Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Tài liệu Luận văn tốt nghiệp “Xây dựng các mặt hàng xuát khẩu chủ lực của Việt Nam: thực trạng và giải pháp phát triển.” docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (818.88 KB, 85 trang )

…………..o0o…………..

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

Xây dựng các mặt hàng xuát khẩu
chủ lực của Việt Nam: thực trạng và
giải pháp phát triển.


Khố luận tốt nghiệp

Nghiêm Thị Thu Hà

LỜI MỞ ĐẦU
Trong cơng cuộc xây dựng và phát triển kinh tế hiện nay, Việt Nam đang
thực hiện chiến lược cơng nghiệp hố hướng về xuất khẩu. Nhà nước đã chủ
trương đẩy mạnh xuất khẩu coi xuất khẩu là tiền đề để công nghiệp hốhiện đại hố đất nước, là mũi nhọn có ý nghĩa quyết định đối với việc thực
hiện các mục tiêu kinh tế của nước ta. Trong đó, việc đẩy mạnh xuất khẩu
các mặt hàng chủ lực của Việt Nam là một phần quan trọng của chiến lược
này bởi ý nghĩa và vai trị quyết định của nó đối với việc tăng hoặc giảm
tổng kim ngạch xuất khẩu nói riêng và nguồn thu ngân sách nói chung. Do
vậy, việc xây dựng một cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chủ lực hợp lý, phù hợp
với khả năng và tình hình sản xuất, phát triển của nền kinh tế nước ta nhằm
phát huy tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nước và nước
ngoài đã đang và sẽ là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu của Nhà nước và các
doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu.
Từ năm 1991 đến nay, việc “ xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực”
của Việt nam đã đạt được một số thành tựu bước đầu. Chúng ta đã có một số
mặt hàng xuất khẩu giữ vai trò quan trọng trên thị trường thế giới như gạo,
cà phê, hạt tiêu... với kim ngạch hàng trăm triệu USD.
Mặc dù cơ cấu hàng xuất khẩu có những chuyển biến tích cực nhưng vẫn


cịn nhiều hạn chế và mất cân đối, tỷ trọng các mặt hàng thơ hoặc sơ chế vẫn
cịn cao, tổ chức và cơ chế quản lý hoạt động xuất khẩu còn lỏng lẻo.
Trước tình hình đó, để đạt được mục tiêu tăng trưởng, xuất khẩu với tốc
độ nhanh, tạo điều kiện cho hàng hoá nước ta xâm nhập và chiếm lĩnh thị
trường khu vực và thế giới càng nhiều, ổn định và vững chắc, đặc biệt là các
mặt hàng xuất khẩu chủ lực, chúng ta phải nhanh chóng nhìn nhận, phân tích
và đánh giá thực trạng hoạt động xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực
nhằm đưa ra những giải pháp khắc phục kịp thời những tồn tại đó.

1


Khố luận tốt nghiệp

Nghiêm Thị Thu Hà

Để góp phần đánh giá một cách đúng đắn, khách quan và đưa ra một số
giải pháp chủ yếu để hoạt động xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực
của Việt nam đạt hiệu quả cao, em đã chọn đề tài: “Xây dựng các mặt hàng
xuát khẩu chủ lực của Việt Nam: thực trạng và giải pháp phát triển.” là đề
tài cho khoá luận tốt nghiệp của mình.
Trong bài viết, em xin trình bày các nội dung:
• Chương I: Sự cần thiết phải xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ
lực của Việt Nam.
• Chương II: Thực trạng xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực
của Việt Nam.


Chương III: Các giải pháp xây dựng, đẩy mạnh sản xuất và xuất


khẩu các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu và trình bày, do kiến thức hiểu biết cịn hạn
chế nên bài viết khơng tránh khỏi những sai sót, khiếm khuyết. Rất mong
nhận được sự đóng góp của các thầy cô và các bạn để đề tài được hồn
chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn cơ giáo Nguyễn Hồng Ánh đã tận tình hướng
dẫn và truyền đạt cho em những kiến thức quý báu để em hoàn thành khoá
luận này.
Hà nội, tháng 5 năm 2003
Sinh viên Nghiêm Thị Thu Hà

CHƯƠNG 1

2


Khoá luận tốt nghiệp

Nghiêm Thị Thu Hà

SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÂY DỰNG CÁC MẶT HÀNG
XUẤT KHẨU CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÁC MẶT HÀNG XUẤT KHẨU CHỦ
LỰC CỦA VIỆT NAM
1. Một số quan điểm về mặt hàng xuất khẩu chủ lực
Cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa nào thống nhất ở phạm vi
quốc tế. Tuy nhiên, trong quản lý hàng hoá xuất khẩu, mỗi quốc gia thường
chia hàng xuất khẩu làm 3 loại: Hàng chủ lực, hàng quan trọng và hàng thứ
yếu.
Nhìn chung, người ta hiểu rằng hàng chủ lực là loại hàng chiếm tỷ

trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu quốc gia do có thị trường nước ngồi
và điều kiện sản xuất trong nước thuận lợi, đạt hiệu quả cao. Hàng quan
trọng là hàng không chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu, nhưng
đối với từng thị trường, từng địa phương lại có vị trí quan trọng. Hàng thứ
yếu là hàng xuất khẩu mà kim ngạch của chúng thường nhỏ(1).
Sự phân loại này dựa trên tiêu chí tỷ trọng giá trị xuất khẩu của mặt
hàng trong tổng kim ngạch xuất khẩu, nhưng tỷ trọng này cụ thể là bao
nhiêu để coi một mặt hàng là mặt hàng xuất khẩu chủ lực lại không được
thống nhất giữa các quốc gia. Tuỳ từng quốc gia và ở những giai đoạn khác
nhau, tỷ trọng này được đưa ra khác nhau. Một số nhà nghiên cứu từng cho
rằng tỷ trọng của mặt hàng được coi là mặt hàng xuất khẩu chủ lực khi nó
chiếm ít nhất 25% kim ngạch xuất khẩu của quốc gia. Ở Việt Nam, đầu thập
kỷ 90, người ta đã cho rằng việc xác định này không dựa theo tỷ trọng mà
lại căn cứ vào giá trị tuyệt đối và một mặt hàng ít ra là phải đạt 100 triệu
USD mới trở thành một mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Còn theo các chuyên
gia kinh tế tại Viện Quản lý xuất khẩu công nghệ, Trường đại học Berkeley(1)

Giáo trình Kinh tế Ngoại thương - GS.TS. Bùi Xuân Lưu (trang 232).

3


Khố luận tốt nghiệp

Nghiêm Thị Thu Hà

Mỹ, thì khơng thể đưa ra một tỷ trọng cụ thể trong khái niệm hàng xuất khẩu
chủ lực, mà việc nhìn nhận một mặt hàng xuất khẩu chủ lực căn cứ vào
lượng USD lớn (“Large USD volume”) trong tổng kim ngạch xuất khẩu.
Như vậy có nghĩa là khơng có một cách nhìn hồn tồn giống nhau về

tỷ trọng giá trị xuất khẩu của một mặt hàng chủ lực trong tổng kim ngạch
xuất khẩu ở tất cả các quốc gia, song nhìn chung có thể nhận thấy rằng một
mặt hàng xuất khẩu chủ lực cần phải có 3 yếu tố cơ bản sau:
- Có thị trường ổn định, luôn cạnh tranh được trên thị trường đó trong
một thời gian tương đối dài.
- Có nguồn lực để tổ chức sản xuất và sản xuất với chi phí thấp để thu
được lợi trong bn bán.
- Có lượng kim ngạch lớn và mang tính chất quyết định đối với tổng kim
ngạch xuất khẩu của quốc gia.(2)
Yếu tố thứ ba là một yếu tố quan trọng, nó là một cơ sở để dễ dàng nhận
biết mặt hàng xuất khẩu chủ lực và để phân biệt nó với những mặt hàng
khơng chủ lực.
Tuy nhiên, vị trí của mặt hàng chủ lực không phải là vĩnh viễn. Một mặt
hàng ở thời điểm này có thể được coi là hàng xuất khẩu chủ lực, nhưng ở
thời điểm khác thì khơng.
2. Ý nghĩa và tính cấp thiết của việc xây dựng mặt hàng xuất khẩu chủ
lực trong nền kinh tế quốc dân
2.1. Làm tăng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, góp phần làm tăng
ngân sách
Song song với sự ra đời và phát triển của kinh tế đối ngoại, xuất khẩu đã
luôn được thừa nhận là hoạt động rất cơ bản và hết sức quan trọng, là
phương tiện thúc đẩy nền kinh tế quốc gia phát triển nói chung, phương tiện
chính để tăng thu nhập ngoại tệ cho tài chính và nhu cầu nhập khẩu hàng hố
(2) Giáo trình kinh tế ngoại thương trang 233).

4


Khoá luận tốt nghiệp


Nghiêm Thị Thu Hà

thiết bị phục vụ sản xuất tiêu dùng nói riêng, góp phần thanh tốn dần nợ nước
ngồi.
Như trên đã nói, mặt hàng xuất khẩu chủ lực là mặt hàng có kim ngạch
xuất khẩu mang tính chất quyết định đối với kim ngạch xuất khẩu. Thông
thường, mặt hàng xuất khẩu chủ lực chiếm 5- 10% tổng kim ngạch xuất
khẩu quốc gia, có mặt hàng thậm chí chiếm hơn 20% tổng kim ngạch xuất
khẩu, ví dụ như kim ngạch xuất khẩu dầu thô Việt Nam năm 2000 chiếm tới
23% (=3,3 tỷ USD/14,308 tỷ USD) tổng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam. Có
thể thấy, kim ngạch các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của một quốc gia chiếm
tỷ trọng rất lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của quốc gia đó. Ví dụ như
kim ngạch xuất khẩu của 9 mặt hàng chủ lực của Đài Loan chiếm tới 67,8%
tổng kim ngạch xuất khẩu vào năm 1990(3). Giá trị xuất khẩu của các mặt
hàng xuất khẩu chủ lực tăng mạnh sẽ là một nguồn quan trọng làm tăng tổng
kim ngạch xuất khẩu của quốc gia. Do vậy, nếu nước nào có được một cơ
cấu các mặt hàng xuất khẩu chủ lực phù hợp nhất với năng lực sản xuất và
xu thế phát triển kinh tế trong từng giai đoạn thì hoạt động xuất khẩu của
nước đó sẽ đạt hiệu quả kinh tế cao nghĩa là thu được nhiều ngoại tệ, tăng
nhanh kim ngạch xuất khẩu và từ đó dẫn tới góp phần làm tăng ngân sách.
Bên cạnh đó, việc kim ngạch xuất khẩu tăng cũng tạo điều kiện cải thiện
đáng kể cán cân thương mại.
2.2. Mở rộng quy mô sản xuất trong nước, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng CNH- HĐH
Việc xác định rõ được cơ cấu, số lượng và danh sách cụ thể các mặt hàng
xuất khẩu chủ lực sẽ giúp cho các nhà hoạch định chính sách đề ra những
chiến lược phát triển kinh tế phù hợp với tình hình hiện tại như quy hoạch,
mở rộng quy mô các vùng sản xuất nhằm phát huy tối đa hiệu quả sử dụng

(3)


"Đài Loan- nền kinh tế siêu tốc và bức tranh cho thế kỷ sau”- NXB chính trị quốc gia, Hà Nội 1997.

5


Khoá luận tốt nghiệp

Nghiêm Thị Thu Hà

các nguồn lực trong việc sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng này bởi mỗi
mặt hàng xuất khẩu chủ lực thường có khối lượng xuất khẩu và kim ngạch
lớn.
Từ đó, cơ cấu kinh tế cũng chuyển dịch theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu
và để phục vụ đắc lực cho hoạt động xuất khẩu thì nền sản xuất càng phải đi
vào cơng nghiệp hố- hiện đại hố.
Ngày nay, có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với cơ cấu
kinh tế của một quốc gia:
Thứ nhất: Xuất khẩu chỉ là hoạt động tiêu thụ sản phẩm thừa do sản
xuất vượt quá nhu cầu nội địa. Trường hợp này đối với Việt Nam, do nền
kinh tế lạc hậu chậm phát triển, cung còn nhỏ hơn cầu. Nếu chỉ chờ ở sự
“thừa ra ” của sản xuất thì xuất khẩu vẫn cịn rất nhỏ bé và tác động của
xuất khẩu vào việc thay đổi cơ cấu sản xuất là hầu như khơng có.
Thứ hai: Coi thị trường và đặc biệt thị trường thế giới là hướng quan
trọng để tổ chức sản xuất (quan điểm đó xuất phát từ nhu cầu của thị trường
thế giới để tổ chức sản xuất) hay nói cách khác, đất nước sẽ hình thành
những ngành kinh tế hướng về xuất khẩu. Những ngành kinh tế đó phải có
kỹ thuật và cơng nghệ tiên tiến để hàng hố khi tham gia vào thị trường thế
giới có đủ sức cạnh tranh và mang lại lợi ích cho quốc gia.(4)
Theo quan điểm này, đây chính là giải pháp làm chuyển dịch cơ cấu

kinh tế một cách mạnh mẽ theo chiều hướng có lợi hơn, có hiệu quả kinh tế
cao hơn. Chính phủ Việt Nam nhìn nhận vấn đề này theo cách thứ hai.
Xây dựng mặt hàng xuất khẩu chủ lực trước hết chính là việc lựa chọn
sản phẩm xuất khẩu quốc gia, mà việc lựa chọn này dựa trên hai cơ sở:
- Cầu về sản phẩm trên thị trường quốc tế;
- Lợi thế cạnh tranh có thể tạo ra được trong điều kiện nguồn lực quốc
gia trong từng giai đoạn phát triển.
(4)

Giáo trình kinh tế ngoại thương, trang 223.

6


Khoá luận tốt nghiệp

Nghiêm Thị Thu Hà

Cơ sở lựa chọn thứ nhất này nói khác đi chính là quan điểm thứ hai trình
bày ở trên.
Vì vậy, xây dựng mặt hàng xuất khẩu chủ lực góp phần làm chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng có lợi hơn, quy mơ sản xuất hiệu quả hơn. Bên
cạnh đó, yếu tố lợi thế cạnh tranh của một quốc gia không chỉ dựa vào
nguồn lực quốc gia có sẵn mà phải tạo ra các lợi thế, tất nhiên phải định
hướng và đầu tư dài hạn. Đặc biệt, lợi thế cạnh tranh của bất kỳ quốc gia
nào cũng ln trong q trình biến động và phát triển. Vì vậy, cơ cấu xuất
khẩu theo mặt hàng cũng phải thay đổi. Tính quy luật của sự thay đổi cơ cấu
sản phẩm xuất khẩu chủ lực là chuyển dần từ sản phẩm sử dụng nhiều lao
động rẻ không cần tay nghề cao như sản phẩm dệt, may, giầy da... sang các
sản phẩm xuất khẩu sử dụng nhiều lao động có tay nghề chun mơn giỏi

như ngành hố chất, sắt thép, điện tử, ô tô... , cuối cùng là chuyển sang sản
phẩm có hàm lượng vốn và cơng nghệ cao như cơ khí chính xác, tự động
hố, thiết bị viễn thơng, tin học, hàng điện tử nghe nhìn cao cấp... Chính quy
luật của sự thay đổi cơ cấu sản phẩm xuất khẩu chủ lực này là yếu tố quan
trọng kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH.
Có thể nói, đây là một vai trị có ý nghĩa hết sức lớn lao của việc xây
dựng mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Vai trò này mặc dù khơng thể lượng hố
được thành tiền song sự tác động của nó đối với một nền kinh tế quốc dân,
đặc biệt kinh tế của các nước đang phát triển đang trong q trình CNHHĐH như Việt Nam là vơ cùng to lớn.
2.3. Tạo cơ sở vật chất để mở rộng và thúc đẩy hoạt động kinh tế đối
ngoại
Bàn về khái niệm quan hệ kinh tế đối ngoại, có nhiều quan điểm khác
nhau, song tốt lên một ý chính là “Quan hệ kinh tế đối ngoại là tổng thể
các mối quan hệ thương mại- kinh tế và khoa học kỹ thuật... giữa một quốc
gia này với quốc gia khác”.

7


Khoá luận tốt nghiệp

Nghiêm Thị Thu Hà

Quan hệ kinh tế đối ngoại bao gồm các hình thức sau:
- Xuất nhập khẩu hàng hố hữu hình.
- Đầu tư quốc tế
- Du lịch- dịch vụ (vận tải đường biển, hàng không, bộ, bảo hiểm...)
- Xuất khẩu sức lao động.
- Hợp tác khoa học kỹ thuật - hợp tác sản xuất - hợp tác tài chính...(5)
Các hình thức này có mối quan hệ hữu cơ với nhau trong hoạt động kinh

tế đối ngoại. Ví dụ như, khi xuất khẩu phát triển sẽ có ảnh hưởng tới sự phát
triển của nền kinh tế quốc dân, GDP tăng, sản xuất mở rộng, thu nhập bình
quân đầu người tăng... tạo nên môi trường đầu tư thuận lợi, hấp dẫn, do đó
kéo theo sự phát triển của hoạt động đầu tư nước ngoài. Xuất khẩu các mặt
hàng chủ lực là một bộ phận lớn cấu thành trong hoạt động xuất khẩu nói
chung, cho nên nó cũng thực hiện chức năng quan trọng đó.
Thêm nữa, việc phát triển một ngành hàng xuất khẩu chủ lực thường đi
liền với việc lên kế hoạch, định hướng có quy mơ và nhiều triển vọng chứng
tỏ đó là một ngành hàng có sức cạnh tranh cao, điều này sẽ thu hút các nhà
đầu tư nước ngoài đầu tư vào.
2.4. Tạo điều kiện giữ vững, ổn định thị trường xuất khẩu và nhập khẩu
Với nhận thức rằng mặt hàng xuất khẩu chủ lực là con chủ bài trong nền
ngoại thương quốc gia, là mặt hàng có giá trị xuất khẩu mang tính chất
quyết định đối với tổng kim ngạch xuất khẩu, nên các quốc gia thường đưa
ra những chiến lược, định hướng sản xuất và xuất khẩu, đầu tư khoa học kỹ
thuật... để phát triển ngành hàng trong nước, nâng cao chất lượng, mẫu mã,
chủng loại mặt hàng, nhờ thế mà mặt hàng xuất khẩu chủ lực của một quốc
gia có thể thâm nhập và khẳng định vị trí của mình tại thị trường nước
ngồi, hay nói khác đi nó góp phần giữ vững thị trường xuất khẩu.
Một hệ quả tích cực của tác dụng này là sự củng cố vị trí của mặt hàng
xuất khẩu ở thị trường nước ngoài sẽ tạo nên một uy tín quốc gia trên thị
(5)

Tạp chí Cộng sản số 14 (7/2001), trang 25.

8


Khố luận tốt nghiệp


Nghiêm Thị Thu Hà

trường đó, do đó kéo theo sự xuất khẩu của các mặt hàng khác sang thị
trường nước ngồi đó. Như vậy, việc xuất khẩu các mặt hàng chủ lực không
chỉ giữ vững thị trường cho mặt hàng đó mà cịn góp phần mở rộng thị
trường xuất khẩu.
2.5. Thúc đẩy phân công lao động trong nước, mở rộng và làm phong
phú thị trường nội địa
Xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực tốt sẽ phát triển mạnh hoạt
động xuất khẩu dẫn đến tạo công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao
mức sống của người dân từ đó góp phần thúc đẩy quá trình phân cơng lao
động trong nước theo hướng cơng nghiệp hoá là định hướng phát triển kinh
tế của Đảng và Nhà nước ta, nhất là đối với một nước có tỷ lệ dân số sản
xuất nông nghiệp cao như Việt Nam. Mức sống của người dân được cải
thiện sẽ làm cho hoạt động thương mại trong nước sôi động hơn và làm
phong phú thị trường nội địa hơn.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, một số quốc gia có lượng nhập khẩu
lớn, có tiềm lực kinh tế mạnh đã lợi dụng những ý nghĩa tích cực của mặt
hàng xuất khẩu chủ lực để gây áp lực về kinh tế đối với các nước xuất khẩu
như bắt phải mở rộng thị trường cho một số loại hàng hố của nước mình
sang thị trường của nước xuất khẩu với một một mức thuế suất ưu đãi, trừng
phạt kinh tế...đặc biệt là đối với các nước đang và kém phát triển, từ đó gây
áp lực về mặt chính trị. Ví dụ cụ thể là các cuộc chiến tranh kinh tế về chuối,
cacao giữa một số nước Châu Phi, Nam Mỹ và Hoa Kỳ, chiến tranh về thép
giữa Nga và Mỹ...
Tóm lại, mặt hàng xuất khẩu chủ lực có ý nghĩa vơ cùng to lớn đối với
hoạt động xuất khẩu nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung. Trong
điều kiện hiện nay, việc xây dựng mặt hàng xuất khẩu chủ lực là mang tính
tất yếu đối với các quốc gia đang phát triển theo chiến lược hướng về xuất
khẩu.


9


Khoá luận tốt nghiệp

Nghiêm Thị Thu Hà

3. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam hiện nay
Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ bn bán với 160 nước và vùng lãnh
thổ, có hiệp định thương mại với trên 70 nước mà gần đây nhất là việc ký
hiệp định thương mại với Hoa Kỳ. Riêng trong lĩnh vực xuất khẩu chúng ta
đã có những mặt hàng xuất khẩu chủ lực, kim ngạch xuất khẩu ngày càng
tăng. Trong 10 năm qua, kim ngạch xuất khẩu tăng 5,6 lần, từ 2,4 tỷ USD
năm 1990 lên 14,308 tỷ USD năm 2000, bình quân hàng năm tăng 18,4%.
Cơ cấu hàng xuất khẩu cũng có nhiều chuyển biến tích cực theo hướng tăng
dần tỷ trọng hàng đã qua chế biến. Nếu như hàng ngun liệu thơ năm 1991
chiếm trên 92% thì nay chỉ còn chiếm khoảng 60% kim ngạch xuất khẩu.
Hàng chế biến ( trong đó có hàng chế tạo) năm 1991 chiếm khoảng 8%,
năm 1999 tăng lên khoảng 40%; nhóm hàng nơng -lâm - thuỷ hải sản năm
1991 chiếm 53% đến nay xuống cịn 36,5%; nhóm hàng tiểu thủ cơng
nghiệp năm 1991 chiếm 47% đã tăng lên 63,5% trong tổng kim ngạch xuất
khẩu năm 2002.
Bảng 1:Danh sách các mặt hàng xuất khẩu chủ lực Việt Nam
Số

Mặt hàng

TT


19911992

1993

19941995

1996

1997-

1999

1998

đến nay

1

Gạo

X

X

X

X

X


X

2

Dầu thô

X

X

X

X

X

X

3

Thuỷ sản

X

X

X

X


X

X

4

Dệt may

X

X

X

X

X

X

5

Cà phê

X

X

X


X

X

6

Giày dép

X

X

X

X

7

Cao su

X

X

X

X

8


Than đá

X

X

X

9

Điện- điện tử

X

X

10


Khố luận tốt nghiệp

Nghiêm Thị Thu Hà

10

Hạt điều

X

11


Hạt tiêu

X

12

Thủ cơng mỹ nghệ

X

13

Rau quả

X
Nguồn : Báo cáo của Bộ thương mại 2002

Và điều có ý nghĩa hơn cả là danh sách các mặt hàng xuất khẩu chủ lực
của Việt Nam đang được mở rộng và thực sự đóng vai trị ngày càng quan
trọng hơn trong nền kinh tế quốc dân. Từ chỗ chỉ có 4 mặt hàng xuất khẩu
chủ lực (dầu thơ, thuỷ sản, gạo, dệt may) có kim ngạch xuất khẩu trên 100
triệu USD năm 1991-1992, năm 1993 đã có 5 mặt hàng xuất khẩu chủ lực
(thêm cà phê), năm 1994-1995 có 7 mặt hàng ( thêm giày dép và cao su),
năm 1996 có 8 (thêm than đá), năm 1997-1998 có 10 mặt hàng ( thêm đồ
điện tử và hạt điều) và từ năm 1999 đến nay danh sách các mặt hàng xuất
khẩu chủ lực Việt Nam đã mở rộng thành 13 mặt hàng ( thêm hạt tiêu, ,
hàng thủ công mỹ nghệ và rau quả).
II. MỘT SỐ TỒN TẠI TRONG XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG CHỦ
LỰC CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

Công cuộc đổi mới quản lý kinh tế ở nước ta trong vòng 15 năm qua đã
giành được nhiều thắng lợi có tính chiến lược, tạo tiền đề và điều kiện để
nước ta hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Là một bộ phận cấu
thành của nền kinh tế đất nước, hoạt động xuất khẩu đã góp phần xứng
đáng vào những thành tựu to lớn, rất quan trọng mà toàn Đảng, toàn dân đã
giành được trong thời kỳ đổi mới nói chung và trong hơn mười năm qua nói
riêng.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó hoạt động xuất khẩu hàng hố
nói chung và đặc biệt là xuất khẩu mặt hàng chủ lực vẫn còn bị hạn chế do
những tồn tại sau:
1. Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp còn kém

11


Khoá luận tốt nghiệp

Nghiêm Thị Thu Hà

1.1. Năng lực cạnh tranh khơng ổn định
Năng lực cạnh tranh nói chung được thể hiện trên 3 cấp độ: quốc gia,
doanh nghiệp và sản phẩm. Một quốc gia đạt được lợi thế cạnh tranh nếu
những doanh nghiệp của nước đó xây dựng được năng lực cạnh tranh. Vì
chính doanh nghiệp chứ khơng phải quốc gia cạnh tranh vào thị trường quốc
tế. Doanh nghiệp sẽ có được năng lực cạnh tranh thơng qua hoạt động đổi
mới sáng tạo. Điều kiện để doanh nghiệp xây dựng được năng lực cạnh
tranh và thành công trên thị trường thế giới tập trung vào 4 yếu tố chính: yếu
tố sản xuất (vị thế của quốc gia trong lĩnh vực sản xuất như lao động có tay
nghề và cơ sở hạ tầng), nhu cầu thị trường (những khách hàng tinh tế và khó
tính trên thị trường nội địa), liên kết ngành và chiến lược phát triển, cơ cấu

của doanh nghiệp và môi trường cạnh tranh.
Theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới - World Economic Forum
(WEF), thứ hạng năng lực cạnh tranh của Việt Nam trong bảng xếp hạng
qua các năm như sau:
Bảng 2: Xếp hạng năng lực cạnh tranh của Việt Nam từ 1998-2002
STT

Năm xếp hạng

Thứ hạng

Số quốc gia được xếp
hạng

1

1998

39

53

2

1999

48

59


3

2000

53

59

4

2001

62

75

5

2002

60

80

Nguồn : Báo cáo của Ông Đinh Văn Ân, Viện trưởng Viện Quản lý kinh tế
Trung Ương, tại hội nghị triển khai Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị về Hội
nhập kinh tế quốc tế ngày 6-7/5- 2002 tại Hà Nội.

12



Khoá luận tốt nghiệp

Nghiêm Thị Thu Hà

Số liệu thống kê trên cho thấy sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam
cịn thấp, có xu hướng ngày càng sụt giảm.
Trong báo cáo cạnh tranh tồn cầu 2002-2003 được WEF cơng bố đánh
giá khả năng cạnh tranh của 80 nước và lãnh thổ, Việt Nam ở trong nhóm 20
nước đứng cuối với vị trí 60 về khả năng cạnh tranh hiện tại và 65 về khả
năng cạnh tranh trong 5 đến 8 năm sắp tới. Điều này có nghĩa là hàng hố
Việt Nam cạnh tranh trên thị trường thế giới còn rất kém, nhất là những thị
trường khó tính, địi hỏi chất lượng cao.
Vị trí năng lực cạnh tranh của Việt Nam thấp là do hầu hết các chỉ số
thành phần đều thấp. Các chỉ số thấp nhất của Việt nam là 74 (công nghệ
thông tin), 68 (công nghệ và tham nhũng), 67 (chiến lược và hoạt động
doanh nghiệp). Đặc biệt số liệu về chiến lược và hoạt động doanh nghiệp là
chỉ tiêu quan trọng thể hiện sự hoạt động lâu dài của doanh nghiệp. Chiến
lược hoạt động lâu dài của doanh nghiệp thể hiện tầm nhìn chiến lược của
doanh nghiệp. Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam đều chưa có một chiến
lược kinh doanh lâu dài, có tầm nhìn chiến lược mà chủ yếu làm theo cách
“ăn xổi ở thì”.
1.2. Nhận thức hạn chế, thiếu thông tin về thị trường thế giới
Một trong những nguyên nhân khiến năng lực cạnh tranh của Việt Nam
còn thấp là do nhận thức và hiểu biết về sự cần thiết của cạnh tranh trong
nền kinh tế thị trường của các doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế. Đa số
các doanh nghiệp chưa biết các luật lệ cạnh tranh quốc tế, yếu về tiếp cận thị
trường, thiếu thông tin về nhu cầu thị trường, công nghệ sản xuất lạc hậu
dẫn đến năng suất và chất lượng còn thấp.
Trong thời điểm hiện nay, khi mà hội nhập kinh tế khu vực và thế giới là

điều không tránh khỏi của bất kỳ quốc gia nào. Điều này có nghĩa là sự cạnh
tranh trên thị trường quốc tế và thậm chí là ở cả thị trường trong nước ngày
càng trở nên khốc liệt hơn rất nhiều thì cịn nhiều doanh nghiệp vẫn chưa có

13


Khoá luận tốt nghiệp

Nghiêm Thị Thu Hà

tinh thần chuẩn bị cao. Nhiều doanh nghiệp chưa nắm thông tin về hội nhập.
Theo báo cáo của Ban kinh tế Trung ương thì có 16% doanh nghiệp được
hỏi khơng biết thơng tin về hội nhập, 50% doanh nghiệp khơng có thơng tin
về hiệp định thương mại Việt –Mỹ. Những bất cập trên đã hạn chế khơng ít
cơng tác nghiên cứu thị trường, xúc tiến thương mại, tiếp thị... Nhiều doanh
nghiệp còn thụ động trông chờ và thiếu những chiến lược dài hạn và trung hạn
về thị trường, về mặt hàng. Phương thức kinh doanh xuất, nhập khẩu về nhiều
mặt còn lạc hậu so với thế giới, riêng về thương mại điện tử mới đang ở giai
đoạn đầu.
Cụ thể, trong năm 2001 xuất khẩu gạo tăng 64% về lượng nhưng kim
ngạch giảm 8,5%, cà phê xuất khẩu tăng 29% nhưng kim ngạch giảm 20%,
hạt tiêu tăng 62% về lượng, kim ngạch giảm 28%. Một số liệu của trung tâm
kinh tế châu Á- Thái Bình Dương cho thấy, trong gần 1000 doanh nghiệp
dệt may của Việt Nam đang hoạt động, chỉ có khoảng 50 doanh nghiệp (5%)
có khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế.
1.3. Thương hiệu hàng hố cịn thiếu và yếu
Nhiều mặt hàng của Việt Nam có khả năng cạnh tranh như cà phê, trái
cây, gạo chất lượng không thua kém gì so với các sản phẩm cùng loại của
các nước trong khu vực nhưng không cạnh tranh được do chúng ta chưa xây

dựng được thương hiệu riêng cho hàng hố “made in VietNam” hoặc nếu có
thì cũng rất nhỏ bé và cịn bị mất thương hiệu. Điển hình là một số doanh
nghiệp Việt Nam đã phải chịu chi phí khơng nhỏ để sang nước ngồi địi
thương hiệu như Cà phê Trung Nguyên, thuốc lá Vinataba...Thương hiệu
hàng Việt Nam ít được biết đến nên chỉ là hàng cấp hai được một số nước
trung gian nhập khẩu về sau đó họ tái xuất với tên tuổi nhãn mác của họ. Ví
dụ như Singapore nhập hầu hết các loại thuỷ sản Việt Nam, Đài Loan là
nước nhập khẩu chính cá ngừ đại dương của ta để xuất sang Nhật Bản.

14


Khố luận tốt nghiệp

Nghiêm Thị Thu Hà

Điều này cịn có thể thấy qua việc hiện nay Việt Nam là nước xuất
khẩu gạo nhiều thứ hai thế giới nhưng hạt gạo của chúng ta vẫn chưa có một
cái tên gọi chính thức trong khi đó gạo của Thái Lan đã được đăng ký bảo
hộ trên toàn thế giới.
1.4. Hoạt động quảng bá và giới thiệu về sản phẩm chưa đạt hiệu quả
Hoạt động giới thiệu thông tin và quảng bá về sản phẩm của các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu Việt nam cịn yếu và thiếu tính chun nghiệp. Các
doanh nghiệp khơng có hoặc thiếu cán bộ giỏi, có năng lực phân tích và dự
báo tình hình kinh tế, thị trường nhất là tiếp cận thị trường quốc tế để có
được những định hướng và chiến lược kinh doanh phù hợp với từng giai
đoạn và thời kỳ.
Một số doanh nghiệp nếu có mạnh dạn tham gia các triển lãm, hội chợ
quốc tế ở nước ngồi thì chỉ giới thiệu hàng hố của mình một cách âm thầm
tại gian hàng mà chưa biết khuyếch trương mặt hàng và tạo ra sự bất ngờ,

thu hút người tiêu dùng cũng như các nhà nhập khẩu, hãng phân phối lớn
của nước bạn. Các hình thức quảng cáo thì đơn điệu tẻ nhạt và hầu như
khơng mang lại hiệu quả mong muốn.
2. Năng suất, chất lượng hàng xuất khẩu chưa cao và không ổn định
Việt Nam đang hướng nền kinh tế phát triển theo hướng tập trung đẩy
mạnh xuất khẩu song do quy mơ sản xuất cịn nhỏ, manh mún, khơng tập
trung, chưa có sự liên kết chặt chẽ giữa sản xuất và các nhà xuất khẩu nên
năng suất thấp và chất lượng không ổn định ( nhất là hàng nông sản như
gạo, rau quả, cà phê...)
Một trong những yếu điểm của hàng hoá Việt Nam là chất lượng chưa
cao do trình độ cơng nghệ thấp, hình thức mẫu mã và chủng loại chưa phong
phú đa dạng, khơng hấp dẫn người tiêu dùng nước ngồi nhất là đối với
những thị trường khó tính.

15


Khoá luận tốt nghiệp

Nghiêm Thị Thu Hà

Các doanh nghiệp Việt Nam thường chỉ chào bán những gì mình có chứ
khơng đi tìm hiểu xem thị trường cần cái gì và yêu cầu của họ đối với mặt
hàng đó là như thế nào. Trong số các mặt hàng chủ lực của ta, nhóm hàng
nơng lâm thuỷ hải sản chiếm một tỷ lệ khơng nhỏ. Đây là nhóm hàng địi hỏi
phải có sự đầu tư về khoa học công nghệ từ khâu nghiên cứu sản xuất giống,
nuôi trồng cho đến chế biến để nâng cao giá trị hàng hoá. Tuy nhiên, chúng
ta lại chủ yếu là xuất khẩu dưới dạng tươi sống hoặc có qua chế biến nhưng
giá trị chưa cao vì mới chỉ là sơ chế mà thơi.Trong khi đó, Thái Lan là một
nước láng giềng lại có cơng nghệ chế biến nơng sản rất cao. Họ coi trọng

hình thức và mẫu mã của sản phẩm. Hiện nay các mặt hàng rau quả sấy khô
hoặc bảo quản chân không trong túi nhựa PE của Thái Lan tràn ngập thị
trường Châu Âu và cả Châu Á được người tiêu dùng rất ưa chuộng. Gạo của
Thái Lan được đóng trong từng bao với nhiều cỡ trọng lượng khác nhau.
Hạt gạo được đánh bóng rất sạch và đẹp. Cà phê chúng ta xuất khẩu chủ yếu
là loại Robusta trong khi nhu cầu thị trường lại chủ yếu là Arabrica.
Về mặt hàng Thuỷ hải sản, theo đánh giá của FAO, Việt Nam xếp thứ
17 trong số 20 nước có sản lượng khai thác thuỷ sản hàng năm từ 1 triệu tấn
trở lên. Trong giai đoạn từ 1990 đến 1999, mặc dù tổng sản lượng thuỷ sản
(kể cả khai thác và nuôi trồng) chỉ tăng gần gấp đôi ( từ 1.010.800 tấn lên
1.827.300) nhưng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã tăng lên gấp 5 lần
(từ 20 triệu USD lên 97,1 triệu USD), từ 2000 đến 2002 đạt kim ngạch hơn
1 tỷ USD. Hàng thuỷ sản Việt Nam xuất sang các thị trường lớn như EU,
Nhật Bản, Mỹ... Đây là những thị trường có địi hỏi rất khắt khe về yêu cầu
chất lượng và an toàn thực phẩm. Thuỷ sản Việt Nam đang dần lấy lịng tin
của người tiêu dùng nước ngồi, tuy nhiên vẫn cịn tình trạng bị trả lại hàng
do dư lượng thuốc kháng sinh trong các chế phẩm cao hơn mức cho phép.
Đây là lỗi của các nhà chế biến do chưa thông hiểu và thiếu sự nghiêm ngặt

16


Khoá luận tốt nghiệp

Nghiêm Thị Thu Hà

trong khâu kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi xuất, làm các nhà nhập
khẩu không thật sự yên tâm khi nhập hàng thuỷ sản của Việt Nam .
3. Hiệu quả kinh tế thấp
Hàng Việt Nam được xuất khẩu chủ yếu dưới dạng nguyên liệu thô, lại

xuất khẩu qua nhiều khâu trung gian nên nhìn chung giá bán thấp hơn giá
của thị trường quốc tế và khu vực trong khi chi phí cho một đơn vị sản phẩm
cao hơn các nước trong khu vực dẫn đến giá thành cao do đó hiệu quả kinh
tế thấp, lợi nhuận thu được không được như mong muốn.
Thêm vào đó là khâu tổ chức quản lý xuất khẩu khơng tốt dẫn đến tình
trạng tranh bán. Các đối tác nước ngoài lợi dụng điều này để ép giá làm cho
giá bán giảm dẫn đến thiệt cho cả người sản xuất (chủ yếu là người nông
dân) cũng như nhà xuất khẩu. Tình trạng này xảy ra chủ yếu đối với các mặt
hàng nông sản như gạo, cà phê, nhân điều..., một phần là do tính chất thời
vụ của hàng nơng sản, thêm vào đó là do khâu bảo quản của các doanh
nghiệp xuất khẩu còn kém.
4. Thiếu am hiểu về pháp luật và tập quán mua bán quốc tế
Điểm yếu của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam hiện nay là trình độ
chun mơn về kinh doanh xuất nhập khẩu, đặc biệt là sự am hiểu về pháp
luật cũng như tập quán mua bán quốc tế của đội ngũ cán bộ nhân viên
chuyên trách còn rất hạn chế. Thiếu hiểu biết về luật pháp của nước nhập
khẩu cũng như tập quán mua bán quốc tế đã làm giảm số đối tác muốn làm
ăn mua bán với các doanh nghiệp Việt Nam. Hàng năm, nhiều vụ kiện tụng,
tranh chấp quyền lợi trong hợp đồng xuất nhập khẩu xảy ra mà bên thua
thiệt thường là các doanh nghiệp Việt Nam do không nắm chắc các quy định
pháp luật hoặc tạp quán mua bán, thanh toán quốc tế. Đây cũng là điều kiện
thuận lợi cho một số cơng ty nước ngồi lợi dụng thực hiện các vụ lừa đảo
làm thiệt hại to lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam vốn đã hạn chế về khả
năng tài chính và cịn bị mất uy tín kinh doanh trên thị trường quốc tế.
17


Khoá luận tốt nghiệp

Nghiêm Thị Thu Hà


5. Ảnh hưởng của yếu tố khách quan
5.1. Thị trường quốc tế
Bên cạnh những hạn chế trong nội tại nền kinh tế Việt Nam thì yếu tố thị
trường quốc tế cũng ảnh hưởng khơng nhỏ tới khả năng đẩy mạnh xuất khẩu
hàng hoá. Nền kinh tế thế giới hiện nay đang vận động và phát triển khơng
ngừng. Cùng với nó là sự thay đổi các hình thức thương mại từ mua bán trao
đổi hàng hoá theo kiểu truyền thống sang thương mại điện tử (e-commerce)
và rồi đến thương mại kỹ thuật số (d-commerce) cũng đã xuất hiện. Điều này
cũng đồng nghĩa với việc sẽ có nhiều những khó khăn bỡ ngỡ đối với các
quốc gia đang phát triển và mới chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường như
Việt Nam.
Một khó khăn khơng nhỏ đối với Việt Nam là chúng ta có nhiều đối thủ
cạnh tranh nặng ký như Trung Quốc, Thái Lan... trong lĩnh vực sản xuất và
xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp nhẹ vốn là thế mạnh của Việt Nam.
Trung Quốc có lợi thế về giá nhân cơng rẻ, ngun liệu dồi dào và có sự hỗ
trợ rất lớn của Chính phủ trong xuất khẩu. Thái Lan lại là một nước đi trước
trong nền kinh tế thị trường nên họ có kinh nghiệm hơn ta trong việc tổ chức
sản xuất, chế biến cũng như chiến lược phân phối lưu thông hàng hố đi các
thị trường quốc tế.
Khơng chỉ cạnh tranh với các nước láng giềng trong khu vực, hàng hoá
của Việt Nam còn phải chịu sức ép về thuế và cả vấn đề pháp lý cũng như
thương hiệu đối với các sản phẩm cùng loại ở nước nhập khẩu mà vụ án cá
Basa( Catfish) ở Hoa Kỳ là một minh chứng cụ thể nhất.
5.2. Hạn ngạch
Bên cạnh đó, hàng Việt Nam vào các thị trường Châu Âu lại phải chịu
hạn ngạch như dệt may, giày dép, thuỷ sản...và chủ yếu là hàng gia công nên
giá trị thu được thấp, kim ngạch chưa cao, không phát huy hết được công

18



Khoá luận tốt nghiệp

Nghiêm Thị Thu Hà

suất, năng lực sản xuất. Nhiều doanh nghiệp dệt may, da giày chỉ có việc
một thời gian hoặc nửa năm do đã xuất hàng đủ hạn ngạch được giao.
5.3. Tình hình chính trị quốc tế
Tình hình chính trị thế giới hiện nay rất phức tạp. Chiến tranh I-rắc,
khủng bố ở Mỹ và Trung Đông, xung đột sắc tộc ở các nước SNG gây mất ổn
định tình hình kinh tế xã hội ở một số khu vực đã làm giảm nhu cầu tiêu dùng
của người dân dẫn đến giảm kim ngạch xuất nhập khẩu của một số quốc gia
liên quan.
III. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI XUẤT KHẨU MẶT
HÀNG CHỦ LỰC KHI VIỆT NAM HỘI NHẬP KINH TẾ KHU VỰC
VÀ THẾ GIỚI
1. Tính tất yếu của hội nhập kinh tế thế giới
Hội nhập kinh tế khu vực và thế giới hiện nay đã là một xu hướng, một
q trình khơng thể đảo ngược bởi nó là sự phát triển tất yếu của nền kinh tế
thế giới và đối với tất cả các quốc gia, khơng phân biệt trình độ phát triển, vị
thế quốc tế hay lựa chọn chính trị - xã hội của mỗi nước. Dù muốn hay
không, mỗi nước đều phải gia nhập quỹ đạo tồn cầu.
Trên bình diện quốc tế, khoa học và công nghệ ngày càng phát triển
như vũ bão và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, đưa thế giới vào
thời kỳ phát triển mới: thời kỳ kinh tế tri thức và xã hội thông tin. Các ngành
dịch vụ và các ngành kinh tế giàu hàm lượng chất xám phát triển mạnh.
Thương mại quốc tế sẽ được mở rộng.
Xu hướng tồn cầu hố, khu vực hố với những cả những mặt tích cực
và tiêu cực sẽ liên tục diễn biến thông qua sự hợp tác- đấu tranh phức tạp

giữa các đối tác, từ các tập đoàn đa và xuyên quốc gia đến các công ty vừa
và nhỏ. Thế giới đang đứng trước nhiều vấn đề toàn cầu mà khơng một quốc
gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết được nếu khơng có sự hợp tác đa

19



×