản xuất ngày càng có quy mơ lớn, hiện
đại, xã hội hóa nhờ hàng loạt phát minh trong các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật. Tuy nhiên, quan hệ
sản xuất thống trị vẫn là quan hệ dựa trên chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đã trở thành lực
cản lớn đối với lực lượng sản xuất ngày càng phát triển và xã hội hóa rộng lớn. Mâu thuẫn cơ bản
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trước hết từ mâu thuẫn kinh tế này kéo theo hàng loạt
mâu thuẫn khác về chính trị, xã hội dẫn đến sự ra đời của một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn
hình thái kinh tế xã hội vốn có. Đó chính là hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa được C.
Mác và Ph. Angghen đã luận giải.
Thứ hai, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng. Chính trị là phản ánh của
kinh tế, cơ sở hạ tầng là các quan hệ kinh tế do lực lượng sản xuất quy định sẽ tác động đến kiến
trúc thượng tầng của xã hội. Khi lực lượng sản xuất ngày càng xã hội hóa mâu thuẫn gay gắt với
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa thì kiến trúc thượng tầng của xã hội tư bản mà nòng cốt là Nhà
nước tư sản cũng phải bị thay thế bằng cách mạng. Cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân và giai
cấp tư sản sẽ diễn ra và tiến trình cách mạng sẽ dẫn đến sự ra đời của chính quyền của giai cấp
cơng nhân và nhân dân lao động, thay thế Nhà nước chỉ đại diện cho lợi ích của giai cấp tư sản,
các tập đoàn tư bản.
Một quy luật khác cũng tác động dến sự ra đời và phát triền của hình thái kinh tế xã hội
cộng sản chủ nghĩa, đó là quy luật cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Hình thái kinh tế xã
hội cộng sản chủ nghĩa ra đời và phát triền dựa trên kết quả lao động sáng tạo của giai cấp công

nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ tri thức và các lực lượng lao động khác. Vai trò tham gia với ý
thức tự giác, sáng tạo của nhân dân sẽ quyết định những nhân tố quyết định cho sự ra đời, tồn tại
và phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Sự tác động của các quy luật trên cho thấy, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ra
đời là tất yếu, song đây là quá trình rất lâu dài, gian khó, phức tạp. Để hình thái KTXH CSCN trở
thành hiện thực trên thế giới đòi hỏi trước hết các ĐCS và đảng công nhân các nước phải luôn kết
hợp lý luận với thực tiễn, tổng kết thực tiễn để phát triển, hoàn thiện lý luận, kết hợp cái phổ biến
và cái đặc thù trong quan niệm về XH XHCN và con đường đi lên CNXH phù hợp với đặc điểm
7


lịch sử cụ thể của từng quốc gia, dân tộc. Xây dựng hình thái KTXH CSCN phải bắt đầu từ xây
dựng và hoàn thiện CNXH từ các quốc gia, dân tộc.
Hai giai đoạn phát triên của hình thái kinh tế - Xã hội cộng sản chủ nghĩa
Xã hội cộng sản chủ nghĩa phát triền qua hai giai đoạn cơ bản: C.Mác gọi các giai đoạn đó
là giai đoạn đầu hay giai đoạn thấp và giai đoạn sau hay là giai đoạn cao V.I.Lênin gọi giai đoạn
đầu là chủ nghĩa xã hội hay xã hội cộng sản chủ nghĩa, giai đoạn cao là chủ nghĩa cộng sản xã hội
cộng sản chủ nghĩa.
Hai giai đoạn phát triền trong một xã hội thống nhất do đó có điểm giống nhau về bản chất.
Sự giống nhau về kinh tế là cùng tồn tại trên cơ sở chế độ công hữu tư liệu sản xuất, sự giống nhau
về chính trị là người lao động làm chủ. Sự khác nhau về kinh tế thể hiện tập trung là ở giai đoạn
đầu thực hiện “phân phối theo lao động" giai cao “phân phối theo nhu cầu”. Sự khác nhau về chính
trị là ở giai đoạn đầu cịn sự khác giai cấp và còn nhà nước; ở giai đoạn khơng cịn sự khác giai
cấp, khơng cịn nhà nước.
Hai giai đoạn cùng trong một hình thái kinh tế-xã hội, do đó giống nhau về bản chất, khác
nhau ở trình độ phát triển. Từ giai đoạn thấp phát triển sang giai đoạn cao chỉ là q trình chín
muồi dần của các nhân tố kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... V.I.Lênin viết: “sự khác nhau về mặt
khoa học giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản chỉ là ở chỗ: danh từ trên thì chỉ giai đoạn
đầu của xã hội mới, lọt lòng từ chủ nghĩa tư bản; cịn danh từ dưới thì chỉ giai đoạn sau đó, giai
đoạn cao hơn của xã hội đó” .

V.I.Lênin cịn chi rõ: “Nhưng, về mặt khoa học, thì sự khác nhau giữa chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa cộng sản thật là rõ ràng. Cái mà người ta thường gọi là chủ nghĩa xã hội, thì Mác gọi là
giai đoạn “đầu” hay giai đoạn thấp của xã hội cộng sản chủ nghĩa”. Đồng thời V.I.Lênin chi rõ sự
giống nhau giữa hai giai đoạn để chúng ta có thể gọi giai đoạn đầu là xã hội cộng sản chủ nghĩa ở
lĩnh vực kinh tế là chế độ công hữu.
Cơ sở phân chia xa hội cộng sản chủ nghĩa thành hai giai đoạn là lý luận về sự tiến hóa.
Theo C.Mác, mỗi sự vật đều có q trình phát triển từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn
thiện, sự phát triển của xã hội cộng sản chủ nghĩa cũng không nằm ngồi quy luật tiến hóa ấy.
C.Mác cịn chỉ rõ giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa, tức là xã hội xã hội chủ nghĩa, là
giai đoạn xã hội vừa mới lọt lịng, thốt thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa sau những cơn đau đẻ kéo
dài.
XH XHCN thì có 5 đặc trưng cơ bản:
• Đặc trưng về chính trị: Giải phóng con người khỏi áp bức chính trị. Xây dựng chế
độ dân chủ XHCN mà thực chất là xây dựng nhà nước mà tất cả quyền hành thuộc
về nhân dân.
• Đặc trưng về kinh tế: Xóa bỏ chế độ tư hữu, người bóc lột người bằng cách xây
dựng nền kinh tế mà chế độ sở hữu cơng hữu là chủ yếu. Tuy nhiên để xóa bỏ chế
độ sở hữu tư nhân thì khơng dễ, phải bằng cách xây dựng nền kinh tế phát triển cao,
xóa đói nghèo, ngu dốt.
• Đặc trưng về xã hội: Xây dựng xã hội cơng bằng, bình đẳng. Tuy nhiên cơng bằng
thực sự chỉ có khi nền kinh tế phát triển cao, trong nền kinh tế cịn đang phát triển
thì cơng bằng cũng chỉ nằm trong mức cho phép của nền kinh tế.
• Đặc trưng về văn hóa: Xóa bỏ hệ tư tưởng/nền văn hóa cũ, làm cho chủ nghĩa Máclenin trở thành nền tảng tinh thần CNXH.
• Đặc trưng đối ngoại: Quan hệ hợp tác, hịa bình, bình đẳng với tất cả các nước.

8


Như vậy XH XHCN là một xã hội triệt để giải phóng con người, con người hồn tồn tự
do. Con người làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ chính bản thân mình. Chế độ này sớm

muộn gì cũng trở thành hiện thực vì nó đáp ứng được mong muốn của toàn nhân loại.
Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
hiện nay
Sau khi giành được chính quyền năm 1945, xã hội VN về cơ bản là xã hội phong kiến, khi
đó sứ mệnh xóa bỏ giai cấp phong kiến thuộc về giai cấp tư sản. Tuy nhiên giai cấp tư sản nước ta
thời kỳ đó cịn yếu, vì vậy Đảng và Bác Hồ đã quyết định xây dựng CNXH ở VN mà bỏ qua chế
độ TBCN. Điều này cũng phù hợp quy luật khách quan, vì khơng nhất thiết các nước phải đi tuần
tự qua hết các PTSX để tiến lên CNCS mà giai đoạn đầu của nó là CNXH, họ có thể bỏ qua một
hoặc một số bước. Điều này đã diễn ra ở một số nước như Mỹ, Trung Quốc, Cu Ba…Điều kiện để
một PTSX bị bỏ qua là khi nó đã bị lỗi thời. Ví dụ đối với VN, CNTB khi ấy đã lỗi thời vì nó bị
phủ định bởi cách mạng tháng 10 Nga, cho nên chúng ta đã quyết định bỏ qua hình thái TBCN.
Điều kiện thứ hai để chúng ta có thể bỏ qua CNTB là vì chúng ta có LLSX mới, đó là giai cấp
cơng nhân và có chính đảng của giai cấp cơng nhân. Điều kiện thứ ba là chúng ta có được sự ủng
hộ của các nước XHCN anh em và nhân dân tiến bộ trên thế giới.
Năm đặc điểm về con đường đi lên CNXH ở nước ta đó là độc lập dân tộc kết hợp CNXH;
Đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước gắn phới phát triển nền kinh tế tri thức định hướng XHCN; Không
thể nóng vội, chủ quan duy ý chí, làm việc cần phải có lộ trình; Đi lên CNXH cần phải qua nhiều
khâu, nhiều giai đoạn; và tiếp tục đổi mới phát triển đất nước theo định hướng XHCN.
Tại Đại hội XII, Đảng ta khẳng định tiếp tục kiên định con đường đi lên CNXH ở VN.
“Con đường đi lên CNXH ở nước ta là phù hợp với thực tiễn của VN và xu thế phát triển của lịch
sử”. Phát triển theo định hướng XHCN là một sự lựa chọn hợp quy luật và là xu thế phát triển tất
yếu của lịch sử nhân loại.
Theo cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển
năm 2011), Đảng ta đã xác định 8 đặc trưng của xã hội XHCN ở nước ta: “Xã hội XHCN mà nhân
dân ta xây dựng là một xã hội: (1) Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; (2) do
nhân dân làm chủ; (3) có nền kinh tế phát triển cao dựa trên LLSX hiện đại và quan hệ sản xuất
(QHSX) tiến bộ phù hợp; (4) có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; (5) con người có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện; (6) các dân tộc trong cộng
đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp nhau cùng phát triển; (7) có Nhà nước pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; (8) có quan hệ

hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
Đồng thời Đại hội XII Đảng ta tiếpp tục khẳng định 8 phương hướng cơ bản nhằm thực
hiện thành công các mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm: (1) Đẩy
mạnh CNH-HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên môi trường; (2)
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; (3) Xây dựng nền văn hoá tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội; (4) bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội;
(5) Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế; (6) Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn
kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất; (7) Xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; (8) Xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh.
Trong q trình thực hiện các phương hướng cơ bản đó, phải đặc biệt chú trọng nắm vững
và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn. Đại hội XII, Đảng đã chỉ ra 9 mối quan hệ lớn cần phải tiếp
9


tục quán triệt và xử lý tốt: (1) Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; (2) Quan hệ giữa đổi
mới kinh tế và đổi mới chính trị; (3) Quan hệ giữa kinh tế thị trường và bảo đảm định hướng xã
hội chủ nghĩa; (4) Quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; (5) Quan hệ giữa nhà nước và thị trường; (6) Quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và phát triển văn hố, thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội; (7) Quan hệ giữa xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; (8) Quan hệ giữa độc lập, tự chủ và
hội nhập quốc tế; (9) Quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Câu 3: Nêu bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa? Liên hệ quá trình dân chủ hố ở
nước ta hiện nay?
1. Khái niệm dân chủ
Dân chủ là một hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội, trong đó thừa nhận nhân
dân là chủ thể của quyền lực.
Theo quan niệm của Lênin: Dân chủ là sự thống trị của đa số thì có thể hiểu dân chủ được

nhìn nhận như một quyền lực mà tất cả quyền lực thuộc về đa số người dân chứ khơng phải của
một nhóm người, quyền lực này được nhân dân giao cho nhà nước của mình, là người đại diện cho
mình. Dân chủ được nhìn nhận như là một hình thức tổ chức nhà nước, trong đó thừa nhận sự tham
gia của đơng đảo quần chúng nhân dân vào công việc quản lý nhà nước để thực hiện sự thống trị
đối với thiểu số những kẻ vi phạm dân chủ của nhân dân. Mức độ, phạm vi tham gia thật sự của
quần chúng nhân dân vào cơng việc quản lý nhà nước phản ánh trình độ phát triển của nền dân
chủ, phản ánh những vấn đề cốt lỗi nhất của dân chủ.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản, nội dung Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã
khẳng định: "Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự phát triển đất nước". Sự khẳng định trên đây đã chỉ rõ: Nước ta đi theo con đường xã hội
chủ nghĩa, vì vậy, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là vấn đề quan trọng xuyên suốt trong
quá trình cách mạng của nước ta.
Trong lịch sử phát triển với tư cách là một nhà nước một chế độ chính trị thì có ba nền dân
chủ đó là: nền dân chủ chủ nô, gắn với chế độ chiếm hữu nô lệ; nền dân chủ tư sản, gắn với chế
độ tư bản chủ nghĩa; nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, gắn với chế độ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên
muốn biết một nhà nước dân chủ có thực sự dân chủ hay không phải xem xét nhà nước ấy dân là
ai và bản chất của chế độ xã hội ấy như thế nào. Như vậy thuật ngữ dân chủ chỉ xuất hiện khi trước
đó đã tồn tại ba yếu tố: nhân dân, quyền lực công cộng và mối quan hệ giữa chúng. Thực ra các
yếu tố cấu thành nội dung của khái niệm dân chủ đã tồn tại suốt chiều dài lịch sử (trừ chế độ
nguyên thuỷ), nhưng bản chất của dân chủ khơng nằm trong các yếu tố đó mà nằm trong mối quan
hệ xác định giữa chúng: quan hệ sở hữu và chi phối quyền lực công cộng từ phía nhân dân.
Ngồi các nghĩa trên dân chủ cịn được hiểu là một nguyên tắc tổ chức, phương thức sinh
hoạt của một tổ chức chính trị- xã hội, một cộng đồng dân cư, theo nguyên tắc thiểu số phục tùng
đa số.
Khi xã hội phân chia thành giai cấp và có nhà nước thì khơng có dân chủ chung chung, dân
chủ phi giai cấp, siêu giai cấp, dân chủ thuần tuý. Trái lại, dân chủ mang bản chất giai cấp thống
trị xã hội. Dân chủ cịn là một phạm trù chính trị vì nó thể hiện bản chất của chế độ chính trị, của
giai cấp thống trị mà ở đó nó tồn tại, phản ánh bản chất và lợi ích của giai cấp thống trị.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã nêu ra những quan niệm cơ bản về dân chủ như sau: Thứ nhất,

dân chủ là sản phẩm tiến hóa của lịch sử, là nhu cầu khách quan của con người. Với tư cách là
quyền lực của nhân dân, dân chủ là sự phản ánh những giá trị nhân văn, là kết quả của cuộc đấu
tranh lâu dài của nhân dân chống lại áp bức, bóc lột, bất cơng. Thứ hai, dân chủ với tư cách là một
10


phạm trù chính trị gắn với một kiểu nhà nước và một giai cấp cầm quyền thì sẽ khơng có "dân chủ
phi giai cấp”, "dân chủ chung chung". Trong xã hội có giai cấp, việc thực hiện dân chủ cho những
tập đoàn người này là đã loại trừ hay hạn chế dân chủ của tập đoàn người khác. Mỗi chế độ dân
chủ gắn với nhà nước đều mang bản chất của giai cấp thống trị. Thứ ba, dân chủ còn được hiểu
với tư cách là một hệ giá trị phản ánh trình độ phát triển cá nhân và cộng đồng xã hội trong q
trình giải phóng xã hội, chống áp bức, bóc lột và nơ dịch để tiến tới tự do, bình đẳng. Theo
V.I.Lênin, dân chủ là bình đẳng. Rõ ràng là cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản để giành quyền
bình đẳng có một ý nghĩa rất lớn, nghĩa là phải hiểu bình đẳng cho đúng, hiểu theo nghĩa xóa bỏ
giai cấp. Trong xã hội có giai cấp và nhà nước, quyền lực của nhân dân được thể chế hóa bằng chế
độ nhà nước, pháp luật và cũng từ khi xã hội có giai cấp, dân chủ được thực hiện dưới hình thức
mới - hình thức nhà nước với tên gọi là "chính thể dân chủ" hay "nền dân chủ".
Nền dân chủ hay chế độ dân chủ là hình thái dân chủ gắn với bản chất, tính chất của nhà
nước; là trạng thái được xác định trong những điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội có giai cấp. Nền
dân chủ do giai cấp thống trị đặt ra được thể chế hóa bằng pháp luật. V.I.Lênin cho rằng: "Chế độ
dân chủ là một hình thức nhà nước, một trong những hình thái của nhà nước. Cho nên, cũng như
mọi nhà nước, chế độ dân chủ là việc thi hành có tổ chức, có hệ thống sự cưỡng bức đối với người
ta"1. Do đó, nền dân chủ ln gắn với nhà nước như là cơ chế để thực thi dân chủ và mang bản
chất giai cấp của giai cấp thống trị.
Các nhà nước dân chủ đều có điểm chung đó là thừa nhận quyền thuộc về nhân dân, đó là
quyền bầu ra nhà nước, quyền giám sát nhà nước và quyền được bãi nhiệm những người được bầu
mà không đạt yêu cầu.
2. Những đặc trưng cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Phân tích thực tiễn quá trình xuất hiện, tồn tại và phát triển của các nền dân chủ trong lịch
sử, đặc biệt là những quy luật của nền dân chủ chủ nô, dân chủ tư sản, các nhà kinh điển của chủ

nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định: đấu tranh cho dân chủ là một q trình lâu dài và khơng thể
dừng lại ở dân chủ tư sản. Sự tất yếu diễn ra và thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa cùng là
sự tất yếu ra đời của một nên dân chủ mới - dân chủ xã hội chủ nghĩa. Quá trình đó gắn liền với
q trình ra đời của chủ nghĩa xã hội.
Sự hình thành dân chủ xã hội chủ nghĩa đánh dấu bước phát triển mới về chất của dân chủ.
Lần đầu tiên trong lịch sử, đã hình thành chế độ dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân.
Tuy nhiên, sự hình thành và phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một quá trình
lâu dài. Cách mạng xã hội chủ nghĩa tạo ra những điều kiện cần thiết để giải phóng quần chúng
nhân dân lao động, để mở rộng dân chủ và trên cơ sở đó cách mạng xã hội chủ nghĩa cũng lơi cuốn
nhân dân lao động vào công cuộc cải tạo xã hội, xây dựng nền dân chủ mới.
Chính vì vậy, dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của tiến trình cách mạng xã hội chủ
nghĩa và dân chủ xã hội chủ nghĩa sẽ được hình thành, phát triển dần dần, từng bước phù hợp với
quá trình phát triển của kinh tế, chính trị và văn hóa, xã hội.
Trong q trình hình thành và phát triển, dân chủ xã hội chủ nghĩa có những đặc trưng cơ
bản sau đây:
Một là, với tư cách là chế độ nhà nước được sáng tạo bởi quần chúng nhân dân lao động
dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa bảo đảm mọi quyền lực đều thuộc
về nhân dân. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là thiết chế chủ yếu thực thi dân chủ do giai cấp công
nhân lãnh đạo thơng qua chính đảng của nó. Nhà nước bảo đảm thỏa mãn ngày càng cao các nhu
cầu và lợi ích của nhân dân, trong đó có lợi ích của giai cấp cơng nhân. Đây chính là đặc trưng bản
chất chính trị của dân chủ xã hội chủ nghĩa. Điều đó cho thấy, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có
bản chất giai cấp cơng nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
11


Hai là, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có cơ sở kinh tế là chế độ công hữu về những tư liệu
sản xuất chủ yếu của toàn xã hội. Chế độ sở hữu đó phù hợp với q trình xã hội hóa ngày càng
cao của sản xuất nhằm thỏa mãn nhu cầu không ngừng tăng lên về vật chất và tinh thần của tất cả
quần chúng nhân dân lao động. Đây là đặc trưng kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đặc
trưng này được hình thành và bộc lộ ngày càng đầy đủ cùng với quá trình hình thành và hồn thiện

của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Đó là q trình cải tạo và xây dựng lâu dài kể từ khi bước vào
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cho đến khi chủ nghĩa xã hội thực sự trưởng thành.
Ba là, trên cơ sở của sự kết hợp hài hịa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích của tồn
xã hội (do nhà nước của giai cấp cơng nhân đại diện), nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có sức động
viên, thu hút mọi tiềm năng sáng tạo, tính tích cực xã hội của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng
xã hội mới. Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, tất cả các tổ chức chính trị - xã hội, các đồn thể
và mọi cơng dân đều được tham gia vào công việc của nhà nước (bằng thảo luận, góp ý kiến xây
dựng chính sách, hiến pháp, pháp luật...). Mọi công nhân đều được bầu cử, ứng cử và đề cử vào
các cơ quan nhà nước các cấp.
Bốn là, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cần có và phải có những điều kiện tồn tại với tư cách
là một nền dân chủ rộng rãi nhất trong lịch sử nhưng vẫn là nền dân chủ mang tính giai cấp. Thực
hiện dân chủ rộng rãi với đông đảo quần chúng nhân dân, đồng thời hạn chế dân chủ và thực hiện
trấn áp thiểu số những thế lực phản động chống phá chủ nghĩa xã hội. Trong nền dân chủ đó,
chun chính và dân chủ là hai mặt, hai yếu tố quy định lẫn nhau, tác động, bổ sung cho nhau. Đây
chính là chuyên chính kiểu mới và dân chủ theo lối mới trong lịch sử.
Năm là, nếu dân chủ xã hội chủ nghĩa không ngừng được mở rộng cùng với sự phát triển
kinh tế, xã hội; hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế hoạt động và trình độ dân trí.
3. Bản chất của dân chủ XHCN
a) Bản chất chính trị
Dưới sự lãnh đạo duy nhất của một đảng của giai cấp công nhân mà trên mọi lĩnh vực xã
hội đều thực hiện quyền lực của nhân dân, thể hiện qua các quyền dân chủ, làm chủ, quyền con
người, thoả mãn ngày càng cao hơn các nhu cầu và các lợi ích của nhân dân. Chủ nghĩa Mác-Lênin
chỉ rõ: Bản chất chính trị của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự lãnh đạo chính trị của giai cấp
cơng nhân thơng qua đảng của nó đối với tồn xã hội, nhưng không phải chỉ để thực hiện quyền
lực và lợi ích riêng cho giai cấp cơng nhân, mà chủ yếu là để thực hiện quyền lực và lợi ích của
tồn thể nhân dân, trong đó có giai cấp cơng nhân. Hồ Chí Minh cũng đã chỉ rõ: Trong chế độ dân
chủ xã hội chủ nghĩa thì bao nhiêu quyền lực đều là của dân, bao nhiêu sức mạnh đều ở nơi dân,
bao nhiêu lợi ích đều là vì dân… Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa…
do đó về thực chất là của nhân dân, do nhân dân vì nhân dân. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa,
khác với các cuộc cách mạng trước đây là ở chỗ nó là cuộc cách mạng của số đơng, vì lợi ích của

số đơng nhân dân. V.I. Lênin còn nhấn mạnh rằng: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ mà nhân
dân ngày càng tham gia nhiều vào công việc nhà nước. Với ý nghĩa đó, V.I. Lênin đã diễn đạt một
cách khái quát về bản chất và mục tiêu của dân chủ xã hội chủ nghĩa rằng: đó là nền dân chủ “gấp
triệu lần dân chủ tư sản”. Do vậy, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có bản chất giai cấp cơng nhân,
vừa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
b) Bản chất kinh tế
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu
của toàn xã hội đáp ứng sự phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất dựa trên cơ sở khoa
học – công nghệ hiện đại nhằm thoả mãn ngày càng cao những nhu cầu vật chất và tinh thần của
toàn thể nhân dân lao động.

12


Bản chất kinh tế đó chỉ được bộc lộ đầy đủ qua một q trình ổn định chính trị, phát triển
sản xuất và nâng cao đời sống của toàn xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý, hướng dẫn,
giúp đỡ… của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dù khác về bản chất kinh tế của các chế
độ tư hữu, áp bức, bóc lột, bất cơng, nhưng cũng như toàn bộ nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, nó là
sự kế thừa và phát triển mọi thành tựu nhân loại đã tạo ra trong lịch sử, đồng thời lọc bỏ những
nhân tố lạc hậu, tiêu cực, kìm hãm… của các chế độ kinh tế trước đó, nhất là bản chất tư hữu, áp
bức bóc lột, bất cơng… đối với đa số nhân dân.
c) Bản chất tư tưởng – văn hoá
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy hệ tư tưởng Mác-Lênin – hệ tư tưởng của giai cấp công
nhân làm nền tảng, chủ đạo đối với mọi hình thái ý thức xã hội khác trong xã hội mới (như văn
học nghệ thuật, giáo dục, đạo đức, lối sống, văn hố, xã hội, tơn giáo …). Đồng thời, dân chủ xã
hội chủ nghĩa kế thừa, phát huy những tinh hoa văn hoá truyền thống các dân tộc; tiếp thu những
giá trị tư tưởng – văn hoá, văn minh, tiến bộ xã hội… mà nhân loại đã tạo ra ở tất cả các quốc gia,
dân tộc…
Do đó, đời sống tư tưởng – văn hoá của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa rất phong phú, đa

dạng, toàn diện và ngày càng trở thành một nhân tố quan trọng hàng đầu, thành mục tiêu và động
lực cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
3. Liên hệ quá trình dân chủ hoá ở nước ta hiện nay?
Qua các kỳ đại hội, Đảng ta đều nhấn mạnh việc củng cố và phát huy nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa ở nước ta. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh việc phát huy quyền
làm chủ của nhân dân dưới nhiều hình thức dân chủ khác nhau. Để bảo đảm nguyên tắc tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhiều phương hướng, giải pháp đã được Nghị quyết Đại
hội XII đưa ra nhằm thúc đẩy việc phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa một cách toàn diện.
Quan điểm về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu cao cả mà Đảng và Nhà nước ta luôn hướng tới,
quyết tâm biến nó thành hiện thực. Đại hội XI của Đảng đã khẳng định mục tiêu: “Xã hội xã hội
chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh; do nhân dân làm chủ...”. Trong đó có hai điểm mới quan trọng được bổ sung và phát triển
so với Nghị quyết Đại hội X của Đảng: Một là, đưa cụm từ dân chủ lên trước cụm từ công bằng,
văn minh. Điều đó cho thấy Đảng ta đã xác định rõ vị trí của dân chủ và thực hành dân chủ trong
q trình phát triển xã hội. Để có xã hội dân giàu, nước mạnh, trước hết phải bảo đảm trong xã hội
có nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và phải thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa một cách thực chất,
vì đó là điều kiện tiên quyết, là cơ sở thiết yếu để xây dựng xã hội công bằng, văn minh. Hai là,
khẳng định đặc trưng quan trọng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng là xã
hội do nhân dân làm chủ, thể hiện rõ bản chất của chế độ xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Trong văn kiện Đại hội XII, sự nhấn mạnh vai trò, ý nghĩa của việc phát huy dân chủ xã
hội chủ nghĩa tiếp tục được thể hiện ở chỗ, Đảng ta bổ sung thêm cụm từ “dân chủ xã hội chủ
nghĩa” vào tiêu đề Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội XII
của Đảng.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa còn là động lực của sự phát triển đất nước, là nhân tố thúc đẩy
phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; bởi lẽ, khi nhân dân đã nhận thức đầy đủ tầm quan
trọng của việc thực hành dân chủ và thực sự phát huy quyền dân chủ thì đó sẽ là nguồn sức mạnh
to lớn cho sự phát triển đất nước. Mở rộng dân chủ là một trong những quan điểm phát triển được
Đảng ta nêu trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020(1); còn trong Báo cáo đánh
giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 và phương hướng,

13


nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020, quan điểm phát triển được Đảng ta nhấn
mạnh với yêu cầu cao hơn: “Phát huy mạnh mẽ quyền dân chủ của người dân trong hoàn thiện và
thực thi pháp luật, cơ chế, chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Bảo đảm quyền con người, quyền
công dân”(2).
Trong tư duy lý luận của Đảng ta, vấn đề không dừng lại ở quan niệm về dân chủ xã hội
chủ nghĩa, mà điều quan trọng hơn là tiếp tục thực hành, phát huy dân chủ, nghĩa là phải tạo được
bước chuyển căn bản từ nhận thức đến hành động. Để đạt được mục tiêu xây dựng xã hội thực sự
dân chủ, Đại hội XII xác định rõ: “Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình
đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân”(3). Phương thức, cơ chế
thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa là nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của
Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, mà trọng
tâm là “thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, như
văn kiện Đại hội XII của Đảng đã chỉ ra. Dưới nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân là chủ thể
của quyền lực, là người thực hiện quyền lực; đa số nhân dân lao động có quyền và được bảo đảm
các điều kiện cần thiết để tham gia các hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Trong việc thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước phải bảo đảm cho nhân dân tham
gia đông đảo vào việc tổ chức, lập ra bộ máy nhà nước, vào việc quản lý các công việc của Nhà
nước, quyết định các công việc trọng đại của đất nước; đồng thời, có cơ chế bảo đảm cho nhân dân
thực hiện việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước, các tổ
chức và cá nhân khác được trao những quyền hạn nhất định để quản lý một số công việc của Nhà
nước. Nhà nước phải tôn trọng, bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh
phúc, sự phát triển tự do của mỗi người.
Để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, Đảng ta luôn nhấn mạnh mối quan hệ gắn bó chặt
chẽ giữa Nhà nước với nhân dân, trong đó, trước hết là Nhà nước bảo đảm thực hiện đầy đủ các
quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của

nhân dân. Hơn nữa, Nhà nước có cơ chế và các biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan
liêu, tham nhũng, lãng phí, vơ trách nhiệm, lộng quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân;
đồng thời, “Phê phán những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức. Xử lý nghiêm những
hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh chính trị, trật tự, an tồn xã hội và những hành vi vi
phạm quyền dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân”(4).
Đánh giá về thực hành, phát huy dân chủ trong những năm qua
Đảng đánh giá trên cả hai phương diện thành tựu và hạn chế, khuyết điểm.
Về thành tựu thực hành, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, Đại hội XII của Đảng nhận
định: qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được
phát huy. Cụ thể như sau:
- Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và việc bảo đảm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước
ta hiện nay không chỉ được khẳng định trong chủ trương, đường lối của Đảng mà cịn được thể chế
hóa và bảo đảm thực hiện thông qua Hiến pháp và hệ thống pháp luật của Nhà nước. Trên phương
diện xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật về thực hiện dân chủ, Đại hội XII đánh
giá: “Đảng và Nhà nước tiếp tục ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm phát huy
dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được xác định đầy đủ hơn trong Hiến pháp năm 2013 và
trong hệ thống pháp luật mới được ban hành và sửa đổi. Khẳng định rõ các quyền con người, quyền
công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm
14


theo Hiến pháp và pháp luật; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm đối với xã hội”(5).
Minh chứng sống động cho đánh giá trên của Đảng là những nguyên tắc hiến định về thực hành,
phát huy dân chủ được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013, như: “1. Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; 2. Nước
Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
Nhân dân...” (Điều 2); “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận,
tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều

kiện phát triển tồn diện” (Điều 3)... Quyền dân chủ của nhân dân còn được ghi nhận tại Chương
II Hiến pháp năm 2013 (quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân)
cũng như trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác.
- Từ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về thực hành,
phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa đến việc hiện thực hóa chúng trong thực tế xã hội phụ thuộc rất
nhiều vào nhận thức của nhân dân về các quyền dân chủ của mình. Chẳng hạn, Pháp lệnh Thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn quy định và bảo đảm cho nhân dân thực hiện quyền được biết
các nội dung liên quan đến đời sống kinh tế - xã hội của mình ở cơ sở, quyền được bàn và quyết
định, quyền được tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định và quyền được
giám sát. Trong những năm qua, nhân dân ở cơ sở đã thực hiện, phát huy tốt các quyền đó, bởi họ
có nhận thức khá đầy đủ về những quyền dân chủ. Đó cũng là cơ sở thực tiễn để Đảng ta nhận
định: “Ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, năng lực làm chủ, tham gia quản lý xã hội của nhân
dân, ý thức về dân chủ trong xã hội được nâng lên. Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở và
Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn có tiến bộ”(6).
- Việc thực hành dân chủ đã và đang tạo động lực thúc đẩy, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước, kiểm tra, giám sát các hoạt động của Nhà
nước nói chung, của các cấp chính quyền nói riêng; khắc phục tệ nạn quan liêu, tham nhũng, mất
dân chủ, xa rời quần chúng nhân dân của một bộ phận cán bộ, cơng chức nhà nước; đóng góp tích
cực vào việc cải cách hành chính; góp phần xây dựng bộ máy chính quyền các cấp trong sạch,
vững mạnh; tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân; đóng góp tích cực vào
thành tựu phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước. Đại hội XII của Đảng đánh giá: Quyền
làm chủ của nhân dân được phát huy tốt hơn trong các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng dân chủ
trực tiếp và dân chủ đại diện, nhất là trong lĩnh vực chính trị và kinh tế. Nhiều cấp ủy đảng, chính
quyền đã lắng nghe, tăng cường tiếp xúc, đối thoại với nhân dân, tôn trọng các loại ý kiến khác
nhau.
Bên cạnh những thành tựu, kết quả đạt được, Đại hội XII của Đảng cũng thẳng thắn chỉ ra
những hạn chế, yếu kém trong thực hành, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong những
năm qua: Nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân cịn hạn chế.
Tình trạng tách rời, thậm chí đối lập giữa dân chủ và kỷ cương, pháp luật còn tồn tại ở nhiều nơi.
“Quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm. Có lúc, có nơi, việc thực

hiện dân chủ cịn hạn chế hoặc mang tính hình thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ gây chia rẽ,
làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”(7).
Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, yếu kém nêu trên là do, ở một số nơi, các cấp
ủy, chính quyền cịn xem nhẹ vai trò của việc thực hành dân chủ nên cơng tác lãnh đạo chưa sâu
sát, sự chỉ đạo cịn mang tính hình thức, đối phó; đội ngũ cán bộ, đảng viên, cơng chức chưa nhận
thức đầy đủ vai trị, trách nhiệm của mình trong việc triển khai các biện pháp thực hiện dân chủ
nên chưa tận lực, tận tâm; người dân thiếu hiểu biết về các quyền dân chủ, cơ chế thực hiện dân
chủ nên chưa chủ động, tích cực tham gia quá trình này. Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: Những hạn
15


chế, khuyết điểm nêu trên do nhiều nguyên nhân: Hệ thống pháp luật, cơ chế, quy chế, tổ chức và
các điều kiện để thực thi dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân cịn thiếu và chưa đồng bộ. Khơng
ít cấp ủy đảng, cơ quan nhà nước, cán bộ, đảng viên chưa là tấm gương về phát huy dân chủ trong
xã hội.
Phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa
Về phương hướng
Để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, Đại hội XII của Đảng đã khẳng định: “Tiếp tục phát
huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Mọi đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng,
quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến. Dân chủ phải được thực
hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham
gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của
nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện. Tập
trung xây dựng những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của nhân dân”(8).
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta hướng tới xây dựng và hoàn thiện là nền dân chủ rộng
rãi, mang tính tồn diện, được thực hiện thơng qua hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, trước hết
là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không ngừng mở rộng và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân lao động, thu hút nhân dân lao động tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội
nhằm phục vụ cho lợi ích của đại đa số nhân dân lao động và bảo đảm quyền làm chủ của họ cả

về mặt pháp lý cũng như trên thực tế. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là phương hướng, cách thức cơ bản để phát huy
dân chủ và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, vì Nhà nước đó sẽ bảo đảm tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân.
Về các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể
Nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong những năm tới, Đại hội XII của Đảng xác
định:
Thứ nhất, “Thể chế hóa và nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp
và dân chủ đại diện”(9). Dân chủ trực tiếp là hình thức mọi cơng dân trực tiếp thể hiện ý chí và
nguyện vọng của mình một cách bình đẳng, khơng phân biệt giới tính, lứa tuổi, thành phần xuất
thân, địa vị xã hội... Đây là hình thức hữu hiệu tạo cho nhân dân, với tính cách là chủ thể tối cao
và duy nhất của quyền lực nhà nước, khả năng tham gia một cách tích cực và chủ động vào các
hoạt động của Nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Theo quy định của
Hiến pháp hiện hành, hình thức dân chủ trực tiếp được thực hiện bằng các phương thức: chế độ
bầu, bãi miễn đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân; chế độ gặp gỡ, tiếp xúc với cử tri của
đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân; quyền công dân tham gia thảo luận các vấn đề
chung, quan trọng của đất nước và của địa phương; biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý
dân. Dân chủ đại diện là hình thức nhân dân thực hiện quyền dân chủ thông qua các cơ quan đại
diện của nhân dân và các tổ chức chính trị - xã hội - tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân, đại
diện cho nhân dân. Dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện đều là hình thức của chế độ dân chủ, có
quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau. Đại hội XII của Đảng khẳng định: Phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa phải luôn đặt trong mối liên hệ và gắn liền với thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013; gắn quyền với trách nhiệm, nghĩa
vụ, đề cao đạo đức xã hội.
Thứ hai, “Thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra”(10). Muốn để “dân biết”, điều cốt yếu đầu tiên là phải cung cấp thông tin cho nhân dân;
việc cung cấp thông tin phải chân thực, kịp thời và cơng khai. Có cơng khai thì mới có dân chủ, vì
16



công khai là một trong những điều kiện tiên quyết để thực hành dân chủ. Bản chất của Nhà nước
ta là nhà nước dân chủ, nên công khai là một đòi hỏi tất yếu, khách quan, là một biểu hiện quan
trọng của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
“Dân bàn” là xu hướng tất yếu sau khi nhân dân đã được cung cấp thông tin đầy đủ, công
khai. Với tinh thần “lấy dân làm gốc”, các cơ quan nhà nước và chính quyền các cấp phải biết lắng
nghe các ý kiến của quần chúng nhân dân, nắm bắt dư luận xã hội trong nhân dân một cách nghiêm
túc, phân tích nội dung các ý kiến của nhân dân một cách khoa học để nắm bắt chính xác, kịp thời
tâm trạng, tình cảm, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân. Muốn thực hiện tốt phương châm
“dân bàn”, phải tạo các điều kiện thuận lợi (phương tiện, diễn đàn, cơ chế) để nhân dân có thể nói
lên suy nghĩ thật của mình, được bày tỏ quan điểm, chính kiến về những vấn đề mà mình đang
quan tâm, vì lợi ích hợp pháp, chính đáng của họ và vì sự phát triển chung của mỗi địa phương,
của đất nước. Chính quyền các cấp không được phép thờ ơ trước những sáng kiến của quần chúng
nhân dân để tránh tình trạng sáng kiến của người dân trong chế độ dân chủ trở thành đặc quyền
của một thiểu số người với mục tiêu vụ lợi.
“Dân làm” cần được hiểu chủ yếu theo nghĩa “Dân làm” là hiện thân của sự chuyển hóa từ
“tư tưởng đã thông suốt” thành những hành động, việc làm cụ thể của nhân dân. Từ chỗ được cung
cấp thông tin một cách công khai, trung thực, kịp thời, thông qua bàn bạc, trao đổi ý kiến để tìm
ra tiếng nói chung, người dân sẽ tự giác tuân thủ, thực hành các quyền dân chủ theo quy định của
pháp luật.
Bên cạnh đó, Nhà nước phải có cơ chế bảo đảm cho nhân dân thực hiện việc kiểm tra, giám
sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức và của cán bộ, công chức, viên chức nhà nước
được trao những quyền hạn nhất định để quản lý, điều hành một số công việc của Nhà nước. Thực
hiện tốt cơ chế “dân kiểm tra” đòi hỏi Nhà nước phải tiếp tục xây dựng và thực thi các cơ chế,
chính sách phù hợp để nhân dân thực hiện quyền kiểm tra, giám sát đối với các mặt hoạt động của
chính quyền cấp xã ở tất cả các địa phương, của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã theo quy định
của pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã; chất vấn những cán bộ, cơng chức có thẩm quyền về
những vấn đề người dân quan tâm và quyền nghe trả lời những chất vấn đó, đặc biệt là những vấn
đề về đất đai, xây dựng, quy hoạch và quản lý đô thị, nông thôn, nước sạch và vệ sinh môi trường,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xây dựng kết cấu hạ tầng,...
Thứ ba, “Để thực hiện dân chủ trong xã hội, trước hết phải bảo đảm phát huy dân chủ trong

Đảng là hạt nhân để phát huy đầy đủ dân chủ trong xã hội”(11). Đảng ta là đảng cầm quyền và sự
cầm quyền đó ln được đặt trong mối liên hệ mật thiết với nhân dân; vậy nên, thực hành, phát
huy dân chủ trong Đảng phải luôn đi trước, tạo khuôn mẫu, mực thước cho nhân dân noi theo.
Trong giai đoạn hiện nay, việc phát huy dân chủ trong Đảng để phát huy đầy đủ dân chủ trong xã
hội lại càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi vì cịn có một bộ phận cán bộ, đảng viên tuy có
nhận thức đúng, đầy đủ về thực hành, phát huy dân chủ nhưng chỉ là trên lý thuyết, còn trên thực
tế, nhận thức đó chưa biến thành hành động thực tế, nói khơng đi đơi với làm.
Cần tiếp tục thực hiện tốt các quy định trong sinh hoạt đảng, như sinh hoạt hai chiều, lấy
phiếu tín nhiệm, điều tra, thăm dò dư luận xã hội trong nhân dân - đó chính là những yếu tố cần
thiết phục vụ cho công tác xây dựng Đảng hiện nay. Dựa vào dân, giữ mối liên hệ mật thiết với
nhân dân cũng là nền tảng giúp Đảng tự chỉnh đốn, xây dựng Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên,
công chức ngày càng trong sạch, vững mạnh. Khi dân chủ trong Đảng thực sự được phát huy thì
đó cũng là nền tảng để “Đẩy mạnh dân chủ hóa xã hội để phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
vai trò chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân”, như văn kiện Đại hội
XII của Đảng đã chỉ ra.
17


Thứ tư, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải đi liền với việc đề cao trách nhiệm
công dân và bảo đảm giữ vững kỷ luật, kỷ cương xã hội, không được tách rời, đối lập giữa thực
hành dân chủ và kỷ cương, pháp luật. Nhân dân không nên tụ tập đông người, khiếu kiện vượt cấp,
gây mất an ninh, trật tự và chống đối người thi hành công vụ trong khi các kiến nghị đang được
xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật. Nếu cá nhân nào có hành vi vi phạm quyền làm
chủ của nhân dân, lợi dụng dân chủ để gây mất an ninh, trật tự, an tồn xã hội thì có thể bị truy
cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 331 Bộ luật Hình sự năm 2015: “Tội lợi dụng các quyền tự do
dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.
Văn kiện Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Phát huy dân chủ phải đi liền với tăng cường pháp
chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương và đề cao đạo đức xã hội. Phê phán
những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức. Xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng dân
chủ để làm mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và những hành vi vi phạm quyền dân chủ

và quyền làm chủ của nhân dân”(12). Điều đó khẳng định bản chất dân chủ thực sự của Nhà nước
ta./.
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 91 147
(2), (3), (4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.
270, 38, 170
(5), (6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 166 - 167
(7), (8), (9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 168, 169
(10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 170
(11), (12) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 170

Câu 4: Vì sao giai cấp cơng nhân phải xây dựng khối liên minh với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức? Ý nghĩa của khối liên minh cơng, nơng, trí thức đối với sự nghiệp cách mạng
Việt Nam?
1. Khái niệm
Giai cấp công nhân là một tập đồn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với q
trình phát triển của nền cơng nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính
chất xã hội hố ngày càng cao; là lực lượng lao động cơ bản tiên tiến trong các quy trình cơng
nghệ, dịch vụ cơng nghiệp, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra
của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức sản
xuất tiên tiến trong thời đại hiện nay. Tại các nước tư bản, GCCN là những người khơng có hoặc
về cơ bản khơng có tư liệu sản xuất, làm thuê cho giai cấp tư sản và bị bóc lột giá trị thặng dư. Cịn
ở các nước xã hội chủ nghĩa, GCCN là người đã cùng nhân dân lao động làm chủ những tư liệu
sản xuất chủ yếu, là giai cấp lãnh đạo xã hội trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Giai cấp nông dân là một tập đồn xã hội đơng đảo sinh sống trên địa bàn nông thôn, sản
xuất nông nghiệp là chủ yếu với tư liệu sản xuất đất rừng, sông biể, vật nuôi cây trồng, sử dụng
các công cụ lao động thủ công để tạo ra các sản phẩm nông nghiệp đáp ứng yêu cầu của thị trường
về lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho cơng nghiệp và xuất khẩu. Nơng dân có tính hai mặt,
vừa là người lao động, đồng thời là người tư hữu nhỏ. Trong mọi chế độ xã hội nơng dân khơng
có hệ tư tưởng độc lập, ln ln phụ thuộc vào hệ tư tưởng của giai cấp thống trị đương thời.

Ln có nguyện vọng được giải phóng khỏi chế độ áp bức bóc lột nhưng chưa bao giờ tự làm nổi
cuộc cách mạng tự giải phóng của mình. Tuy nhiên, nơng dân ln có vai trị to lớn trong mỗi chế
độ xã hội, là lực lượng cách mạng của giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất tiến bộ của các
giai đoạn lịch sử. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, về cơ bản nông dân được giải phóng khỏi chế
độ áp bức bóc lột, nhưng đa số nơng dân vẫn có đời sống cịn thấp kém hơn các giai tầng xã hội
18


khác. Giai cấp nông dân đã được giai cấp công nhân giải phóng khỏi chế độ áp bức bóc lột, nhu
cầu tìm đến với giai cấp cơng nhân cũng là nhu cầu tự thân của họ, nên là người bạn tự nhiên, gần
gũi nhất của giai cấp công nhân. Đây chính là mối quan hệ đồng hành, gắn bó khách quan tạo ra
sự cố kết chặt chẽ công – nông.
Tầng lớp trí thức (đội ngũ trí thức), là một tập đồn những người lao động xã hội đặc biệt
bằng trí óc, phương thức lao động chủ yếu là lao động trí tuệ cá nhân, tạo ra những sản phẩm khoa
học, trí tuệ, tinh thần. Nói chung họ là những người có trình độ học vấn và chun mơn cao, am
hiểu sâu rộng lĩnh vực chun mơn của mình, họ là những nhà khoa học. Họ không phải là giai
cấp mặc dù số lượng ngày càng đông, mà chỉ là một tầng lớp vì họ khơng trực tiếp sở hữu tư liệu
sản xuất, họ chỉ sở hữu trí tuệ, lại xuất thân từ nhiều giai tầng khác nhau trong xã hội, khơng có hệ
tư tưởng độc lập. Dưới các chế độ thống trị trước đây, trí thức bao giờ cũng bị các giai cấp thống
trị nắm lấy, làm công cụ trong tay mình. Họ cũng là người bị bóc lột về cơ bản, và cũng ln có
nguyện vọng được giải phóng. Cũng như giai cấp nông dân, họ chưa bao giờ tự làm nổi cuộc cách
mạng giải phóng mình thành cơng. Theo Nghị quyết Trung ương 27 ngày 06/08/2008 của BCHTW
về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH thì trí thức là những người lao
động trí óc có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chun mơn nhất định, có năng lực tư duy độc lập
sáng tạo truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã
hội.
Liên minh công nông tri thức là sự đồn kết, hợp lực, hợp tác, … của cơng nhân, nơng dân
và đội ngũ trí thức nhằm thực hiện nhu cầu và lợi ích của mỗi lực lượng và của cả khối liên minh;
đồng thời gói phần thực hiện lợi ích chung của tồn dân tộc, của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội.

2. Tính tất yếu của liên minh cơng nơng trí thức trong thời kỳ q độ lên chủ nghĩa xã hội
Trong lý luận và thực tiễn cách mạng về liên minh giai cấp, chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng
định rằng giai cấp công nhân nếu tiến hành đấu tranh cách mạng một cách đơn độc chống giai cấp
tư sản thì sẽ thất bại. Ngược lại nếu giai cấp công nhân lôi kkhoa học liên minh được với đại đa
sống quần chúng lao động chủ yếu là giai cấp nơng dân giữ vững vai trị cách mạng thì cách mạng
sẽ hoàn toàn thắng lợi, thực tiễn cách mạng Pháp (1848-1850) và công xã Paris (1871) đã chứng
minh điều này với sự thất bại của giai cấp công nhân. Đến cách mạng tháng 10-1917, do xây dựng
được khối liên minh công nông nên cách mạng đã giành được thắng lợi
Xây dựng và củng cố liên minh công nông thực chất là xác lập và củng cố vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản. Chính khối liên minh cơng nơng là lực lượng hùng hậu của cách mạng, đồng
thời liên minh với các tầng lớp lao động khoa họcác là nhằm tăng cường sức mạnh và trí tuệ đảm
bảo cho giai cấp vơ sản giành và giữ được chính quyền.
Ở nước ta, qua thực tiễn cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận đúng đắn
rằng chỉ có khối liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo mới có thể kiên quyết và
triệt để đánh đổ các thế lực phản cách mạng, giành lấy và cũng cố chính quyền của nhân dân lao
động, hồn thành nhiệm vụ lịch sử của cách mạng dân tộc dân chủ và tiến lên CNXH”.
Cùng với liên minh công nông, liên minh với tầng lớp trí thức cũng là một yêu cầu khoa
họcách quan đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân. nếu giai cấp công nhân và Đảng
của nó lơi kéo, lãnh đạo được trí thức, phát huy tài năng trí tuệ của họ vào mọi cơng việc của cách
mạng thì cách mạng mới có thể phát triển nhanh chóng, đỡ phải tổn thất do thiếu tri thức khoa học.
Văn kiện Đại hội Đảng lần 7 của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: Giai cấp cơng nhân
nếu khơng có đội ngũ trí thức của mình và bản thân cơng - nơng khơng được nâng cao trí thức thì
khơng thể xây dựng được CNXH. Đảng cũng đã xác định: “khoa học và công nghệ, giáo duc và
đào tạo phải được xem là quốc sách hàng đầu” trong sự nghiệp và xây dựng CNXH ở nước ta.
19


Song chúng ta cũng nhìn nhận rằng, đối với trí thức mặc dù có lúc, có nơi phạm sai lầm “tả
khuynh”, nhưng xét cả quá trình vận động cách mạng, giai cấp cơng nhân thơng qua chính Đảng
của mình, có quan điểm và thái độ đúng, đã khơi dậy và phát huy được lịng u nước, đã đồn kết

được tầng lớp trí thức trong mặt trận dân tộc thống nhất. Hơn thế nữa, ngay từ đầu cũng như về
sau này, khơng ít nhà trí thức dân tộc đã trở thành người lãnh đạo của Đảng và nhà nước.
Liên minh công nơng trí thức trong thời kỳ q độ lên chủ nghĩa xã hội là mang tính tất
yếu. Ở mỗi thời đại lịch sử, mỗi giai cấp, tầng lớp có vị trí và vai trị nhất định trong tiến trình phát
triển của XH, song do những nhu cầu và lợi ích chung, giữa các giai cấp và các tầng lớp phải tìm
cách liên minh lại với nhau để thực hiện những nhu cầu và lợi ích chung đó.
Trong thời kỳ q độ lên CNXH, do kết cấu kinh tế còn phức tạp, với đặc trưng là còn tồn
tại nhiều thành phần kinh tế dựa trên các hình thức sở hữu khác nhau, nên về mặt cơ cấu XH – giai
cấp tất yếu cịn có sự khác biệt giai cấp. Trong điều kiện ấy GCCN dưới sự lãnh đạo của Đảng
phải xây dựng được khối liên minh chặt chẽ với giai cấp nông dân và tầng lớp nhân dân lao động
để cùng nhau xây dựng chế độ XH mới. Tính tất yếu của liên minh thể hiện ở những mặt sau:
Một là, xét dưới góc độ kinh tế - kỹ thuật và phân công lao đông, xuất phát từ yêu cầu
khách quan của quá trình sản xuất, trong xã hội hình thành các lĩnh vực kinh tế cơ bản: công
nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, khoa học và công nghệ… Thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã
hội đặt ra yêu cầu khách quan phải gắn kết chặt chẽ các lĩnh vực này với nhau và tạo ra cơ sở vật
chất - kỹ thuật cần thiết cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Mặt khác, là một nước nông nghiệp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nền nơng
nghiệp vẫn giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế, do đó phải coi trọng phát triển nơng nghiệp
trong sự gắn bó khăng khít và hỗ trợ đắc lực của công nghiệp và khoa học - công nghệ. Đến lượt
mình, khoa học và cơng nghệ cũng chỉ phát triển được khi hướng tới phục vụ sản xuất nông nghiệp,
công nghiệp và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Vì vậy, nơng nghiệp, cơng nghiệp, khoa
học và cơng nghệ, dịch vụ … phải liên kết chặt chẽ với nhau không thể tách rời để tạo thành nền
cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất.
Việc hình thành khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp
tri thức cũng xuất phát từ chính nhu cầu và lợi ích kinh tế của họ nên các chủ thể của các lĩnh vực
công nghiệp, nông nghiệp, khoa học và cơng nghệ tất yếu phải gắn bó, liên minh chặt chẽ với nhau
để cùng thực hiện những nhu cầu và lợi ích kinh tế chung của mình.
Hai là xét dưới góc độ chính trị - xã hội, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, liên
minh công - nông - tri thức nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp để cải tạo xã hội cũ, xây dựng chế
độ xã hội mới dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nói cách khác, thực hiện liên minh cơng - nơng - trí

thức nhằm tập hợp lực lượng cách mạng vì cơng nhân,nơng dân, trí thức khơng chỉ là 3 lực lượng
đông đảo nhất trong xã hội, mà họ cịn đóng vai trị quan trọng trong phát triển kinh tế và trong
đời sống chính trị. Do vậy, xây dựng khối liên minh nhằm tạo thành lực lượng nòng cốt của chế
độ chính trị - xã hội, trên cơ sở đó, thực hiện đại đồn kết tồn dân để tiến hành xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Nhưng khối liên minh này phải được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Đảng công sản
của giai cấp công nhân.
Ý nghĩa của khối liên minh cơng, nơng, trí thức đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam
Liên minh cơng nơng trí thức có vai trò quan trọng trong thời kỳ quá độ lên CNXH, quyết
định sự thành công hay thất bại của cuộc CM XHCN. Tổng kết cuộc đấu tranh của giai cấp cơng
nhân, nơng dân ở nước Pháp, Đức thì Mác đã rút ra kết luận trên. Chủ nghĩa Mác-Lenin cũng chỉ
rõ liên minh cơng nơng trí thức là ngun tắc tối cao của chun chính vơ sản, nghĩa là liên minh
phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng phải lãnh đạo dựa trên nền tảng của liên minh công
nông.
20


Liên minh cơng nơng trí thức là vấn đề chiến lược, là lực cơ bản, nịng cốt của khối đại
đồn kết dân tộc. Nói về tầm quan trọng của liên minh cơng nơng trí thức, Đại hội Đảng lần X năm
2006 đã chỉ rõ: “Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh GCCN với GCND và đội ngũ
trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là nguồn sức
mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định đảm bảo thắng lợi bền vững của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã vận dụng đúng đắn và sáng tạo lý luận
của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về liên minh giai cấp để xây dựng liên minh cơng nơng trí thức ở nước
ta. Vấn đề liên minh cơng nơng trí thức trở thành nịng cốt của khối đại đoàn kết dân tộc. Đại hội
XII của Đảng tiếp tục khẳng định phải “Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng
liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo.
Nội dung cơ bản của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và tầng lớp trí
thức trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN
Nội dung chính trị của liên minh:

Liên minh cơng- nơng- trí thức trên lĩnh vực chính trị cần thể hiện ở những điểm sau đây:
Một là: mục tiêu, lợi ích chính trị cơ bản nhất của GCCN, giai cấp nơng dân, đội ngũ trí
thức và của cả dân tộc ta là: Độc lập dân tộc và CNXH. Nhưng để đạt được mục tiêu, lợi ích chính
trị cơ bản đó khi thực hiện liên minh lại khơng thể dung hịa lập trường chính trị của 3 giai tầng
mà phải trên lập trường tư tưởng chính trị của GCCN. Bởi vì, chỉ có phấn đấu thực hiện mục tiêu
lý tưởng của GCCN thì mới thực hiện được đồng thời cả nhu cầu lợi ích chính trị cơ bản của cơng
nhân, nơng dân, trí thức và của dân tộc là lập dân tộc và CNXH.
Hai là: Khối liên minh chiến lược này phải đo Đảng của GCCN lãnh đạo thì mới có đường
lối chủ trương đúng đắn để thực hiện liên minh, thực hiện quá trình giữ vững độc lập dân tộc và
xây dựng CNXH thành công. Do đó, Đảng Cộng sản từ trung ương đến cơ sở phải vững mạnh về
chính trị, tư tưởng và tổ chức để lãnh đạo khối liên minh và lãnh đạo xã hội là vấn đề có ý nghĩa
như 1 nguyên tắc về chính trị của liên minh. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, liên minh cơngnơng- trí thức ở nước ta cịn làm nịng cốt cho liên minh chính trị rộng lớn nhất là Mặt trận Tổ
quốc, là cơ sở để xây dựng nền dân chủ XHCN, đồng thời là nền tảng cho nhà nước XHCN ngày
càng được củng cố lớn mạnh để bảo vệ tổ chức và xây dựng CNXH.
Ba là: nội dung chính trị của liên minh khơng tách rời nội dung, phương thức đổi mới hệ
thống chính trị trên phạm vi cả nước. Dưới góc độ của liên minh, cần cụ thể hóa việc đổi mới về
nội dung tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị trong GCCN, nơng dân và
trí thức. Nội dung chính trị cấp thiết nhất hiện nay là triển khai thực hiện “Quy chế dân chủ ở cơ
sở”, nhất là ở nông thôn.
Nội dung kinh tế của liên minh
Nội dung kinh tế là nội dung cơ bản, quyết định nhất, là cơ sở vật chất kỹ thuật vững chắc
của liên minh trong thời kỳ quá độ. Nội dung kinh tế của liên minh ở nước ta trong thời kỳ quá độ
được cụ thể hóa ở những điểm sau đây:
- Phải xác định đúng thực trạng, tiềm năng kinh tế của cả nước và của sự hợp tác quốc tế,
từ đó mà xác định đúng cơ cấu kinh tế gắn liền với những nhu cầu kinh tế của công nhân, nơng
dân, trí thức và của tồn xã hội. Đảng ta xác định cơ cấu kinh tế chung của nước ta là “Công- nông
nghiệp- dịch vụ”. Trong điều kiện hiện nay, Đảng ta còn xác định “Từng bước phát triển kinh tế
tri thức, từ đó ma tăng cường liên minh cơng- nơng- trí thức”
- Trên cơ sở kinh tế, các nhu cầu kinh tế phát triển dưới nhiều hình thức hợp tác, liên kết,
giao lưu… trong sản xuất, lưu thông phân phối giữa cơng nhân, nơng dân, trí thức; giữa các lĩnh


21


vực công nghiệp, nông nghiệp, khoa học công nghệ và các lĩnh vực khác; giữa các địa bàn, vùng,
miền dân cư trong cả nước, giữa nước ta và các nước khác.
- Từng bước hình thành QHSX XHCN trong quá trình thực hiện liên minh. Việc phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phải được thể hiện qua việc đa dạng và đổi mới các hình
thức hợp tác kinh tế, hợp tác xã, kinh tế hộ gia đình, trang trại, dịch vụ ở nơng thơn. Trong q
trình hình thành QHSX phải trên cơ sở cơng hữu hóa các TLSX chủ yếu, kinh tế nhà nước vươn
lên giữ vai trò chủ đạo, cùng kinh tế tập thể làm nền tảng cho nền kinh tế cả nước, theo định hướng
XHCN.
- Nội dung kinh tế của liên minh ở nước ta còn thể hiện ở vai trị của Nhà nước. Nhà nước
có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện liên minh. Vai trị của Nhà nước đối với nơng dân
thể hiện qua chính sách khuyến nơng, các tổ chức khuyến nông, các cơ sở kinh tế Nhà nước, Nhà
nước có những chính sách hợp lý thể hiện quan hệ của mình với nơng dân, tạo điều kiện cho liên
minh phát triển. Nông nghiệp và nông thôn không chỉ là một ngành kinh tế, một khu vực kinh tế
mà còn là một lĩnh vực mang ý nghĩa sinh thái xã hội.
Đối với tri thức, Nhà nước cần phải đổi mới và hồn chỉnh các luật, chính sách có liên quan
trực tiếp đến sở hữu trí tuệ như chính sách phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo,
về bản quyền tác giả, về báo chí, xuất bản, về văn học nghệ thuật… Hướng các hoạt động của trí
thức vào việc phục vụ cơng- nơng, gắn với cơ sở sản xuất và đời sống toàn xã hội.
Nội dung văn hóa, xã hội của liên minh
Liên minh về văn hóa, xã hội thể hiện qua các nội dung cụ thể sau đây:
- Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và cơng bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc, bảo vệ mơi trường sinh thái.
- Nội dung xã hội mang ý nghĩa kinh tế và chính trị cấp thiết trước mắt của liên minh là tạo
nhiều việc làm có hiệu quả, đồng thời kết hợp các giải pháp cứu trợ, hỗ trợ để xóa đói, giảm nghèo
cho cơng nhân, nơng dân và trí thức.
- Đổi mới và thực hiện tốt các chính sách xã hội, đền ơn đáp nghĩa, hỗ trợ xã hội trong

cơng nhân, nơng dân, trí thức cũng là nội dung xã hội cần thiết, đồng thời còn mang ý nghĩa giáo
dục truyền thống, đạo lý, lối sống… cho toàn xã hội và thế hệ mai sau.
- Nâng cao dân trí là nội dung cơ bản, lâu dài. Trước mắt tập trung vào việc củng cố thành
tựu xóa mù chữ, trước hết là đối với nông dân, nhất là ở miền núi. Nâng cao kiến thức về khoa học
công nghệ, về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Khắc phục các tệ nạn xã hội, các hủ tục lạc hậu,
các biểu hiện tiêu cực như tham nhũng, quan liêu. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
- Gắn quy hoạch phát triển công nghiệp, khoa học công nghệ với quy hoạch phát triển nông
thôn, đô thị hóa, cơng nghiệp hóa nơng thơn với kết cấu hạ tầng ngày càng thuận lợi và hiện đại.
Xây dựng các cơ sở giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, các cơng trình phúc lợi cơng cộng 1 cách
tương xứng, hợp lý ở các vùng nông thôn, đặc biệt là vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.
Có như vậy, nội dung liên minh mới toàn diện và đạt mục tiêu của định hướng XHCN và
mới làm cho công- nơng- trí thức cũng như các vùng, miền, dân tộc xích lại gần nhau trên thực tế.
Xây dựng liên minh công nông ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã vận dụng đúng đắn và sáng tạo lý luận
của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về liên minh giai cấp. Hiện nay, vấn đề liên minh công nông đã được
mở rộng thành liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân, đội ngũ trí thức và trở
thành nịng cốt của khối đại đoàn kết dân tộc. Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định phải “Tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo”(6), để lực lượng này thực sự trở thành nền tảng của khối
đại đoàn kết dân tộc.
22


Khẳng định vai trò quan trọng của các bộ phận trong sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh
đạo của Đảng
Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn khẳng định vai trò lãnh đạo của GCCN đối với
cách mạng Việt Nam. Hội nghị Trung ương 6 khóa X đã khẳng định “Giai cấp cơng nhân nước ta
có sứ mệnh lịch sử to lớn: Là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng
sản Việt Nam...; lực lượng nịng cốt trong liên minh giai cấp cơng nhân với giai cấp nơng dân và
đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng”(7).

Sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước sẽ khơng trở thành hiện thực, nếu khơng
có nền nơng nghiệp phát triển ổn định, vững chắc làm cơ sở, và điều đó khơng thể tách rời vai trị
của GCND. Giải quyết vấn đề nơng nghiệp, nông dân, nông thôn luôn là một thách thức đối với
tiến trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết
chuyên đề về vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn, tiêu biểu là Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 7 khóa X đã chỉ rõ: “Nơng nghiệp, nơng dân, nơng thơn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để
phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc phịng; giữ
gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước”(8).
Cùng với liên minh cơng nơng là nịng cốt của cách mạng, Đảng ta ln coi trọng, đánh
giá cao vai trị của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng cũng như trong quá trình
đổi mới, xây dựng đất nước. Sức mạnh của khối liên minh giai cấp trong giai đoạn cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức không thể tách rời vai trị của đội ngũ trí thức.
Q trình phát triển và hội nhập sâu rộng với thế giới trong khi cuộc cách mạng khoa học công
nghệ lần thứ tư đã lan rộng đang đòi hỏi trách nhiệm ngày càng cao của đội ngũ trí thức: “Đội ngũ
trí thức nước ta có tinh thần u nước, có lịng tự hào dân tộc, tự tơn dân tộc sâu sắc, ln gắn bó
với sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Bằng hoạt động sáng tạo, trí thức nước ta đã có đóng góp to lớn trên tất cả các
lĩnh vực xây dựng, bảo vệ Tổ quốc”(9). Mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo trong nhân dân,
trong đó có cơng nhân, nơng dân và trí thức, cần được khai thác và phát huy để xây dựng và bảo
vệ đất nước.
Từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của các bộ phận trong liên minh
Việc thực hiện các chủ trương, chính sách phát triển nơng nghiệp, khuyến khích và trợ giúp
nơng dân trong tiến trình thực hiện nghị quyết các đại hội đảng đã phát huy tác dụng, bộ mặt nơng
thơn có nhiều thay đổi: “Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường; bộ mặt nhiều vùng nông
thôn thay đổi. Đời sống vật chất và tinh thần của dân cư ở hầu hết các vùng nơng thơn ngày càng
được cải thiện. Xóa đói, giảm nghèo đạt kết quả to lớn. Hệ thống chính trị ở nông thôn được củng
cố và tăng cường. Dân chủ cơ sở được phát huy. An ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội được giữ
vững. Vị thế chính trị của giai cấp nông dân ngày càng được nâng cao”(10). Tuy nhiên, nông dân
chưa được hưởng lợi tương xứng với đóng góp cho sự phát triển đất nước. Các biện pháp kinh tế

- kỹ thuật dù đã phát huy tác dụng, nhưng sự chuyển biến tư duy của người nông dân vẫn chưa
được như kỳ vọng. Tâm lý tiểu nơng cịn khá nặng nề trong nơng dân và trong cả những giai cấp,
tầng lớp khác...
Cùng với quá trình đổi mới, q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, “giai cấp
cơng nhân nước ta đã có những chuyển biến quan trọng, tăng nhanh về số lượng, đa dạng về cơ
cấu, chất lượng được nâng lên, đã hình thành ngày càng đơng đảo bộ phận cơng nhân trí thức; đang
tiếp tục phát huy vai trò là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng
sản Việt Nam... Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, việc làm và đời sống của
giai cấp công nhân ngày càng được cải thiện”(11). Tuy nhiên, vấn đề phát triển GCCN ở nước ta
23


trong thời gian qua vẫn cịn nhiều bất cập. Trình độ học vấn có xu hướng tăng, nhưng so với u
cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế thì vẫn chưa theo kịp. Đặc
biệt, chúng ta đang thiếu đội ngũ công nhân lành nghề, chuyên gia kỹ thuật, nhà quản lý giỏi. Đời
sống vật chất và tinh thần của công nhân nhiều nơi chưa được bảo đảm, kỷ luật lao động chưa
nghiêm, tác phong tự do tùy tiện. Quyền lợi hợp pháp của công nhân ở nhiều đơn vị bị vi phạm,
như trả lương không đúng hợp đồng, nợ bảo hiểm, bảo hộ lao động khơng bảo đảm... Tình hình
đó kéo theo sự giác ngộ giai cấp, ý thức chính trị cũng phai nhạt, nhất là đối với bộ phận công
nhân trong khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi (FDI).
Trong tiến trình đổi mới “Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị... để tạo động lực
thúc đẩy sự sáng tạo, cống hiến của đội ngũ trí thức. Nhà nước đã thực hiện các chính sách... sử
dụng và tạo mơi trường phát huy vai trị của trí thức;... đãi ngộ, tơn vinh trí thức... tạo điều kiện
thuận lợi để đội ngũ trí thức và các hội của trí thức hoạt động, phát triển”. Tuy nhiên “đội ngũ trí
thức nước ta còn bộc lộ nhiều hạn chế và yếu kém... Nhìn chung, hoạt động nghiên cứu khoa học
chưa xuất phát và gắn bó mật thiết với thực tiễn sản xuất, kinh doanh và đời sống”(12).
Một số giải pháp phát huy sức mạnh của liên minh cơng nơng - trí thức trong khối đại đoàn
kết dân tộc
Một là, tiếp tục nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các bộ phận trong khối liên
minh công - nông - trí thức.

Với giai cấp công nhân, đào tạo đội ngũ công nhân vững về tri thức nghề nghiệp, thành
thạo kỹ năng và thái độ lao động chuyên nghiệp, tích cực. Đây vừa là địi hỏi khách quan của sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, vừa là địi hỏi của q trình hợp tác, phân cơng lao động và
các hiệp định thương mại khu vực, quốc tế. Gắn đào tạo nghề với việc mở rộng và phát triển các
ngành, nghề, lĩnh vực phù hợp với u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập khu vực,
quốc tế, giáo dục văn hóa lao động, kỷ luật lao động, trách nhiệm nghề nghiệp và tác phong công
nghiệp.
Quan tâm cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho cơng nhân lao động. Có
quy định bảo đảm cơng bằng về tiền lương trong các thành phần kinh tế, bảo đảm giá trị tiền lương
thực tế để đủ cho cuộc sống của người lao động cùng con cái họ. Cải thiện môi trường lao động,
bảo hộ lao động, chăm lo sức khỏe thể chất và tinh thần của người cơng nhân, nhất là xây dựng
các thiết chế văn hóa, điều kiện nhà ở... tại các khu công nghiệp, khu chế xuất. Tăng cường quản
lý, giám sát việc thực thi pháp luật, nhất là Luật Lao động, Luật Bảo hiểm, Luật Thuế thu nhập cá
nhân,... bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp của công nhân lao động; giải quyết các tranh chấp lao
động trên cơ sở luật pháp quốc gia và quốc tế... để “bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần của công nhân’’(13).
Đối với giai cấp nơng dân, khẩn trương hồn thiện cơ chế liên kết kinh tế trong việc sản
xuất, bảo quản, chế biến, tiêu thụ hàng nông sản. Xây dựng thương hiệu cho nông sản Việt Nam
đồng thời với việc bảo vệ thương hiệu và quyền sở hữu trí tuệ. Các chính sách hợp tác, hỗ trợ,
cung ứng dịch vụ cho sản xuất, kinh doanh liên quan đến nông nghiệp, nông dân, nơng thơn phải
được thực hiện đồng bộ, tích cực... bên cạnh các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe, giáo dục cộng
đồng. Nhà nước thống nhất quản lý và điều hành hệ thống dịch vụ phục vụ nông nghiệp, nông dân,
nông thôn thông qua hệ thống liên kết “Bốn nhà”. Có cơ chế, chính sách và cả cơ chế giám sát để
hệ thống vận hành một cách hiệu quả, bền vững, tạo cơ sở gắn kết các chủ thể lợi ích và các chủ
thể trong liên kết, như Đại hội XII của Đảng đã nhấn mạnh: “Hỗ trợ, khuyến khích nơng dân học
nghề, chuyển dịch cơ cấu lao động, tiếp nhận và ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo điều
kiện thuận lợi để nông dân chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ. Nâng cao năng suất lao động
trong nông nghiệp, mở rộng và nâng cao chất lượng cung ứng các dịch vụ cơ bản về điện, nước
24



sạch, y tế, giáo dục, thông tin,... cải thiện chất lượng cuộc sống của dân cư nơng thơn; thực hiện
có hiệu quả, bền vững cơng cuộc xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích làm giàu hợp pháp”(14).
Với tầng lớp trí thức, thực hiện chính sách tuyển chọn, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ phù
hợp, nhất là đội ngũ nghiên cứu, chuyên gia, kỹ thuật viên cao cấp, hình thành đội ngũ chuyên gia
chiến lược của đất nước đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ lần thứ tư.
Quan tâm xây dựng đội ngũ trí thức trẻ, đáp ứng yêu cầu tiếp cận tri thức khoa học, công nghệ tiên
tiến của thời đại. Tạo cơ chế phù hợp để các nghiên cứu, ứng dụng nhanh chóng được phổ biến
rộng rãi, thương mại hóa các sản phẩm nghiên cứu, đồng thời bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ đối
với các sản phẩm đó. Quan trọng hơn, “Tơn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động
nghiên cứu, sáng tạo. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả
cống hiến. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ và tơn vinh xứng đáng những cống hiến của trí
thức. Có cơ chế, chính sách đặc biệt để thu hút nhân tài của đất nước”(15).
Hai là, phát huy vai trò của mỗi giai cấp, tầng lớp trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc
Đối với giai cấp công nhân, chú trọng bồi dưỡng, nâng cao ý thức chính trị, giác ngộ giai
cấp, ý chí tự lực, tự cường, tinh thần dân tộc. Trước mắt cần nâng cao sự hiểu biết về chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là những vấn đề liên quan đến lao
động, việc làm, chính sách xã hội, những vấn đề cơ bản về kinh tế thị trường, thị trường lao động,
quan hệ lao động, hợp tác và cạnh tranh, hội nhập quốc tế theo cam kết của các hiệp định thương
mại tự do thế hệ mới, những vấn đề về sở hữu trí tuệ, phá sản, bảo hiểm. Bồi dưỡng tinh thần và ý
chí lao động, thái độ đối với sức ép cạnh tranh trong thị trường lao động, các kỹ năng giải quyết
quan hệ lao động, đặc biệt là lao động gắn với yếu tố nước ngoài, trong khu vực FDI.
Nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức nghề nghiệp
trong các loại hình doanh nghiệp. Đổi mới hoạt động của tổ chức cơng đồn, hướng về cơ sở, nắm
bắt kịp thời, thường xuyên nhu cầu, nguyện vọng, lợi ích chính đáng, hợp pháp của cơng nhân và
đấu tranh, bảo vệ lợi ích của họ. Đội ngũ cán bộ trong các tổ chức chính trị - xã hội của cơng nhân
phải thường xun nâng cao về trình độ, khoa học, công nghệ, pháp luật, ngoại ngữ, tin học… đủ
sức tham gia có hiệu quả vào q trình tập hợp, thu hút quần chúng công nhân, tổ chức hoạt động
cũng như bảo vệ lợi ích người lao động, cả trong phạm vi quốc gia, khu vực và quốc tế; phương

pháp, kỹ năng tổ chức hoạt động phải đa dạng, linh hoạt, theo kịp với những thay đổi về lao động,
việc làm của giai cấp cơng nhân trong tình hình mới.
Đối với giai cấp nông dân, phải đặt vấn đề giáo dục, nâng cao trình độ dân trí cho nơng dân
lên hàng đầu. Nội dung giáo dục không chỉ giới hạn ở vấn đề chuyển giao khoa học, kỹ thuật, công
nghệ mới, mà sâu xa hơn là nền tảng tri thức, văn hóa, tư duy, nếp nghĩ, thói quen của nơng dân.
Khắc phục tính manh mún, nhỏ lẻ trong tư duy của nông dân, thúc đẩy nông dân tiếp cận với cái
mới, khoa học, giúp họ thay đổi theo hướng chuyên nghiệp, văn minh trong sản xuất, kinh doanh
và tổ chức đời sống.
Ổn định và từng bước cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống của nông dân và cư dân
nơng thơn, khắc phục tình trạng “ly hương”, giảm sức ép về lao động mùa vụ ở các khu đô thị lớn
cũng như các vấn đề xã hội khác ở nông thôn và thành thị, xây dựng nhà nông chuyên nghiệp với
các mơ hình hợp tác, liên kết phong phú, đa dạng. Điều này vừa góp phần phát triển nơng nghiệp,
nơng thơn, xây dựng nơng thơn mới; vừa góp phần hạn chế những vấn đề xã hội có thể nảy sinh
do sức ép về dân cư và các sinh hoạt khác.
Đối với đội ngũ trí thức, cần tạo điều kiện, môi trường dân chủ hơn nữa cho lao động sáng
tạo của trí thức. Tạo điều kiện tối đa cho sự khai mở sáng tạo về tri thức, học thuật, văn hóa lắng
nghe; cũng như tơn trọng sự khác biệt trong đối thoại, phản biện của trí thức. Đầu tư cơ sở vật
25


×