Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Chính sách Hội nhập Kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay(Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (867.03 KB, 78 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN PHÚ HẢI

CHÍNH SÁCH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI - 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN PHÚ HẢI

Chính sách hội nhập kinh tế quốc tế
của Việt Nam hiện nay

Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số

: 843 04 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

Người hướng dẫn khoa học:


GS. TS. Phạm Quang Minh

HÀ NỘI - 2018
1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại hội VI mở đầu cho thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng ta đưa ra chủ
trương tranh thủ những điều kiện thuận lợi về hợp tác kinh tế và khoa học kỹ
thuật, tham gia ngày càng rộng rãi vào việc phân công và hợp tác quốc tế
trong “Hội đồng tương trợ kinh tế và mở rộng với các nước khác". Tới Đại
hội VII, Đảng ta định hướng “đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ với các
quốc gia, các tổ chức kinh tế". Tại Đại hội VIII, thuật ngữ “hội nhập” bắt đầu
được đề cập trong các văn kiện của Đảng: “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội
nhập với khu vực và thế giới”. Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh việc “chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội
lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng
xã hội chủ nghĩa”. Ngày 27-11-2001, Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị
quyết số 07-NQ/TW “Về hội nhập kinh tế quốc tế”. Tại Đại hội X, Đảng ta đã
nhấn mạnh chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng
thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác”. Ngày 05-02-2007, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW “Về
một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền
vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới”. Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường
lối đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ phát triển mới, trong đó có chủ
trương rất quan trọng là “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Từ “hội
nhập kinh tế quốc tế” của các kỳ đại hội trước, chuyển sang “hội nhập quốc
tế” một cách toàn diện là một phát triển quan trọng về tư duy đối ngoại của

Đảng ta tại Đại hội XI. Ngày 10-4-2013, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết
số 22-NQ/TW về hội nhập quốc tế. Đây là văn kiện quan trọng, có ý nghĩa
2


chiến lược, làm rõ và thống nhất nhận thức trong toàn Đảng, toàn dân về hội
nhập quốc tế trong tình hình mới. Nghị quyết đã xác định rõ hội nhập quốc tế
sẽ được triển khai sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt, hội nhập kinh tế phải
gắn với yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu nền kinh tế.
Việc thực hiện chủ trương trên đây của Đảng đã đạt được nhiều thành
tựu, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, gia tăng
sức mạnh tổng hợp quốc gia, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ của đất nước, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã
hội; cải thiện đời sống nhân dân, củng cố niềm tin của các tầng lớp nhân dân
vào công cuộc đổi mới; nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước, có quan hệ kinh
tế - thương mại với hơn 160 nước và 70 vùng lãnh thổ, là thành viên của hầu
hết các tổ chức khu vực và quốc tế quan trọng với vị thế và vai trò ngày càng
được khẳng định. Quan hệ giữa nước ta với các nước trên thế giới ngày càng
đi vào chiều sâu; hợp tác về chính trị, quốc phòng, an ninh, văn hóa, xã hội và
các lĩnh vực khác được mở rộng.
Lịch sử toàn thế giới cho thấy nước nào đóng cửa thì không phát triển
được vì không có “cầu” thì “cung” sẽ teo tóp; không tiếp thu được các nguồn
lực bên ngoài như vốn, công nghệ…thì sẽ chìm trong tình trạng lạc hậu.
Chẳng thế mà các nước mạnh hay áp dụng thủ đoạn bao vây, cấm vận để bóp
nghẹt các nền kinh tế mà họ không ưa. Dưới tác động của nhu cầu phát triển,
xu thế quốc tế hóa rồi toàn cầu hóa nẩy sinh, lan tỏa, lôi cuốn các quốc gia
vào dòng chảy toàn cầu, nhờ vậy dòng hàng hóa, vốn đầu tư, dịch vụ, thông
tin, lao động, phương tiện vận tải lan tỏa ra toàn thế giới.
Xuất phát từ nhu cầu phát triển và nhận thức được những xu thế, quy luật

khách quan đó nên nước ta đã chủ trương hội nhập. Tuy nhiên, khi đã đang
tiến những bước vững chắc, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế phải đột ngột

3


đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008, dẫn tới những chuyển
biến tiêu cực, suy thoái, và bất ổn trên nền kinh tế - tài chính toàn cầu trong
gần một thập kỉ sau đó. Việc nghiên cứu hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam, đặc biệt trong giai đoạn từ 2008 đến nay, đã dần nhận được mối quan
tâm lớn của các chuyên gia, học giả trong nước và quốc tế. Mặc dù đã có
nhiều công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp và gián tiếp, nhưng việc nhìn
nhận tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam dưới góc độ chính sách
công trong giai đoạn đặc biệt này là một chủ đề cần được tiếp tục nghiên cứu
một cách sâu rộng hơn, phong phú hơn. Từ những lý do trên, Học viên quyết
định lựa chọn đề tài Chính sách Hội nhập Kinh tế quốc tế của Việt Nam
hiện nay để nghiên cứu làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các nghiên cứu quốc tế:
Đề tài sử dụng các nghiên cứu về hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
được công bố quốc tế trong những năm gần đây có Carlyle A. Thayer,
“Vietnamese Diplomacy, 1975-2015: From Member of the Socialist Camp to
Proactive International Integration”, International Studies, No.34, June 2016;
Peterson, Duc Anh Dang, “How Foreign Direct Investment Promote
Institutional Quality: Evidence from Vietnam,” Journal of Comparative
Economics, Vol. 41, Issue 4, 2013; và “Impacts of International Economic
Integration on Vietnam’s Economy after Three Years of WTO Membership,”
CIEM, 2010.
*Theodore A. Couloumbis và James H. Wolfe: Introduction to
international relations: power and justice. Công trình này của hai nhà khoa

học Couloumbis và Wolfe được coi là một trong những nền tảng nhất của các
giáo trình về quan hệ quốc tế trên thế giới. Trong công trình của mình, hai tác
giả đã đề cập tới cách tiếp cận khoa học chính trị, quan hệ quốc tế, cũng như
4


cân bằng quyền lực. Về phương diện đối nội, các tác giả đi sâu vào các chu
trình chính trị, phương thức ngoại giao, quản trị quốc gia, cũng như các
phương thức tình báo và các công cụ phi quân sự. Về phương diện đối ngoại,
các tác giả đi sâu vào mâu thuẫn và chiến tranh, các thể chế, hệ thống quốc tế
với các nguyên tắc pháp lí quốc tế.
* Karl W. Deutsch and all (1957), Political Community and the North
Atlantic Area, Princeton, N.J., Princeton University Press. Cuốn sách này là
công trình đầu tiên trong một loạt các công trình được Trung tâm nghiên cứu
về các Thể chế chính trị quốc tế tại Đại học Princeton tiến hành. Các tác giả
đã thực hiện nhiều nghiên cứu về hội nhập và các tổ chức quốc tế. Dựa trên
các kết quả tìm được, các tác giả đã đề cập tới các hiệu ứng tích cực từ những
tổ chức, thể chế quốc tế với sự tham gia của nhiều thành viên. Nói cách khác,
hội nhập là hướng đi phù hợp và hiệu quả, và chính hội nhập sẽ phát huy tối
đa năng lực của các quốc gia thành viên.
* Ruggie, John Gerard (1992), Multilateralism: The Anatomy of an
Institution, International Organization Vol. 46 (3), 1992, Print.

Tác giả

Ruggie đã đề xuất trong tác phẩm này rằng các bộ phận của trật tự thể chế
quốc tế ngày nay xuất hiện khá mạnh mẽ và thích ứng. Điều này đúng không
chỉ trong kinh tế mà còn trong các vấn đề an ninh; và điều đó không chỉ xuất
hiện ở châu Âu mà còn ở cấp độ toàn cầu. Lý do là đây là các tổ chức và các
tổ chức đó là "có nhu cầu". Một tính năng cốt lõi của trật tự thể chế quốc tế là

hình thức đa phương của nó. Dạng đa phương, trong những trường hợp nhất
định, dường như có những đặc điểm giúp tăng cường độ bền và khả năng
thích nghi với sự thay đổi của nó. Tuy nhiên, khái niệm đa phương được định
nghĩa kém và do đó không được hiểu rõ trong văn học. Tác phẩm này nhằm
phục hồi ý nghĩa nguyên tắc của chủ nghĩa đa phương từ thực hành lịch sử,
cho thấy cách thức và lý do tại sao những ý nghĩa nguyên tắc này đã được thể
5


chế hoá, và cho thấy tại sao đa phương có thể tiếp tục đóng một vai trò quan
trọng ngày hôm nay ngay cả khi một số điều kiện sau chiến tranh đã thay đổi.
Các nghiên cứu trong nước:
* TS Ngô Văn Điểm (chủ biên): “Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh
tế quốc tế của Việt Nam”, Nxb CTQG, H, 2004. Trong quá trình nghiên cứu,
phân tích sâu về tính trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, các tác giả
đã tập trung vào ba lĩnh vực sau: thu hút vốn đầu tư nước ngoài FDI; thương
mại; và đổi mới, quản lý các DNNN.
* Trương Cường (chủ biên): “WTO: kinh doanh và tự vệ”, Nxb Hà Nội,
2007. Các tác giả đã có sự nghiên cứu, phân tích về vai trò; cấu trúc và quy
định pháp lý; những nguyên tắc cơ bản của WTO; đồng thời đưa ra những yêu
cầu mà việc gia nhập tổ chức này sẽ đòi hỏi ở các doanh nghiệp Việt Nam.
* Tổng cục Thống kế: “Thông cáo báo chí giai đoạn quý I/2008 đến quý
I/2018”, Hà Nội. Đây là tập hợp các thông cáo báo chí thường kì của Tổng
cục Thống kê về tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam, cung cấp cho quá
trình nghiên cứu các con số chính thức về các vấn đề có liên quan trong phát
triển kinh tế.
Bên cạnh đó, phải kể đến các nghiên cứu khác đăng tải trên các tạp chí
chuyên ngành như “28 năm hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam: tiến tình,
thành tựu, và giải pháp thúc đẩy”, Tạp chí Phát triển và Hội nhập, số 14 (24) –
Tháng 01-02/2015, tr. 35-39 của GS. TS. Chu Văn Cấp; hay “Khủng hoảng

tài chính toàn cầu và những vấn đề đặt ra đối với nền kinh tế Việt Nam”, Tạp
chí Phát triển và Hội nhập, số 1 – Tháng 10/2009, tr. 23-28 của PGS. TS.
Nguyễn Văn Luân và PGS. TS. Nguyễn Văn Trình; “Xu thế hội nhập quốc tế
và lựa chọn của Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 3(94)/2013;
“Nguyên nhân sâu xa dẫn tới cuộc khủng hoảng tài chính của Mỹ”, Tạp chí
Cộng sản, 5/4/2018; “Hội nhập kinh tế quốc tế: Từ quan điểm của Đảng đến
6


thực tiễn” của TS. Nguyễn Tất Thắng, 3/1/2015; “Hội nhập quốc tế: một số
vấn đề lý luận và thực tiễn” của TS. Phạm Quốc Trụ, Tạp chí Nghiên cứu
Quốc tế, số 85 - tháng 6/2011.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích
Phân tích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về chính sách hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam hiện nay, từ đó rút ra bài học và đưa ra một số kiến
nghị nhằm nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế trong tương lai.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu tổng thể nói trên, đề tài xác định những nhiệm vụ
nghiên cứu cụ thể như sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của chính sách hội nhập
kinh tế quốc tế;
- Phân tích và làm rõ sự thực trạng chính sách hội nhập kinh tế quốc tế
của Việt Nam hiện nay;
- Nghiên cứu làm rõ các tác động của chính sách hội nhập kinh tế quốc
tế tới sự phát triển kinh tế Việt Nam, và kiến nghị một số giải pháp
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
- Chính sách hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam;
- Tác động của chính sách hội nhập kinh tế quốc tế đến phát triển kinh tế

Việt Nam;
4.2 Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu chính sách hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn, cùng các
tác động của các chính sách này tới sự phát triển kinh tế Việt Nam.

7


- Về thời gian: giai đoạn từ năm 2008 (thời điểm xảy ra khủng hoảng
kinh tế tại Mỹ và năm đầu tiên sau khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO)
đến nay.
- Về không gian: phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp luận
Đề tài nghiên cứu sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về hội nhập kinh tế quốc tế.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp lịch sử và logic: đây là hai phương pháp được sử dụng để
mô tả và hiểu rõ được tiến trình và nội dung chính sách hội nhập kinh tế quốc
tế của Việt Nam;
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu: trên cơ cở thu
thập và tổng hợp nhiều nguồn tư liệu khác nhau, học viên tiến hành phân tích
làm rõ thực trạng triển khai chính sách hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế 2008 đến nay;
- Phương pháp tổng kết thực tiễn: phương pháp này được sử dụng để làm
rõ, đánh giá và phân tích những mặt tích cực và hạn chế, tác động đến phát
triển kinh tế, trên cơ sở thực tiễn thực thi chính sách hội nhập kinh tế quốc tế.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận:

- Luận văn góp phần làm phong phú thêm hệ thống lý thuyết nghiên cứu
về chính sách hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
- Ý nghĩa thực tiễn:
- Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc học tapajm
nghiên cứu, giảng dạy về đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

8


trong vấn đề phát triển kinh tế đất được và gợi ý một số kiến nghị nhằm thúc
đẩy các hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn:
Luận văn gồm có 4 phần: Phần mở đầu, Nội dung, Kết Luận, và Tài liệu
tham khảo. Trong đó, Nội dung gồm 3 chương và 11 tiểu mục. Trong đó,
Chương I nêu lên các cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc thực hiện đề tài này
về chính sách hội nhập kinh tế quốc tế. Chương II đề cập tới các tiến trình mà
Việt Nam đã thực hiện nhằm hội nhập kinh tế quốc tế. Và Chương III đề cập
tới các thành tựu, hạn chế của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam, từ đó đưa ra các dự báo và đề xuất đối với một số chính sách trong
tương lại.

9


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHÍNH
SÁCH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1 Cơ sở lý luận
1.1.1 Một số khái niệm cơ bản:
Với mục đích tìm hiểu về việc hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
trong giai đoạn 2008 đến nay, một số khái niệm sau cần được làm rõ để phục

vụ nội dung nghiên cứu: Hội nhập và hội nhập kinh tế là gì? Chính sách và
chính sách kinh tế là gì?
1.1.2 Hội nhập và hội nhập kinh tế quốc tế
Khái niệm Hội nhập kinh tế quốc tế
Thuật ngữ “hội nhập quốc tế” trong tiếng Việt có nguồn gốc dịch từ
tiếng nước ngoài (tiếng Anh là “international integration”, tiếng Pháp là
“intégration internationale”). Đây là một khái niệm được sử dụng chủ yếu
trong các lĩnh vực chính trị học quốc tế và kinh tế quốc tế, ra đời từ khoảng
giữa thế kỷ trước ở châu Âu, trong bối cảnh những người theo trường phái thể
chế chủ trương thúc đẩy sự hợp tác và liên kết giữa các cựu thù (Đức-Pháp)
nhằm tránh nguy cơ tái diễn chiến tranh thế giới thông qua việc xây dựng
Cộng đồng châu Âu. Trên thực tế cho đến nay, có nhiều cách hiểu và định
nghĩa khác nhau về khái niệm “hội nhập quốc tế”.
Ở Việt Nam, thuật ngữ ‘hội nhập kinh tế quốc tế” bắt đầu được sử dụng
từ khoảng giữa thập niên 1990 cùng với quá trình Việt Nam gia nhập
ASEAN, tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và các thể chế
kinh tế quốc tế khác. Những năm gần đây, cụm từ “hội nhập quốc tế” (thậm
chí nói ngắn gọn là “hội nhập”) được sử dụng ngày càng phổ biến hơn và với
hàm nghĩa rộng hơn hội nhập kinh tế quốc tế. Có một thực tiễn đáng lưu ý là
trước khi thuật ngữ “hội nhập kinh tế quốc tế” được đưa vào sử dụng, trong
10


tiếng Việt đã xuất hiện các cụm từ “liên kết kinh tế quốc tế” và “nhất thể hóa
kinh tế quốc tế”. Cả ba thuật ngữ này thực ra được sử dụng để chỉ cùng một
khái niệm mà tiếng Anh gọi là “international economic integration”.
Như vậy, cần xác định một cách tiếp cận phù hợp đối với khái niệm “hội
nhập kinh tế quốc tế”. Trong bài viết Hội nhập quốc tế: một số vấn đề lý luận
và thực tiễn, TS. Phạm Quốc Trụ cho rằng: “[h]ội nhập quốc tế được hiểu như
là quá trình các nước tiến hành các hoạt động tăng cường sự gắn kết họ với

nhau dựa trên sự chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực
(thẩm quyền định đoạt chính sách) và tuân thủ các luật chơi chung trong
khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế.” [20]
Với cách tiếp cận như vậy về hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta có thể
luận rằng hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình mà trong đó, hai hoặc
nhiều hơn hai quốc gia trong một khu vực địa lý rộng lớn giảm một chuỗi các
hàng rào thương mại để đạt được hoặc bảo vệ một số các lợi ích kinh tế nhất
định. Như Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan đề cập, hội nhập kinh tế quốc tế
được hiểu là “các quy định nhằm tự do hóa thương mại, dịch vụ, đầu tư như:
Giảm thiểu rồi đi tới bãi bỏ các quy định hành chính phi quan thuế; giảm
thiểu và đi tới xóa bỏ hàng rào quan thuế; mở cửa thị trường với mức độ và lộ
trình khác nhau; hình thành sân chơi bình đẳng cho mọi loại hình doanh
nghiệp; xóa bỏ bao cấp đối với hoạt động kinh doanh có liên quan tới thị
trường bên ngoài; áp dụng những quy định chung về mua sắm chính phủ, hải
quan, bảo vệ tài sản trí tuệ, vệ sinh an toàn thực phẩm, các tiêu chuẩn về môi
trường sinh thái, lao động, các quy định về tự vệ, chống bán phá giá…” [28]
Vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế
Tham gia vào các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực sẽ tạo điều kiện
cho các quốc gia thành viên có cơ hội phát triển kinh tế một cách nhanh
chóng. Cơ hội này đến từ chính vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó

11


phải kể tới: mở rộng thị trường xuất nhập khẩu của quốc gia tham gia quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế; tăng thu hút đầu tư nước ngoài, viện trợ phát
triển chính thức và giải quyết vấn đề nợ quốc tế; tiếp thu khoa học công nghệ
tiên tiến, đào tạo cán bộ và giải quyết vấn đề việc làm; hay đóng góp vào công
tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trong nhiều lĩnh vực. Trong trường
hợp cụ thể là Việt Nam, một vai trò nữa của hội nhập kinh tế quốc tế là duy trì

hoà bình ổn định, tạo dựng môi trường thuận lợi để Việt Nam xây dựng nền
tảng, phát triển năng lực, và thực thi quyền lực mềm. Tuy nhiên, không ít
thách thức được đặt ra, như: khả năng của con người, doanh nghiệp, cơ chế
nhà nước, cũng như các thể chế, cơ quan chính phủ trong việc thích nghi với
môi trường quốc tế cạnh tranh gay gắt mà hội nhập kinh tế quốc tế đem lại.
1.1.3 Chính sách hội nhập kinh tế quốc tế
Khái niệm Chính sách hội nhập kinh tế quốc tế
Vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế là đối với Việt Nam là vô cùng to
lớn, song hành với đó là yêu cầu thực tiễn về việc tiến hành hội nhập kinh tế
quốc tế một cách hợp lý, hiệu quả. Để thực hiện điều đó, Chính phủ phải đưa
ra và thực hiện các chính sách cụ thể. Nếu như chính sách được hiểu là “các
chương trình hành động hướng đích của chủ thể nắm hoặc chi phối quyền lực
chính trị nhằm thực hiện các mục tiêu cụ thể đối với các đối tượng cụ thể nào
đó” [27]. Các mục tiêu này bao gồm sự phát triển toàn diện trên tất cả các lĩnh
vực kinh tế - văn hóa – xã hội – môi trường. Hay nói cách khác, chính sách là
công cụ để nhà nước, chính phủ thực hiện các ý định của họ đối với các lĩnh
vực mà họ quản lý. Từ đó, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế có thể được
hiểu là chương trình hành động hướng đích của nhà nước, nhằm thực hiện
việc hợp tác, song phương hoặc đa phương, với các quốc gia trên thế giới để
đạt được và bảo vệ các thoả thuận đem lại lợi ích kinh tế của quốc gia đó.

12


Đặc điểm của chính sách hội nhập kinh tế quốc tế
Có thể nói rằng, xu hướng tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế chính là
việc cùng với sự gia tăng hội nhập kinh tế quốc tế, hàng rào thương mại giữa
các thị trường sẽ dần biến mất.
Để nhận diện các chính sách hội nhập kinh tế quốc tế, việc phân loại
chúng dựa theo các đặc trưng mà chúng có là yếu tố quan trọng. Về đặc điểm

phạm vi địa lý, có thể chia chính sách hội nhập kinh tế quốc tế theo các
hướng: song phương, đa phương, và khu vực. Với chính sách hội nhập kinh tế
quốc tế theo khu vực, các quốc gia tham gia vào loại hình chính sách này
thường gắn kết với nhau trên nền tảng khu vực địa lý, mà điển hình tiêu biểu
và gần gũi nhất đó chính là Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (Association
of South East Asian Nations – ASEAN), một liên minh chính trị, kinh tế, văn
hóa và xã hội. Bên cạnh đó, các chính sách hội nhập kinh tế song phương
được coi là nội dung cơ bản mà bất kì quốc gia nào cũng thực hiện. Hội nhập
kinh tế quốc tế qua các chính sách song phương là cách hội nhập dựa trên các
thỏa thuận chính sách giữa hai quốc gia, mà trong đó, các điều khoản, nội
dung được các bên trong thỏa thuận đưa ra, hội ý, chấp thuận và cam kết thực
hiện. Điểm mạnh của các chính sách hội nhập kinh tế quốc tế song phương đó
là việc trao đổi đàm phán chính sách giữa hai quốc gia sẽ trực tiếp và mất ít
thời gian (so với hình thức chính sách hội nhập kinh tế quốc tế đa phương).
Tuy nhiên, điểm yếu của các chính sách song phương đó là các quốc gia nhỏ,
yếu thế hơn sẽ gặp nhiều khó khăn khi đàm phán với các nước lớn hơn, do
cửa sổ đàm phán của những nước nhỏ sẽ hẹp hơn, dẫn tới việc họ có thể bị
các nước lớn gây áp lực, và phải chấp nhận các thỏa thuận không thực sự
thuận lợi nhất có thể cho họ.
Chính sách hội nhập kinh tế quốc tế đa phương là sản phẩm của chủ
nghĩa đa phương. Theo công trình của Ruggie xuất bản năm 1992, chủ nghĩa

13


đa phương, một cách định lượng, là sự thỏa thuận, chấp thuận của nhóm từ ba
thành viên trở lên. Một cách định tính, chủ nghĩa đa phương đề xuất việc các
thành viên (cá nhân, quốc gia) ứng xử dựa trên việc tuân thủ các nguyên tắc
chung đã được nhất trí, lấy lợi ích tập thể và lâu dài làm mục tiêu mà bỏ qua
các lợi ích cá nhân, ngắn hạn. Chính sách hội nhập kinh tế quốc tế đa phương

tuân theo bản chất này của chủ nghĩa đa phương. Đó là chính sách đa phương
trong hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra trong một nhóm từ ba nước trở lên, với
việc: lợi ích của các quốc gia trong nhóm (liên minh) này không thể chia cắt;
các quốc gia thành viên tham gia, ứng xử dựa trên các nguyên tắc, bộ nguyên
tắc đã được chấp thuận bởi toàn bộ các thành viên liên minh; và sự hợp tác
giữa các quốc gia thành viên phải đem lại lợi ích cho tập thể, giữa các quốc
gia thành viên với nhau, không riêng lẻ [38]. Đây là xu hướng mà rất nhiều
các quốc gia đang theo đuổi, dù là các nước đang phát triển, phát triển, siêu
cường hay các nước nhỏ bởi nó phục vụ tốt nhất cho việc thực hiện các mục
đích toàn cầu hóa, thúc đẩy tăng trưởng công bằng ở phạm vi rộng hơn và tốc
độ cao hơn rất nhiều so với các chính sách hội nhập kinh tế quốc tế song
phương. Các quốc gia nhỏ, yếu thế hơn cần loại chính sách này để có thể đạt
được các lợi ích mà họ không thể đạt được trong các đàm phán chính sách với
các nước lớn hơn. Còn các quốc gia lớn hơn, tuy có khó khăn hơn trong việc
đạt được mục đích của mình một cách áp đảo, nhưng trong bối cảnh chịu ảnh
hưởng mạnh mẽ của khủng hoảng kinh tế năm 2008, thực sự cần loại hình
chính sách đa phương để có thể tháo gỡ các vấn đề mà các nền kinh tế trong
nước của họ gặp phải.
1.

Nếu dựa trên đặc điểm về mức độ của chính sách với hội nhập

kinh tế với các đối tượng khác nhau, các chính sách này có thể được phân loại
với các mức độ từ nông tới sâu: (1) Thỏa thuận Thương mại ưu đãi
(Preferential Trade Arrangement/PTA) với các bên tham gia thỏa thuận hạ

14


thấp một phần hàng rào thương mại hàng hóa cho nhau và duy trì hàng rào đó

với các bên thứ ba không tham gia thỏa thuận; (2) Khu vực Thương mại Tự
do (Free Trade Area/FTA) với các bên tham gia thỏa thuận xóa bỏ hầu hết
hàng rào thương mại, thuế quan và phi thuế quan cho nhau nhưng vẫn duy trì
chính sách thuế quan riêng của mỗi bên đối với các nước ngoài FTA; (3) Liên
minh Thuế quan (Custom Union/CU) với các bên tham gia hình thành FTA và
có chính sách thuế quan chung đối với các nước bên ngoài liên minh; (4) Thị
trường Chung (Common Market/CM) với các nước tham gia hình thành Liên
minh Thuế quan đồng thời cho phép sự dịch chuyển tự do của các nhân tố sản
xuất là vốn và lao động; và (5) Liên minh Kinh tế (Economic Union/EU): Các
bên tham gia hình thành thị trường chung đồng thời xây dựng chính sách kinh
tế chung toàn liên minh bằng cách hài hòa hóa các chính sách tài khóa và tiền
tệ quốc gia. Sau này, nhà nghiên cứu El-Agraa, trong tác phẩm Regional
Integration: Experience, Theory and Measurement, đã đi xa hơn trong việc
phân loại các mức độ chính sách hội nhập kinh tế quốc tế bằng việc cụ thể
hóa các yếu tố cấu thành của từng mức độ, dựa trên một hệ tiêu chuẩn chính
sách chung, được thể hiện như sau:
Bảng 1.1: Mức độ cam kết của các hình thức liên minh kinh tế quốc
tế [30, tr. 2]
Hình thức

Thương

Chính

Dịch

Chính sách

Một


liên kết

mại tự do

sách

chuyển

tiền tệ và

chính

kinh tế

nội khối

thương

nhân tố sản

tài khóa

phủ

mại chung

xuất tự do

chung


Khu

vực Có

mậu

dịch

Không

Không

Không

Không



Không

Không

Không

tự do
Liên minh Có

15



thuế quan
Thị trường Có





Không

Không







Không









chung
Liên minh Có
kinh tế

Liên minh Có
chính trị
Cũng cần lưu ý rằng, từ những năm 1990 đến nay, khái niệm Hiệp định
Thương mại Tự do (Free Trade Agreement – FTA) đã mở rộng hơn về phạm
vi và sâu hơn về cam kết tự do hóa. Đây chính là lý do mà các học giả thường
gọi các Hiệp định Thương mại Tự do ngày nay là FTA “thế hệ mới”. Các
FTA ngày nay không chỉ dừng lại ở phạm vi cam kết cắt giảm thuế quan và
hàng rào phi thuế quan, mà hơn thế còn bao gồm nhiều vấn đề rộng hơn cả
cam kết trong khung khổ GATT/WTO cũng như một loạt vấn đề thương mại
mới mà WTO chưa có quy định. Phạm vi cam kết của FTA này còn bao gồm
những lĩnh vực như thuận lợi hóa thương mại, hoạt động đầu tư, mua sắm
chính phủ, chính sách cạnh tranh (còn gọi là “những vấn đề Xingapo”), các
biện pháp phi thuế quan, thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, cơ chế giải
quyết tranh chấp, tiêu chuẩn và hợp chuẩn, lao động, môi trường, thậm chí
còn gắn với những vấn đề dân chủ và nhân quyền hay chống khủng bố…
Điều này cũng có nghĩa khái niệm Hiệp định Thương mại Tự do được sử dụng
rộng rãi ngày nay không còn được hiểu trong phạm vi hẹp của những thỏa
thuận hội nhập khu vực và song phương có cấp độ liên kết kinh tế “nông” của
giai đoạn trước thập kỷ 1980, mà đã được dùng để chỉ các thỏa thuận hội nhập
kinh tế “sâu” giữa hai hay một nhóm nước với nhau. Khái niệm Hiệp định
Thương mại Tự do (FTA) ngày nay không còn được hiểu theo ranh giới
16


truyền thống của bốn hình thức tự do hóa và hội nhập kinh tế khu vực như
trình bày ở trên mà đã hàm nghĩa “thế hệ FTA mới” với phạm vi và lĩnh vực
cam kết sâu rộng hơn, toàn diện hơn cả những quy định và phạm vi cam kết
trong khung khổ WTO.
1.1.4 Nội dung của các chính sách hội nhập kinh tế quốc tế
Xác định tầm quan trọng và tính tất yếu của việc hội nhập kinh tế quốc tế,

các chính sách thúc đẩy chuyển dịch và tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng
nâng cao khả năng cạnh tranh và mở cửa thị trường để đón nhận sự tham gia
của các tác nhân bên ngoài hay để bước chân sang các thị trường mới là vô
cùng cần thiết, phù hợp với các nội dung của các chính sách hội nhập kinh tế
quốc tế cơ bản.
Các hình thức liên minh kinh tế quốc tế khác nhau sẽ có các đòi hỏi về
chính sách hội nhập kinh tế quốc tế khác nhau. Đối với thương mại tự do,
thuế quan (thuế đánh vào hàng hóa nhập khẩu) giữa các nước thành viên được
giảm đáng kể, một số đã bãi bỏ hoàn toàn. Mỗi quốc gia thành viên giữ thuế
quan riêng của mình đối với các nước thứ ba. Mục tiêu chung của các hiệp
định thương mại tự do là phát triển các nền kinh tế có lợi thế về quy mô và lợi
thế so sánh, thúc đẩy hiệu quả kinh tế. Đối với hình thức công đoàn tùy chỉnh,
các quốc gia thành viên đặt mức thuế chung bên ngoài giữa các quốc gia
thành viên, ngụ ý rằng mức thuế tương tự cũng được áp dụng cho các nước
thứ ba; và như vậy đạt được một chế độ thương mại chung. Đối với hình thức
thị trường chung, dịch vụ và vốn được tự do di chuyển trong các nước thành
viên, mở rộng các nền kinh tế có quy mô với lợi thế so sánh. Tuy nhiên, mỗi
thị trường quốc gia vẫn có những quy định riêng, ví dụ như tiêu chuẩn sản
phẩm. Đối với hình thức liên minh kinh tế (thị trường đơn lẻ), tất cả thuế quan
được loại bỏ để giao dịch giữa các quốc gia thành viên tạo ra một thị trường
thống nhất. Ngoài ra còn có chuyển động lao động miễn phí, cho phép công

17


nhân ở một nước thành viên có thể di chuyển và làm việc ở một nước thành
viên khác. Các chính sách tiền tệ và tài khóa giữa các nước thành viên được
hài hòa, ngụ ý mức độ hội nhập chính trị, thậm chí sử dụng một loại tiền tệ
chung, chẳng hạn như với Liên minh Châu Âu (Euro). Và cuối cùng là hình
thức liên minh chính trị, đại diện cho hình thức tích hợp tiên tiến nhất có thể

với một chính phủ chung và là chủ quyền của quốc gia thành viên được giảm
đáng kể. Hình thức này chỉ được tìm thấy trong các quốc gia, chẳng hạn như
các liên đoàn nơi có chính phủ trung ương và các vùng có mức độ tự chủ.
Khi mức độ hội nhập kinh tế tăng lên, thì sự phức tạp cũng vậy. Điều này
liên quan đến một loạt các quy định, cơ chế thi hành và trọng tài. Sự phức tạp
đi kèm với chi phí có thể làm suy yếu khả năng cạnh tranh của các khu vực
trong hội nhập kinh tế vì nó ít linh hoạt hơn đối với chính sách quốc gia. Một
sự phân chia của hội nhập kinh tế có thể xảy ra nếu sự phức tạp mà nó tạo ra
không còn được đánh giá là có thể chấp nhận được bởi các thành viên của nó.
1.1.5 Các nhân tố ảnh hưởng tới chính sách hội nhập kinh tế quốc tế
Việc một quốc gia có thể thực hiện các chính sách phục vụ cho quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố tác động khác
nhau. Trong đó. tính đồng nhất của hàng hoá được sản xuất giữa các nước
thành viên có thể trở thành các cản trở cho quan hệ thương mại. Nếu các nước
sản xuất các loại hàng hóa giống nhau thì không cần phải giao dịch với nhau.
Tình trạng này xảy ra ở các nước Đông Phi sản xuất hầu như các sản phẩm
nông nghiệp tương tự như ngô, đường, v.v. làm suy yếu thương mại giữa các
nước này. Một số quốc gia có thể gặp phải sự khó khăn trong khả năng trao
đổi ngoại hối. Họ có thể không có đủ ngoại tệ để mua bán từ các nước khác
và điều này có thể xuất phát từ khả năng hạn chế trong việc thu lại lợi nhuận
từ các hoạt động xuất khẩu. Nếu theo góc nhìn của thuyết cấu trúc, các quốc
gia có thể có ý thức hệ, văn hoá, tư tưởng, lịch sử khác nhau. Các chính sách

18


nhất định trong khuôn khổ đồng bộ hóa các chiến lược kinh tế của cả khối
hoặc liên minh kinh tế có thể vấp phải các rào cản này, và khiến các quốc gia
này phải khó khăn trong việc tuân thủ hay thực hiện các thoả thuận kinh tế
chung. Trong các khối giao dịch, giao dịch bị suy yếu do giao thông và giao

tiếp kém. Đây là kinh nghiệm chủ yếu ở các nước đang phát triển. Điều này
làm cho việc giao dịch và di chuyển từ nước này sang nước khác trở nên khó
khăn.
Một môi trường chính trị - xã hội yên bình là yếu tố tiên quyết cho khả
năng phát triển kinh tế tối đa mà một quốc gia có thể đạt được. Do đó, nếu
một quốc gia thành viên đang trải qua bất ổn chính trị, nó sẽ ảnh hưởng đến
quan hệ kinh doanh trong toàn bộ khối, dẫn tới việc các thoả thuận trong mối
quan hệ thương mại trong khối và giữa các quốc gia thành viên bị đặt vào một
tình huống nhiều rủi ro. Như vậy các chính sách đối nội, quản trị xã hội, chính
trị của quốc gia đó ảnh hưởng trực tiếp tới nền kinh tế của nước đó, và ảnh
hưởng gián tiếp tới khả năng thực hiện các chính sách hội nhập kinh tế quốc
tế của nước đó.
Trường hợp khác có thể xảy ra đó là các nước trong khối có thể có các
mức phát triển khác nhau. Các nước phát triển hơn sẽ được hưởng lợi nhiều
hơn từ thị trường chung. Các quốc gia kém phát triển hơn sẽ cảm thấy các
chính sách kinh doanh chung của khối có thể không công bằng với họ. Hay
nói cách khác, trên nền tảng phải tuân thủ và bảo đảm các chính sách chung
và cơ bản của một khối các nước hội nhập kinh tế quốc tế, các quốc gia phát
triển hơn sẽ có một khoảng cách quá lớn với các quốc gia kém phát triển hơn.
Nếu tình trạng này diễn ra trong thời gian dài và phổ biến, mục đích của các
chính sách hội nhập kinh tế quốc tế sẽ trở thành con dao hai lưỡi, gây khó
khan cho các nước kém phát triển hơn. Sự kém phát triển này có thể đến từ
khả năng công nghiệp hạn chế với nhiều sản phẩm đầu ra còn ở mức thô, chưa

19


qua chế biến, gây khó khăn đối với các chính sách trao đổi hàng hoá; hoặc
cũng có thể đến từ khả năng thích nghi của con người với quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế, mà ví dụ điển hình nhất là rào cản về ngoại ngữ dẫn tới tình

trạng bỏ lỡ cơ hội hợp tác không đáng có.
Cuối cùng, một số quốc gia thành viên, dù có cam kết tuân thủ và bảo vệ
các chính sách chung của khối, nhưng ưa thích việc hội nhập kinh tế quốc tế
với các cường quốc kinh tế khác nhưng ngoài khối. Chính sự can thiệp từ các
nước phát triển không có trong khối giao dịch này dẫn tới việc họ, dù không ở
trong khối đó, có thể áp đặt các điều kiện hạn chế giao dịch giữa các quốc gia
thành viên.
1.2 Cơ sở thực tế
1.2.1 Khủng hoảng kinh tế 2008
Khủng hoảng kinh tế 2008 chính là thời điểm mấu chốt của đề tài này.
Trong giai đoạn mà Việt Nam vừa đạt được các bước tiến đặc biệt trong tiến
trình hội nhập quốc tế (gia nhập WTO vào năm 2007), cuộc khủng hoảng này
xảy ra. Như nhiều các quốc gia khác, Việt Nam đã hứng chịu các tác động
tiêu cực của nó, và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của chúng ta đã bị ảnh
hưởng, dẫn tới việc Chính phủ phải thực hiện các điều chỉnh chính sách mang
tính bắt buộc. Nhưng cũng chính nhờ sự kiện này, Việt Nam đã tận dụng
thành công một cơ hội khó để có các bước tiến mới trong hội nhập kinh tế
quốc tế. Vậy cuộc Khủng hoảng kinh tế 2008 là gì?
Theo phân tích của thời báo The Economist [37], yếu tố thứ nhất của cuộc
khủng hoảng này bắt đầu từ năm 2001. Lạm phát bị đầy lui và lãi suất hạ, nhất
là sau vụ khủng bố 11-9. Nhưng cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay cũng bắt
đầu từ đây. Đó là thời điểm mà FED đã bơm tiền vào nền kinh tế của Mỹ và
giảm dần lãi suất cơ bản từ mức 3,5% năm hồi tháng 8-2001 xuống còn 1% vào
giữa năm 2003. Giải pháp nới lỏng tiền tệ nhìn chung đã giúp cho việc vay tiền

20


ngân hàng dễ dàng hơn và hạ thấp chi phí trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế
nhưng đồng thời nó cũng làm đồng tiền bị mất giá và dẫn tới lạm phát. Hơn

nữa, FED đã giữ lãi suất quá thấp như vậy trong một thời gian quá dài.
Yếu tố thứ hai là những khoản vay lãi suất thấp kích thích việc mua
nhà. Vào thời điểm 2006-2007, các ngân hàng thương mại và đầu tư đã tạo
nới lỏng việc cho vay mua nhà dành cho những đối tượng vay ít tin cậy.
FED đã không kiểm soát những thực tế giống như “con dao hai lưỡi” này.
Kết quả là bất kỳ ai cũng có thể vay tiền mua nhà, cho dù họ ít có khả năng
và thậm chí không có khả năng trả nợ. Lãi suất thấp khiến nhiều người đổ
xô mua nhà đã thổi lên “bong bóng” địa ốc. Giá nhà lên cao khiến các ngân
hàng cảm thấy an toàn để đem tiền cho những người không có khả năng trả
nợ vay bởi các ngân hàng cho rằng, nếu những người vay không trả nợ
được, họ sẽ tịch thu nhà với giá trị đã được đẩy lên cao hơn. Mọi việc cứ
suôn sẻ như vậy chừng nào giá nhà vẫn tăng, nhưng một khi giá nhà lên
đến đỉnh điểm và bắt đầu giảm, các điều kiện cho vay bị thắt chặt, khi đó
các ngân hàng bỗng thấy họ đang sở hữu những ngôi nhà mà giá trị của nó
không đủ bù đắp giá trị của các khoản vay.
Yếu tố thứ ba chính là câu trả lời cho câu hỏi vì sao cả một hệ thống tài
chính hùng mạnh bị điêu đứng khi mà những loại nợ tín dụng địa ốc (được
hình thành do việc cho vay tiền mua nhà) trên thị trường tài chính Mỹ chỉ
khoảng 500 tỉ USD - một con số nhỏ so với năng lực của thị trường?
Vẫn theo The Economist [37], nguyên nhân khởi đầu là chính sách mượn
tiền mua nhà. Trước kia các ngân hàng dùng tiền người dân ký thác cho vay
mua nhà để kiếm lời. Đây là một trong những hoạt động bình thường và cổ
điển của các ngân hàng. Điều kiện vay mua nhà phải trả ít nhất 20% tiền mặt,
tiền trả mỗi tháng không quá 1/3 lương bổng, điểm tín dụng tốt, việc làm
vững chắc, lâu dài … Các ngân hàng giữ các món mợ trong chương mục, và

21


như vậy chỉ có thể đủ khả năng cho vay trong giới hạn tiền có trong ngân quỹ,

ngoài số tiền dự trữ thường trực bắt buộc theo quy luật (ít nhất 10% cho các
ngân hàng lớn). Những món nợ này được bảo đảm bởi nhà và như vậy xem
như là rất ít rủi ro.
Khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008 do nhóm tài phiệt Mỹ gây ra, với sự
dính líu tới từ các ngân hàng lớn tại cả Châu Á, Châu Âu, và Mỹ. Năm 2008,
xuất nhập khẩu trên cả thế giới tương đương khoảng 32% tổng sản lượng, tụt
xuống 22% (xuống khoảng $6,000 tỷ). Từ giữa năm 2008 đến giữa năm 2009,
nhập khẩu của Nhật, Mỹ, thị trường chung Âu Châu giảm 30%. Ngành du
lịch, hàng không rất thê thảm trong những năm 2008-2010. Số tiền những
người Mễ, Phi, Việt Nam, Nam Mỹ … gửi từ Mỹ về xứ của họ giảm đáng kể,
gây nhiều khó khăn cho kinh tế và người dân ở các xứ nhược tiểu này. Các
nước kém phát triển trông cậy vào du lịch chịu hậu quả năng nề. Ireland bị
khủng hoảng nặng nề về địa ốc, subprime. Các xứ như Hy Lạp, Ý, Bồ Đào
Nha, Tây Ban Nha, Trung Nam Mỹ, và Á Châu trong đó có Việt Nam chịu
thiệt hại nặng nề về thu nhập du lịch. Nhiều xí nghiệp tại tất cả các nước trên
thế giới đóng cửa hay lao đao. Tại Mỹ, hậu quả của khủng hoảng là 26 triệu
người Mỹ đã mất việc, không kiếm được việc làm toàn thời gian, hoặc đã bỏ
cuộc đi kiếm việc. Khoảng 4 triệu gia đình bị tịch thu nhà, 4.5 triệu gia đình
khác đang đi vào con đường nhà bị tịch thu hay chậm trễ trả tiền vay mượn
mua nhà. Gần $11 ngàn tỷ gia sản trong đó có tiền để dành, tiền hưu trí đã ra
mây khói. Hậu quả của khủng hoảng ảnh hưởng đến nhiều thế hệ, và ngay
chính nước Mỹ cũng rất khó khăn và mất thời gian trong việc tìm ra phương
án phục hồi kinh tế một cách thực sự hiệu quả.
Chính sách nới lỏng tiền tệ của FED, bắt đầu từ cuối năm 2007 để tránh
suy giảm kinh tế, nay lại gây ra lạm phát chứ không giúp nền kinh tế Mỹ phục
hồi. Giá dầu, lương thực và vàng tăng lên đến mức cao nhất trong lịch sử và

22



đồng USD cũng mất giá đến mức chưa từng có. Nhiều nhà phân tích đánh giá,
nếu cứ tiếp tục đẩy mạnh chính sách nới lỏng tiền tệ sẽ khó có thể ngăn chặn
được nguy cơ sụp đổ mà có khi còn tạo ra tình trạng lạm phát và kinh tế suy
giảm hơn nữa.
1.2.2

Kinh nghiệm thực hiện chính sách hội nhập kinh tế quốc tế

tại một số quốc gia trong khu vực và Bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam
Báo cáo Khủng hoảng Nợ 2009 của Tổ chức Jubilee Debt Campaign chỉ
ra rằng, các quốc gia dễ bị ảnh hưởng nặng nề bởi các cuộc khủng hoảng kinh
tế thường là các quốc gia theo đuổi các dạng chính sách hội nhập kinh tế như:
thị trường tài chính mở; phụ thuộc nặng nề vào xuất khẩu, nhất là các mặt
hàng mà giá trị thấp hoặc đang mất giá; phụ thuộc nặng nề vào các hình thức
đầu tư từ nước ngoài; hoặc theo đuổi các hình thức tín dụng ngắn hạn, giá trị
cao. [32]
Vẫn theo báo cáo này, là một quốc gia láng giềng trong khu vực của Đông
Nam Á của Việt Nam, nợ nước ngoài của Philippines đứng ở mức 60,3 tỷ đô la
và họ đã trả nợ 13,6 tỷ đô la dịch vụ trong năm 2006. Các tổ chức như thế giới
như Ngân hàng Thế giới World Bank (WB) đã đóng một vai trò quan trọng ở
Philippines kể từ khi khủng hoảng nợ nước ngoài bắt đầu vào đầu những năm
1980. Nhưng, với việc là một quốc gia có thu nhập trung bình, Philippines không
đủ điều kiện để hủy nợ theo các quy định quốc tế chung. Áp lực đối phó với các
khoản nợ ở nhiều cấp độ đã khiến Chính phủ Philippines tìm kiếm thu nhập
ngoại hối thông qua chính ngành công nghiệp khai khoáng của họ. Không may,
nhiều dự án khai thác mỏ được thực hiện đã gây ra thiệt hại nặng nề về môi
trường và xã hội, và động lực thu hút đầu tư cũng đồng nghĩa với việc lợi nhuận
tài chính thu về không cao. Một ví dụ điển hình cho hệ quả của các chính sách
kiểu này là mỏ lộ thiên tại Rapu Rapu ở phía đông nam của Philippines đã gây ra


23


việc ô nhiễm cyanide và chất thải, đã giết số lượng lớn cá, đồng thời là nguồn
kiếm ăn chính của người dân tại địa phương. Hiện nay, tình trạng thiếu tín dụng
toàn cầu và việc giá hàng hóa tụt giảm mạnh gây ra tình trạng các dự án khai
thác bị bác bỏ hoặc bị trì hoãn, lợi nhuận cũng như triển vọng của chính những
dự án này trở nên mù mịt hơn bao giờ.
Khái quát hơn, với việc là một quốc gia thu nhập ở mức trung bình tương
tự như Việt Nam, Philippines rất phụ thuộc vào tài chính tư nhân, thậm chí phụ
thuộc hơn nhiều các quốc gia nghèo nhất khác. Do đó, theo đánh giá của WB,
Philippines cũng sẽ yếu đuối hơn trước cuộc khủng hoảng 2008, và có khả năng
cao bị ảnh hưởng bởi các cuộc khủng hoảng có thể xảy ra trong tương lai. Bởi
vậy, người dân của nước này cũng có khả năng cao hơn hứng chịu nghèo đói và
cuộc sống khó khăn trong giai đoạn hậu khủng hoảng. Cán cân thanh toán của
Philippines thâm hụt khoảng 394 triệu đô la Mỹ trong quý III của năm 2008, một
hình ảnh trái ngược của kết quả thặng dư 3,5 tỷ đô la Mỹ trong cùng kì năm
2007. Khoảng ba phần năm nợ nước ngoài của Philippines là thương mại và hơn
8 tỷ đô la Mỹ là từ các khoản nợ ngắn hạn, sắp đáo hạn trong năm 2009. Trong
khi đó, theo nghiên cứu của Quỹ Kinh tế (Economics Foundation), vào năm
2007, Philippines đã yêu cầu mức hủy nợ 63% chỉ đơn thuần để chính phủ có thể
đáp ứng các nhu cầu cơ bản của công dân. [32]
1.3 Tiểu kết
Có thể nói rằng, Việt Nam, trước sự kiện khủng hoảng kinh tế 2008, đã
đang trải qua một giai đoạn phát triển kinh tế với những dấu hiệu tích cực,
phù hợp với thực trạng tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế còn nhiều hạn chế
vào thời điểm đó. Việt Nam chịu ảnh hưởng lớn từ hệ quả của việc Trung
Quốc, nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới lúc bấy giờ, gia nhập WTO trước với
những ưu thế từ việc đi trước trong tiến trình hội nhập, bổ sung vào đó là

những điểm mạnh vốn có của thị trường này đối với Việt Nam. Điểm sáng

24


×