Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Luận văn vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội theo pháp luật việt nam – thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (596.48 KB, 85 trang )

LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới PGS.TS Đào Thị
Hằng – người đã tận tình hướng dẫn, góp ý và động viên em trong suốt quá
trình thực hiện luận văn này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trong Tổ bộ môn Luật
Lao động - Khoa Pháp luật Kinh tế, trường Đại học Luật Hà Nội đã ân cần
dạy dỗ và giúp đỡ em trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu tại
trường.
Học viên thực hiện

Bùi Thị Thu Huyền

1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Kết quả nghiên cứu
luận văn đạt được là trung thực và chưa được ai công bố tại bất kì một công trình
nào khác.
Hà Nội, ngày 02 tháng 08 năm
2016.
Xác nhận của giảng viên hướng dẫn

PGS.TS. Đào Thị Hằng

Học viên

Bùi Thị Thu Huyền

2



BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

BHXH

Bảo hiểm xã hội

NSDLĐ

Người sử dụng lao động

NLĐ

Người lao động

BHYT

Bảo hiểm y tế

BHTN

Bảo hiểm thất nghiệp

3


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU


1

1. Lý do chọn đề tài

1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

2

3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi, đối tượng nghiên cứu, phương pháp 3
nghiên cứu của đề tài
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

4

5. Bố cục của luận văn

5

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ 6
BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1.

Khái quát chung về vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội

6

1.1.1. Khái niệm vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội


6

1.1.2. Ảnh hưởng của các hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội

12

1.2.

Nội dung điều chỉnh của pháp luật đối với vi phạm pháp luật về bảo 14
hiểm xã hội

1.2.1. Quy định các hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội

14

1.2.2. Quy định về xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội

19

Kết luận chương 1

25

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ VI PHẠM PHÁP LUẬT 26
VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
2.1. Quy định các hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội và thực tiễn 25
thực hiện

2.1.1. Các hành vi vi phạm quy định về đóng bảo hiểm xã hội và thực tiễn 25
thực hiện

2.1.2. Các hành vi vi phạm quy định về hưởng bảo hiểm xã hội và thực tiễn 35
thực hiện
2.1.3. Hành vi vi phạm quy định về quản lý và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội 41
4


và thực tiễn thực hiện
2.2. Quy định về hình thức xử lý hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm 44
xã hội và thực tiễn thực hiện
2.3. Quy định về thẩm quyền và thủ tục xử lý đối với hành vi vi phạm 53
pháp luật về bảo hiểm xã hội và thực tiễn thực hiện
2.3.1. Về thẩm quyền xử phạt

53

2.3.2. Về thủ tục xử phạt

55

2.4. Nguyên nhân của các hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội

57

Kết luận chương 2

62

CHƯƠNG 3; MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU 63
QUẢ THỰC THI QUY ĐỊNH VỀ VI PHẠM PHÁP LUẬT TRONG LĨNH
VỰC BẢO HIỂM XÃ HỘI


3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện quy định pháp luật về vi phạm pháp 63
luật về bảo hiểm xã hội
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định về vi phạm pháp luật 65
trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội.
3.2.1. Kiến nghị về mức xử phạt

65

3.2.2. Kiến nghị về một số chế độ BHXH nhằm tránh hoặc hạn chế vi phạm 66
pháp luật về bảo hiểm xã hội
3.2.3. Kiến nghị về hình thức xử lý bồi thường thiệt hại

68

3.2.4. Kiến nghị về tổ chức thực hiện

68

3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quy định về vi 69
phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội
3.3.1. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm

69

3.3.2. Nâng cao vai trò của tổ chức Công đoàn trong việc bảo vệ quyền của 70
người lao động trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội
3.3.3. Tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức của NLĐ

72


3.4. Một số giải pháp khác

72

Kết luận chương 3

74

5


KẾT LUẬN

75

6


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong hệ thống an sinh xã hội của mỗi quốc gia, bảo hiểm xã hội bao
giờ cũng được xác định là trụ cột bởi đối tượng tác động và phạm vi ảnh
hưởng của nó. Với vai trò và tầm quan trọng to lớn đó, BHXH luôn là một
chính sách thiết yếu của tất cả các quốc gia. Tại Việt Nam, BHXH được coi là
trụ cột của hệ thống an sinh xã hội và là mối quan tâm hàng đầu của Đảng và
Nhà nước. Luật BHXH được Quốc hội thông qua ngày 20/11/2014 (có hiệu
lực từ 01/1/2016) đã đánh dấu một bước tiến rất lớn về khung pháp lý của hệ
thống pháp luật BHXH nói riêng và hệ thống an sinh xã hội nói chung. Bên
cạnh Luật BHXH, hàng loạt các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành Luật

BHXH được thông qua đã ngày càng kiện toàn và củng cố thêm hệ thống các
văn bản pháp luật về BHXH của nước ta. Việc triển khai thực hiện chính sách
BHXH trên thực tế cũng được Đảng và Nhà nước quan tâm, bước đầu thu
được một số thành tựu nhất định, góp phần quan trọng trong việc chăm lo đời
sống cho NLĐ, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, đáp ứng yêu cầu trong việc xây
dựng, phát triển kinh tế và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, ngoài những hiệu quả to lớn và thiết thực đó, trong việc tổ
chức và thực hiện các chế độ BHXH vẫn còn nhiều điểm chưa hợp lí, chưa
phù hợp với nhu cầu chung về BHXH của NLĐ, nhất là trong giai đoạn hiện
nay, khi mà đất nước chúng ta đang có những thay đổi quan trọng để hội nhập
với thế giới. Trên thực tế, các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH xảy ra
ngày càng nhiều, thủ đoạn càng tinh vi, gây ảnh hưởng không nhỏ tới lợi ích
của NLĐ và Nhà nước. Tình trạng trốn tránh tham gia BHXH, nợ đọng
BHXH ngày càng trở nên phổ biến ở các doanh nghiệp. Việc quản lý và sử
dụng quỹ BHXH ngày càng mất đi tính “công khai, minh bạch” vốn có của
nó. Cá biệt có nhiều trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng, không chỉ thiệt hại
về vật chất, ảnh hưởng đến quỹ BHXH mà còn ảnh hưởng đến trật tự an toàn
xã hội, ảnh hưởng đến lòng tin của người dân đối với chính sách của Đảng và
Nhà nước.
7


Theo dõi tình hình vi phạm pháp luật về BHXH trong thời gian qua cho
thấy, tính chất vi phạm ngày càng phổ biến, mức độ vi phạm ngày càng cao
không chỉ gây ảnh hưởng lớn tới NLĐ, người thụ hưởng, tới việc tăng trưởng
và bảo toàn quỹ BHXH mà còn ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ, kế
hoạch Nhà nước giao cho ngành BHXH. Mặc dù đã có sự vào cuộc của các cơ
quan ban ngành, mặc dù nhận được sự quan tâm rất lớn của các “phương tiện
thông tin đại chúng” song tình hình vi phạm pháp luật về BHXH lại chưa bao
giờ “hạ nhiệt”; ngược lại nó lại trở lên “nóng bỏng” hơn bao giờ hết. Thực tế

cũng chứng minh được rằng, các vấn đề liên quan đến “vi phạm pháp luật về
BHXH” luôn tốn nhiều “giấy mực” nhất của các cơ quan truyền thông, thu
hút được sự chú ý đông đảo của xã hội, đặc biệt là lực lượng lao động.
Với mong muốn đi sâu tìm hiểu vi phạm trong lĩnh vực BHXH và các
hành vi vi phạm trên thực tế từ đó đề ra một số giải pháp khắc phục nhằm bảo
vệ quan hệ BHXH và góp phần ổn định, phát triển nền kinh tế xã hội; tác giả
luận văn đã chọn đề tài “Vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội theo pháp
luật Việt Nam – thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật” làm đề tài
luận văn tốt nghiệp cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu về BHXH không phải là vấn đề mới mẻ vì đây là một
chế độ ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển toàn diện của an sinh xã hội, từ đó
ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế quốc gia. Nhưng các đề tài, bài viết đi sâu
nghiên cứu vi phạm pháp luật về BHXH theo pháp luật lại không nhiều. Với
những phạm vi, mức độ khác nhau đã có một số công trình nghiên cứu, bài
viết đề cập tới vi phạm pháp luật trong lĩnh vực BHXH, điển hình như:
-

Bài viết “Một số ý kiến trao đổi về hoạt động kiểm tra của Bảo hiểm xã

hội Việt Nam” của tác giả Lê Quyết Thắng, đăng trên Tạp chí Bảo hiểm xã hội
số 6/2008.
-

Bài viết “Vi phạm pháp luật về BHXH: thực trạng và kiến nghị” của tác

giả Trần Đức Long, đăng trên tạp chí Lao động xã hội số 286/2008.

8



-

Bài viết “Giải pháp thu hồi nợ đọng tiền đóng BHXH khu vực doanh

nghiệp” của tác giả Mai Đức Thắng, đăng trên Tạp chí Bảo hiểm xã hội số
1B/2010.
-

Luận văn “Vi phạm pháp luật về đóng và hưởng BHXH ở Việt Nam”

của tác giả Vũ Thị Hồng Minh, bảo vệ thành công tại Viện Khoa học xã hội
Việt Nam, năm 2011.
-

Hoàng Kim Khuyên và Hoàng Thị Quỳnh Trang “Thực trạng nợ, chậm

và “trốn” đóng tiền BHXH ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nhà nước và pháp
luật, 2014.
Những bài viết trên tuy đã đề cập đến tình hình vi phạm pháp luật về
BHXH nhưng lại chưa chuyên sâu, chưa cụ thể và toàn diện. Đặc biệt, chưa có
một đề tài hay công trình nào nghiên cứu riêng về “Vi phạm pháp luật về
BHXH theo pháp luật”. Chính vì vậy, đây được coi là công trình khoa học đầu
tiên nghiên cứu về vi phạm pháp luật về BHXH theo pháp luật Việt Nam –
thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi, đối tượng nghiên cứu, phương pháp
nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn
về vi phạm pháp luật về BHXH ở Việt Nam từ đó đề xuất một số kiến nghị
nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về BHXH ở Việt Nam.

Để đạt được mục đích trên, khi nghiên cứu đề tài này phải thực hiện các
nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Khái quát được những vấn đề lý luận về vi phạm pháp luật về BHXH.
- Phân tích, đánh giá thực trạng vi phạm pháp luật về BHXH ở Việt Nam.
- Đề xuất những kiến nghị hoàn thiện quy định về vi phạm trong lĩnh vực
BHXH và các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trên thực
tế.

9


3.2. Đối tượng nghiên cứu: các quy định pháp luật về những hành vi vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực BHXH của người lao động, người sử dụng lao
động và tổ chức bảo hiểm xã hội.
3.3. Phạm vi nghiên cứu:
Trên cơ sở các văn bản pháp luật về BHXH, kết hợp với việc nghiên
cứu các công trình đã được công bố, các bài viết trên tạp chí chuyên ngành,
tác giả nhận thấy các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH được quy định một
phần trong Luật Bảo hiểm xã hội 2014 và Nghị định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực BHXH. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả
tập trung nghiên cứu các dạng hành vi vi phạm pháp luật về BHXH, nguyên
nhân cũng như các biện pháp khắc phục. Các số liệu liên quan sử dụng trong
luận văn được tổng hợp trên cả nước giai đoạn 2010 – 6/2016, đặc biệt chú
trọng đến thực tiễn vi phạm ở một số thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí
Minh, Hải Phòng, Thanh Hóa….
3.4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, Luận văn đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
-


Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.

-

Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng để phân tích các vấn

đề liên quan đến vi phạm pháp luật về BHXH.
-

Phương pháp thống kê và phân tích số liệu để đánh giá thực trạng vi

phạm pháp luật về BHXH.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
-

Luận văn phân tích một cách sâu sắc các vấn đề chung về vi phạm pháp

luật về BHXH;
-

Đánh giá một cách đầy đủ và toàn diện thực trạng vi phạm pháp luật về

BHXH trên thực tế;
-

Nêu ra những yêu cầu cơ bản và những kiến nghị cụ thể để hoàn thiện

và nâng cao hiệu quả thực thi quy định về vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
BHXH.


10


5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh lục tài liệu tham khảo, luận văn có
kết cấu gồm 03 chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về vi phạm pháp luật về bảo hiểm
xã hội
Chương 2: Thực trạng các quy định pháp luật về vi phạm pháp luật
về bảo hiểm xã hội và thực tiễn thực hiện
Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực
hiện quy định về vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội

11


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ BẢO
HIỂM XÃ HỘI
1.1.

Khái quát chung về vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội

1.1.1. Khái niệm vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội
Trong đời sống xã hội tồn tại nhiều chuẩn mực đan xen, tác động lẫn
nhau (chuẩn mực chính trị, chuẩn mực pháp luật, chuẩn mực chân thiện
mĩ…). Theo đó, bất kỳ hành vi nào của con người làm sai lệch chuẩn mực
cũng đều là hành vi vi phạm. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, các yêu
cầu của pháp luật thường được các chủ thể pháp luật (công dân, cán bộ, công
chức, cơ quan tổ chức nhà nước…) tự giác nghiêm chỉnh thực hiện. Tuy

nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong xã hội vẫn xảy ra nhiều vi
phạm pháp luật. Những hành vi vi phạm đó không chỉ xâm phạm trực tiếp tới
các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ, mà còn gây ảnh hưởng đến tính
nghiêm minh của pháp luật. Theo quan niệm chung, vi phạm pháp luật được
hiểu là hành vi nguy hiểm cho xã hội do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp
lý thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến các quan hệ xã hội được
pháp luật xác lập và bảo vệ. Vi phạm pháp luật mang trong mình những đặc
trưng riêng biệt vốn có như:
- Vi phạm pháp luật là hành vi xác định của các cá nhân, tổ chức cụ thể.
Tức là những xử sự thực tế, cụ thể của cá nhân hoặc tổ chức nhất định.
- Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, vi phạm những quy định
trong các quy phạm pháp luật.
- Vi phạm pháp luật là hành vi gây thiệt hại cho xã hội; những thiệt hại
này được coi là thiệt hại nói chung chứ không phải là những thiệt hại riêng đối
với những vật cụ thể.
- Vi phạm pháp luật là hành vi có lỗi, tức là khi thực hiện hành vi trái
pháp luật, chủ thể nhận thức được hành vi của mình và hậu quả của hành vi
đó, đồng thời điểu khiển được hành vi của mình. Như vậy, chỉ có những hành

12


vi trái pháp luật mà có lỗi của chủ thể thì mới bị coi là vi phạm pháp luật. Còn
trong trường hợp chủ thể thực hiện một xử sự có tính chất trái pháp luật nhưng
chủ thể không nhận thức được hành vi của mình và hậu quả của hành vi đó
gây ra cho xã hội hoặc nhận thức được hành vi và hậu quả của mình nhưng
không điều khiển được hành vi của mình thì không bị coi là có lỗi và không
phải là vi phạm pháp luật.
- Vi phạm pháp luật là hành vi theo quy định của pháp luật phải chịu
những chế tài nhất định. Nghĩa là, đối với những hành vi không bị trừng phạt

thì không được coi là vi phạm pháp luật.
Nói chung, vi phạm pháp luật luôn có các dấu hiệu trái pháp luật của
hành vi, có dấu hiệu lỗi, có dấu hiệu về năng lực trách nhiệm pháp lý của chủ
thể.
Thứ nhất, tính trái pháp luật của hành vi. Vi phạm pháp luật trước hết
phải được hiểu là hành vi của con người hoặc là hoạt động của các cơ quan
nhà nước, các tổ chức xã hội... (các chủ thể pháp luật) có tính nguy hiểm cho
xã hội. Tuy nhiên, hành vi đó phải là hành vi trái pháp luật, hay nói cách khác,
đó là những hành vi được thực hiện không đúng với những quy định của pháp
luật như không làm những việc mà pháp luật yêu cầu phải làm, làm những
việc mà pháp luật cấm hoặc tiến hành hoạt động vượt quá giới hạn mà pháp
luật cho phép.
Thứ hai, yếu tố lỗi. Lỗi là yếu tố chủ quan thể hiện thái độ của chủ thể
đối với hành vi trái pháp luật của mình và là dấu hiệu bắt buộc trong tất cả các
vi phạm pháp luật. Nếu hành vi trái pháp luật được thực hiện do những điều
kiện và hoàn cảnh khách quan; chủ thể của hành vi đó không cố ý hay cũng
không vô ý thực hiện hoặc không nhận thức được, từ đó không thể lựa chọn
hoặc điều khiển được hành vi của mình theo yêu cầu của pháp luật thì chủ thể
hành vi đó không được coi là có lỗi và hành vi đó không phải là hành vi vi
phạm pháp luật. Kể cả những hành vi mà chủ thể buộc thực hiện trong trường
hợp bất khả kháng cũng có thể không bị coi là vi phạm pháp luật. Như vậy,
mọi vi phạm pháp luật trước hết phải là hành vi trái pháp luật nhưng ngược

13


lại, không phải mọi hành vi trái pháp luật đều bị coi là vi phạm pháp luật; chỉ
có những hành vi nào có lỗi mới có thể bị coi là vi phạm pháp luật.
Thứ ba, năng lực trách nhiệm pháp lý của chủ thể. Vi phạm pháp luật
phải là hành vi trái pháp luật, có lỗi do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp

lý thực hiện. Năng lực trách nhiệm pháp lý là khả năng phải chịu trách nhiệm
pháp lý của chủ thể đối với hành vi của mình. Năng lực trách nhiệm pháp lý
của các chủ thể được quy định cụ thể trong pháp luật và được xác định bởi hai
yếu tố là độ tuổi và khả năng nhận thức, điều khiển hành vi của mỗi chủ thể ở
thời điểm hành vi được thực hiện. Đối với những người do mất khả năng nhận
thức hoặc khả năng tự lựa chọn, điều khiển hành vi của mình ở thời điểm thực
hiện hành vi đó thì pháp luật cũng quy định họ không có năng lực trách nhiệm
pháp lý, do vậy họ không phải chịu trách nhiệm pháp lý trong trường hợp đó.
Từ những dấu hiệu kể trên, vi phạm pháp luật được hiểu như sau: vi
phạm pháp luật là hành vi xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật
bảo vệ do cá nhân hoặc tổ chức có năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện
trong điều kiện họ có thể nhận thức và kiểm soát được hành vi của mình.
Từ sự phân tích như trên về vi phạm pháp luật, có thể đưa ra một cách
hiểu chung nhất về vi phạm pháp luật về BHXH như sau: vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực BHXH là các hành vi xâm hại đến các quan hệ BHXH được
pháp luật bảo vệ, do cá nhân hoặc tổ chức có năng lực trách nhiệm pháp lí
thực hiện trong điều kiện họ có thể nhận thức và kiểm soát được hành vi của
mình.
Một hành vi được coi là hành vi vi phạm trong lĩnh vực BHXH được
nhận diện, đánh giá và là cơ sở để truy cứu trách nhiệm pháp lý là nhờ có cấu
thành cơ bản xác định. Nó bao gồm các yếu tố: mặt khách quan, mặt chủ
quan, chủ thể và khách thể của vi phạm pháp luật về BHXH. Nếu thiếu một
trong các yếu tố này thì sẽ không tồn tại một vi phạm pháp luật trong thực tế.
Về mặt khách quan của vi phạm pháp luật về BHXH
Thứ nhất, hành vi trái pháp luật. Về nguyên tắc, hành vi trái pháp luật
luôn là dấu hiệu bắt buộc của mọi vi phạm pháp luật và vi phạm pháp luật về
14


BHXH cũng không phải là một ngoại lệ. Nếu trong thực tế không có hành vi

trái pháp luật của cá nhân hoặc hoạt động trái pháp luật của một tổ chức cụ thể
nào đó, xâm hại các quan hệ pháp luật về BHXH thì các hành vi vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực BHXH sẽ không xảy ra.
Thứ hai, hậu quả của hành vi. Các hành vi trái pháp luật ở mức độ
khác nhau đều gây nguy hại cho xã hội. Tùy thuộc vào tính chất và mức độ
của hành vi mà nó đã hoặc có thể gây ra những thiệt hại lớn hay nhỏ cho xã
hội. Thiệt hại đó có thể là những thiệt hại về vật chất, tinh thần hoặc các thiệt
hại khác cho xã hội. Căn cứ vào mức độ thiệt hại để xác định rõ ràng mức độ
vi phạm, phân loại được hành vi vi phạm pháp luật về BHXH đó mới chỉ dừng
lại ở mức vi phạm hành chính hay đã đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
Hậu quả của vi phạm pháp luật trong lĩnh vực BHXH trước hết là thiệt
hại về vật chất gây ra cho quỹ BHXH. Thiệt hại này được thể hiện dưới dạng
bị chiếm đoạt, bị thất thu (không thu được hoặc không thu đủ) hay bị thất
thoát. Vi phạm trong lĩnh vực BHXH còn có thể gây ra thiệt hại cho NLĐ. Đó
là thiệt hại đe dọa gây ra đối với lợi ích trước mắt (các quyền được hưởng chế
độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, chế độ bảo
hiểm y tế, chế độ bảo hiểm thất nghiệp) và những quyền lợi lâu dài mà NLĐ
được hưởng khi hết độ tuổi lao động (quyền được hưởng lương hưu và chế độ
tử tuất).
Thứ ba, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với hậu quả
mà nó gây ra. Khi xét mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả thì hậu quả
thường được hiểu là thiệt hại thực tế đã xảy ra. Trong mối quan hệ này, hành
vi là cái có trước, giữ vai trò nguyên nhân, hậu quả là cái có sau và là tính tất
yếu của hành vi. Nếu giữa hành vi trái pháp luật và sự thiệt hại của xã hội
không có mối quan hệ nhân quả thì sự thiệt hại của xã hội không phải do hành
vi trái pháp luật đó trực tiếp gây ra mà có thể do những nguyên nhân khác.
Đối với vi phạm pháp luật về BHXH, dấu hiệu mặt khách quan có tính
chất phức tạp riêng bởi vì BHXH liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực
và đặc biệt liên quan đến pháp luật về lao động mà cụ thể là hợp đồng lao


15


động làm căn cứ đóng BHXH đối với NLĐ hay các cơ sở khám chữa bệnh,
Hội đồng giám định y khoa, các xác nhận của chính quyền địa phương, của
NSDLĐ... để NLĐ được hưởng các chế độ BHXH. Bởi vậy khi xét hành vi
nào được coi là hành vi vi phạm pháp luật về BHXH thì cần phải xem xét tới
tất cả các khía cạnh của hành vi đó.
Về mặt chủ quan của vi phạm pháp luật về BHXH
Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật trong lĩnh vực BHXH thường là
những biển hiện tâm lý bên trong của chủ thể vi phạm nên nó khá trừu tượng
và khó xác định.
Cũng như các dạng hành vi vi phạm pháp luật khác, mặt chủ quan của
hành vi vi phạm pháp luật về BHXH cũng có các biểu hiện là lỗi, động cơ và
mục đích vi phạm.
Thứ nhất, về lỗi. Lỗi là trạng thái tâm lý của chủ thể đối với hành vi vi
phạm của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra. Hành vi vi phạm pháp luật
về BHXH phải là hành vi có lỗi thể hiện dưới dạng cố ý hoặc vô ý. Hay nói
cách khác, người thực hiện hành vi này phải là người có khả năng nhận thức
và làm chủ hành vi của mình nhưng đã vô tình, thiếu thận trọng mà không
nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội (lỗi vô ý) hoặc nhận
thức được hành vi đó là gây hại cho xã hội nhưng vẫn cố tình thực hiện hành
vi này (lỗi cố ý).
Thứ hai, về động cơ và mục đích. Ngoài lỗi là dấu hiệu bắt buộc trong
mặt chủ quan của vi phạm pháp luật về BHXH, trong một số trường hợp cụ
thể thì động cơ và mục đích còn được coi là dấu hiệu bắt buộc của một số loại
vi phạm pháp luật về BHXH. Động cơ của hành vi vi phạm trong lĩnh vực
BHXH có thể là động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác, trong đó có thể có
động cơ có tính “tập thể” như để tăng nguồn vốn của đơn vị hoặc tăng thu
nhập một cách không chính đáng cho thành viên trong đơn vị.

Mục đích là kết quả cuối cùng mà trong suy nghĩ của mình chủ thể mong
muốn đạt được khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Mục đích vi phạm
của nhóm hành vi này là mục đích tư lợi, trước hết là ở nhóm hành vi vi phạm
16


quyền thụ hưởng BHXH cũng như ở một số hành vi vi phạm nghĩa vụ đóng
BHXH.
Về chủ thể của vi phạm pháp luật về BHXH.
Chủ thể của vi phạm pháp luật về BHXH rất đa dạng, có thể là cá nhân
hoặc cũng có thể là tổ chức.
Thứ nhất, đối với nhóm chủ thể là cá nhân. Cá nhân là chủ thể của vi
phạm pháp luật về BHXH có thể là người thuộc đối tượng tham gia BHXH
hoặc cũng có thể là người không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm. Tuy
nhiên, nhóm cá nhân là đối tượng tham gia BHXH sẽ là nhóm chủ thể chủ yếu
của vi phạm pháp luật về BHXH. Chủ thể của vi phạm pháp luật về BHXH
cũng có thể là NLĐ, cũng có thể là những người có chức vụ, quyền hạn nhất
định trong hệ thống BHXH.
Đối với cá nhân thì họ chỉ bị coi là chủ thể của vi phạm pháp luật trong
lĩnh vực BHXH nếu họ đã đạt đến một độ tuổi nhất định theo quy định pháp
luật và phải có khả năng nhận thức, xác lập, kiểm soát được hành vi của bản
thân. Những người không có khả năng nhận thức, xác lập, kiểm soát được
hành vi của bản thân thì không được coi là chủ thể của vi phạm pháp luật về
BHXH. Thông thường khi tham gia quan hệ pháp luật về BHXH thì các bên
trong quan hệ BHXH thường là những người có năng lực pháp luật và năng
lực hành vi, hay nói cách khác, họ là những người có đầy đủ năng lực trách
nhiệm pháp lý, ngoại trừ một số trường hợp ngoại lệ; bởi vậy, nếu có hành vi
vi phạm pháp luật về BHXH xảy ra thì việc xác định đâu là chủ thể vi phạm sẽ
khá dễ dàng. Tuy nhiên, đối với trường hợp “Người lao động chưa thành niên
từ đủ 13 tuổi trở lên (Điều 163 – 164 Bộ luật Lao động 2012) tham gia hợp

đồng lao động và trở thành một bên của quan hệ lao động và nếu có tham gia
bảo hiểm xã hội thì đương nhiên, họ sẽ là bên tham gia và bên thụ hưởng
BHXH”. Nếu có tranh chấp xảy ra thì việc xác định họ có phải là chủ thể của
vi phạm pháp luật về BHXH hay không thì lại không hề đơn giản khi họ được
xác định là những người có năng lực hành vi chưa đầy đủ.

17


Thứ hai, với nhóm chủ thể là tổ chức. Nhóm chủ thể là tổ chức có thể
là: cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ
chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; cơ quan, tổ chức nước ngoài;
doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá
nhân có thuê mướn, sử dụng lao động theo hợp đồng lao động; cơ quan, tổ
chức có liên quan tới BHXH. Trong các chủ thể là tổ chức, Nhà nước được
coi là chủ thể đặc biệt của quan hệ pháp luật vì nó là tổ chức quyền lực chính
trị của toàn thể nhân dân lao động, mang chủ quyền quốc gia và đại diện cho
xã hội. Nhà nước chỉ tham gia những quan hệ pháp luật cơ bản nhất và quan
trọng nhất liên quan tới lợi ích của cả quốc gia, như quan hệ sở hữu đất đai và
các tài nguyên thiên nhiên khác, quan hệ ngoại thương.
Khác với năng lực pháp luật và năng lực hành vi của cá nhân là chủ thể
quan hệ pháp luật, năng lực pháp luật và năng lực hành vi của tổ chức là chủ
thể quan hệ pháp luật mang tính chuyên biệt, nó xuất hiện đồng thời ở thời
điểm tổ chức đó được thành lập hợp pháp hoặc được công nhận là hợp pháp
và mất đi khi tổ chức ấy bị giải thể.
Về khách thể của vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội
Khách thể vi phạm ở đây được hiểu là quan hệ pháp luật về BHXH
được pháp luật bảo vệ nhưng bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại tới. Nói
cách khác, vi phạm pháp luật về BHXH là hành vi trái với các quy định của

pháp luật về BHXH, được quy định phải bị xử lí trong văn bản pháp luật của
cơ quan có thẩm quyền.
1.1.2. Ảnh hưởng của các hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội
Các hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật BHXH (gian lận, trốn
đóng, trục lợi quỹ BHXH…) được coi là hành vi vi phạm về quyền con người.
Hành vi ấy không chỉ gây thiệt hại về vật chất, ảnh hưởng đến quỹ BHXH mà
còn gây ảnh hưởng trực tiếp đến trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp
pháp của NLĐ.

18


-

Thứ nhất, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của NLĐ: NLĐ

không được tham gia BHXH hoặc tham gia không đầy đủ sẽ ảnh hưởng trực
tiếp đến quyền thụ hưởng các chế độ BHXH như quyền hưởng chế độ ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; quyền hưởng chế độ bảo hiểm
thất nghiệp; quyền được lĩnh lương hưu khi hết tuổi lao động. Một khi quyền
thụ hưởng các chế độ BHXH của NLĐ bị xâm phạm thì đời sống của họ có
thể sẽ vấp phải những khó khăn nhất định vì hầu hết NLĐ là những người có
mức sống trung bình, phụ thuộc nhiều vào các chính sách xã hội và NSDLĐ.
Từ đó gây ảnh hưởng đến quan hệ lao động và nền kinh tế - xã hội của quốc
gia.
-

Thứ hai, ảnh hưởng tới an sinh xã hội và trật tự an toàn xã hội: Hành vi

vi phạm nghĩa vụ đóng BHXH của NSDLĐ có thể là một trong những nguyên

nhân dẫn đến các cuộc đình công kéo dài, gây bất ổn xã hội, ảnh hưởng trực
tiếp đến nền kinh tế, chính trị của quốc gia. Hành vi vi phạm này đi ngược lại
với mục đích an sinh xã hội mà hầu hết các quốc gia trên thế giới đang theo
đuổi. Do đó, không thể có một xã hội dân chủ, công bằng nếu trong xã hội đó
vẫn còn tồn tại những hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội.
-

Thứ ba, làm thất thoát quỹ BHXH, ảnh hưởng đến an toàn, cân đối quỹ

BHXH trong ngắn hạn và dài hạn: Quỹ BHXH hình thành trên cơ sở sự đóng
góp của NSDLĐ, NLĐ và được đặt dưới sự bảo trợ của nhà nước; đảm bảo
chi trả chế độ BHXH cho người tham gia trên nguyên tắc chia sẻ rủi ro. Hành
vi gian lận, trốn đóng, đóng không đủ hay đúng mức, trục lợi quỹ BHXH kéo
dài ảnh hưởng đến nguồn thu của quỹ BHXH, không đảm bảo khả năng chi trả
của quỹ, gây mất cân đối quỹ từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của
NLĐ.
-

Thứ tư, ảnh hưởng đến tính nghiêm minh của pháp luật và mục tiêu của

các chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước: Mục tiêu mở rộng đối
tượng tham gia BHXH theo tinh thần Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày
22/11/2012 của Bộ Chính trị (phấn đấu đến năm 2020 có khoảng 50% lực
lượng lao động tham gia BHXH, 35% lực lượng lao động tham gia BHTN;

19


trên 80% dân số tham gia BHYT)1 sẽ khó có thể đạt được nếu tình hình vi
phạm pháp luật về BHXH ngày càng gia tăng trên thực tế.

1.2.

Nội dung điều chỉnh của pháp luật đối với vi phạm pháp luật về

bảo hiểm xã hội
Về cơ bản, đối với vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội pháp luật điều
chỉnh những nội dung chủ yếu sau đây:
1.2.1. Quy định các hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội
Các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH có thể xảy ra ở tất cả các
khâu, từ lập tờ khai cấp sổ, xác nhận thời gian công tác, thời gian tham gia
BHXH, thu, đóng BHXH, quản lý hồ sơ, giải quyết chế độ… đến việc sử dụng
quỹ không đúng mục đích với quy định. Chủ thể thực hiện các hành vi này
khá đa dạng nhưng chủ yếu tập trung vào ba nhóm chủ thể sau: người tham
gia BHXH (người lao động, người sử dụng lao động…); người thụ hưởng
BHXH (người lao động hoặc thân nhân NLĐ…) và cán bộ làm công tác
BHXH. Vì việc thực hiện chính sách BHXH liên quan đến quá trình thu, chi
và quản lí quỹ tài chính được sử dụng chủ yếu từ nguồn đóng góp của người
sử dụng lao động và người lao động nên khả năng xảy ra vi phạm và tội phạm
về lĩnh vực BHXH không nằm ngoài quá trình thu, chi và quản lý hoạt động
BHXH. Có thể chia những vi phạm pháp luật về BHXH thành 03 nhóm chính
như sau: nhóm hành vi vi phạm về đóng bảo hiểm xã hội, nhóm hành vi vi
phạm về hưởng BHXH, nhóm hành vi vi phạm về sử dụng và quản lí quỹ
BHXH.
Thứ nhất, các hành vi vi phạm về đóng bảo hiểm xã hội
Các hành vi vi phạm về đóng BHXH được cụ thể dưới dạng hành vi
sau:
Một là, trốn đóng BHXH. Đây là hành vi không đóng BHXH cho diện
NLĐ bắt buộc theo quy định của pháp luật. Quỹ BHXH được hình thành từ sự
đóng góp của NSDLĐ và NLĐ, từ tiền sinh lời của hoạt động đầu tư quỹ hoặc
1 truy cập ngày 15/6/2016


20


từ các nguồn thu hợp pháp khác. Theo quy định của Luật BHXH thì việc đóng
vào quỹ BHXH là nghĩa vụ của NSDLĐ và NLĐ. Mà đã là nghĩa vụ thì buộc
các chủ thể phải thực hiện, nếu không thực hiện thì sẽ bị coi là vi phạm pháp
luật.
Pháp luật về BHXH của Trung Quốc quy định rõ: Đơn vị sử dụng lao
động phải làm thủ tục tham gia bảo hiểm tai nạn lao động cho công nhân viên
của mình và nộp phí bảo hiểm hàng tháng cho cơ quan BHXH thành phố
(BHXH ở đặc khu kinh tế Thẩm Quyến – Trung Quốc – Mục III, phần 2 , trách
nhiệm đóng góp).2 Như vậy, nghĩa vụ tham gia bảo hiểm xã hội tai nạn lao
động là một quy định bắt buộc với NSDLĐ ở Trung Quốc. NSDLĐ buộc phải
tham gia bảo hiểm cho NLĐ, nếu không họ sẽ phải chịu các chế tài theo quy
định của pháp luật.
Hai là, chậm đóng tiền BHXH, bảo hiểm thất nghiệp. Việc đóng BHXH
bắt buộc sẽ được thực hiện theo những phương thức đóng nhất định, đó có thể
là theo tháng, theo quý hoặc theo năm. Việc sử dụng phương thức thanh toán
nào được thực hiện trên cơ sở NSDLĐ đăng kí với tổ chức BHXH. Thông
thường, việc đóng BHXH sẽ do NSDLĐ thực hiện thay cho NLĐ bằng cách
trích từ tiền lương, tiền công tháng của NLĐ theo mức đóng quy định tại Luật
BHXH để đóng cùng một lúc vào quỹ BHXH.
Việc chậm đóng tiền BHXH được hiểu là những chủ thể có nghĩa vụ
đóng BHXH nhưng lại không đóng trong khoảng thời gian mà pháp luật quy
định hoặc khoảng thời gian mà NSDLĐ đã đăng ký với cơ quan bảo hiểm có
thẩm quyền.
Ba là, đóng không đúng mức quy định. Mức đóng vào quỹ BHXH được
quy định dựa trên cơ sở tiền lương, tiền công của NLĐ. Hàng tháng, NSDLĐ
và NLĐ đều phải đóng một tỷ lệ phần trăm nhất định so với tiền lương, tiền

công tháng vào quỹ BHXH. Mức đóng đó là mức bắt buộc chung cho tất cả
NLĐ và NSDLĐ. NLĐ và NSDLĐ cần phải đóng đủ mức mà pháp luật quy
định, nếu như họ không đóng, đóng không đủ mức thì hành vi của họ được coi
2 Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội, Pháp luật về bảo hiểm xã hội của một số nước trên thế giới,
Nxb. Tư pháp, Hà Nội 2005, tr. 287

21


là hành vi vi phạm pháp luật về đóng BHXH. Thông thường, khi tính lương
tháng cho NLĐ, NSDLĐ đều trích lại mức đóng BHXH của NLĐ theo quy
định của pháp luật và đóng vào quỹ BHXH. Như vậy, ta dễ dàng nhận thấy,
việc tuân thủ nghĩa vụ đóng BHXH của NLĐ hầu như phụ thuộc hoàn toàn
vào đơn vị sử dụng lao động, nghĩa là nếu đơn vị có ý thức thực hiện theo
đúng quy định của pháp luật thì nghĩa vụ và quyền lợi về BHXH của NLĐ
được đảm bảo, ngược lại tình hình sẽ khác đi, lúc này không những quỹ
BHXH thất thu mà quyền lợi về BHXH của NLĐ cũng không được đảm bảo.
Tùy thuộc vào từng điều kiện, kinh tế, xã hội của từng quốc gia mà
mức đóng vào quỹ BHXH sẽ là khác nhau. Ở Đức, phí bảo hiểm của NLĐ và
NSDLĐ là bằng nhau, hiện tổng phí đóng của cả NSDLĐ và NLĐ trong
khoảng 11% đến 14%, trung bình khoảng 13,2% thu nhập thô của NLĐ. 3
Ở Canada, quỹ bảo hiểm việc làm được hình thành từ sự đóng góp của
NLĐ và NSDLĐ. Tỷ lệ đóng góp của năm 2003 là 2,10% lương được đảm
bảo đối với NLĐ, đến mức tối đa của lương là 39.000 đô la (phần vượt quá
không phải đóng). NSDLĐ đóng gập 1,4 lần NLĐ4. Mức đóng trên là mức
đóng bắt buộc cho các chủ thể tham gia BHXH ở Đức và Canada. Và việc
đóng không đủ mức theo quy định sẽ là một hành vi đóng không đủ mức
BHXH.
Bốn là, đóng không đủ số người thuộc diện tham gia BHXH. Đây được
coi là hành vi cố ý không thực hiện nghĩa vụ đóng BHXH của chủ sử dụng lao

động. Theo quy định của pháp luật thì NSDLĐ phải đóng BHXH cho diện
những người lao động bắt buộc phải tham gia BHXH. Tuy nhiên, trên thực tế,
vì một số lý do nào đó nhằm trục lợi quỹ BHXH, NSDLĐ chỉ tham gia BHXH
cho một phần NLĐ làm việc trong đơn vị; còn đối với những NLĐ còn lại thì
chủ sử dụng lao động lại không tham gia BHXH cho họ mặc dù những NLĐ
này thuộc diện bắt buộc phải tham gia BHXH.

3 Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội (2005), Pháp luật Bảo hiểm xã hội của một số nước trên thế
giới, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr.329.
4 Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội (2005), Pháp luật Bảo hiểm xã hội của một số nước trên thế
giới, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 73

22


Ví dụ như ở Canada, đối tượng đóng bảo hiểm việc làm là NLĐ được
trả lương, không giới hạn tuổi; từ đồng đô la đầu tiên kiếm được và giờ đầu
tiên làm việc đều phải đóng BHXH việc làm5. Có thể thấy, nhóm đối tượng
đóng bảo hiểm việc làm ở Canada khá rộng mở, chỉ cần là người lao động làm
việc trong khoảng một giờ đều được tham gia BHXH mà không bị giới hạn
bởi hợp đồng lao động hay thời hạn lao động. Tất cả NSDLĐ ở Canada đều
phải tham gia BHXH cho NLĐ của mình mà không phân biệt tuổi tác, thời
hạn lao động hay loại hợp đồng lao động. Đây được coi như là quy định bắt
buộc của pháp luật BHXH Canada buộc các chủ thể phải tuân thủ.
Có thể thấy rằng, trong nền kinh tế hàng hóa, trách nhiệm tham gia đóng
góp vào quỹ BHXH được phân định cho cả NSDLĐ và NLĐ trên cơ sở quan
hệ lao động. Điều này không chỉ là sự phân chia rủi ro mà còn là để đảm bảo
lợi ích giữa hai bên. Về phía NSDLĐ, sự đóng góp một phần BHXH cho NLĐ
sẽ tránh được những thiệt hại kinh tế khi chẳng may có rủi ro xảy ra với NLĐ
do họ quản lý. Còn đối với NLĐ, sự đóng góp một phần vào quỹ BHXH vừa

thể hiện được trách nhiệm của họ khi trực tiếp gánh chịu rủi ro của chính
mình, vừa có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ.
Thứ hai, các hành vi vi phạm về hưởng bảo hiểm xã hội
Nhóm hành vi vi phạm này bao gồm các dạng hành vi sau:
Một là, cố tình gây khó khăn hoặc cản trở việc hưởng các chế độ hưởng
bảo hiểm của NLĐ. Dạng hành vi này xuất hiện chủ yếu do vi phạm của
NSDLĐ và cơ quan BHXH: NSDLĐ không cung cấp hoặc cung cấp không
đầy đủ tài liệu, thông tin về BHXH theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền; hành vi gây phiền hà, trở ngại làm thiệt hại đến quyền, lợi ích
hợp pháp của NLĐ, NSDLĐ….
Hai là, không cấp sổ bảo hiểm cho NLĐ theo quy định; làm mất mát,
hư hỏng hoặc sửa chữa, tẩy xóa sổ BHXH.

5 Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội (2005), Pháp luật Bảo hiểm xã hội của một số nước trên thế
giới, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr73

23


Ba là, các hành vi vi phạm về lập hồ sơ để được hưởng chế độ BHXH:
hành vi gian lận BHXH, hành vi giả mạo hồ sơ BHXH để hưởng chế độ
BHXH; hành vi tổ chức gian lận BHXH; hành vi tạo điều kiện cho người khác
gian lận BHXH. Cụ thể bao gồm các hành vi sau:
-

Kê khai không đúng sự thật hoặc sửa chữa, tẩy xóa làm sai lệch những

nội dung có liên quan đến việc hưởng BHXH;
-


Hành vi giả mạo hồ sơ hưởng BHXH;

-

Cấp giấy chứng nhận sai quy định để làm cơ sở hưởng BHXH;

-

Không lập hồ sơ hoặc văn bản đề nghị cơ quan BHXH giải quyết chế

độ hưu trí, giải quyết chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo đúng
quy định của pháp luật.
Bốn là, các hành vi vi phạm về chi trả các chế độ BHXH: không trả chế
độ ốm đau, thai sản, trợ cấp dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau ốm đau, thai
sản trong thời hạn nhất định sau khi nhận đủ giấy tờ hợp lệ của NLĐ; không
trả chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong một thời hạn nhất định sau
khi nhận được quyết định chi trả của cơ quan BHXH; không giới thiệu NLĐ
đi giám định suy giảm khả năng lao động tại Hội đồng giám định y khoa để
giải quyết chế độ BHXH cho NLĐ…
Thứ ba, các hành vi vi phạm pháp luật về quản lý và sử dụng quỹ bảo
hiểm xã hội
Nhóm hành vi này bao gồm các dạng hành vi sau: sử dụng tiền đóng và
quỹ BHXH trái quy định của pháp luật; báo cáo sai sự thật, cung cấp sai lệch
thông tin, số liệu tiền đóng vào quỹ BHXH; truy cập, khai thác trái pháp luật
cơ sở dữ liệu về quỹ BHXH; sử dụng tiền quỹ BHXH sai mục đích… Việc vi
phạm những quy định này không những làm ảnh hưởng, gây thất thoát quỹ
BHXH mà còn ảnh hưởng đến NLĐ, làm giảm niềm tin của NLĐ vào việc
thực thi chính sách BHXH của Nhà nước.
Ở Trung Quốc, nhóm các hành vi sau được coi là hành vi vi phạm về
quản lý và sử dụng quỹ BHXH (BHXH của tỉnh Quảng Đông, mục II, phần 6

– Xử lý vi phạm):
24


-

Đơn vị báo cáo sai, hoặc che đậy báo cáo về số công nhân viên, tổng

mức lương, trốn hoặc lập nộp phí bảo hiểm;
-

Chiếm dụng quỹ bảo hiểm thất nghiệp;

-

Chiếm dụng các chi phí thúc đẩy tái công ăn việc làm;

-

Vi phạm các quy định quản lý, sử dụng phí thúc đẩy tái công ăn việc

làm, gây lên những tổn thất;
-

Từ chối đóng nộp tiền điều chỉnh bảo hiểm thất nghiệp;

-

Tùy ý nâng tỷ lệ rút tiền của phí quản lý bảo hiểm thất nghiệp và thúc


đẩy tái công ăn việc làm….
-

Những vi phạm pháp luật có liên quan khác.6

1.2.2. Quy định về xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội
Quy định về hình thức xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội.
Thứ nhất, hình thức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
BHXH. Hình thức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH được áp
dụng đối với NSDLĐ, NLĐ, tổ chức BHXH và cơ quan tổ chức khác vi phạm
hành chính trong lĩnh vực BHXH theo quy định của luật BHXH. Đây là các
hình thức áp dụng, trước hết là nhằm trừng phạt người vi phạm, thông qua đó
giáo dục mọi người ý thức tuân thủ pháp luật, tôn trọng các quy tắc của đời
sống cộng đồng, phòng ngừa các vi phạm pháp luật có thể xảy ra.
Các hình thức xử phạt hành chính bao gồm:
-

Cảnh cáo: đây là hình thức xử phạt được áp dụng đối với những vi

phạm hành chính nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ mà chưa gây thiệt hại vật
chất do không hiểu biết hoặc không do tác động của nguyên nhân khách quan.
Hình thức xử phạt này thể hiện sự đánh giá của nhà nước đối với hành vi vi
phạm do người thực hiện gây ra. Cảnh cáo mang tính cưỡng chế Nhà nước,
mặc dù nó là một trong những hình thức xử phạt hành chính nhưng mang nặng
ý nghĩa giáo dục.
-

Phạt tiền: Phạt tiền được áp dụng phổ biến đối với nhiều hành vi vi

phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH. Phạt tiền tác động đến vật chất của

6 Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội, Pháp luật về bảo hiểm xã hội của một số nước trên thế giới,
Nxb. Tư pháp, Hà Nội 2005, tr. 214

25


×