Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Tài liệu Luận văn tốt nghiệp “Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp Việt Nam: Thực trạng và giải pháp” ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 96 trang )




LUẬN VĂN


Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành
công nghiệp Việt Nam: Thực trạng và
giải pháp
1

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 4
CHƯƠNG I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI TĂNG CƯỜNG THU HÚT NGUỒN
VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI PHÁT TRIỂN NGÀNH
CÔNG NGHIỆP CỦA VIỆT NAM 7
I. Khái niệm, bản chất và đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài 7
1. Khái niệm và bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài 7
2. Đặc điểm của đầu t
ư trực tiếp nước ngoài 8
II. Sự cần thiết phải tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài phát
triển ngành Công nghiệp Việt Nam 9
1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài với quá trình CNH của các nước đang
phát triển
9
2.Thực trạng ngành Công nghiệp Việt Nam và nhu cầu thu hút vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài 12
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO
NGÀNH CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM 23
I. Qui mô và cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Công nghiệp


Việt Nam 23
1. Qui mô đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Công nghiệp 23
2. Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Công nghiệp 25
2

2.1 Cơ cấu theo chuyên ngành 25
2.2 Cơ cấu theo hình thức đầu tư 27
2.3 Cơ cấu theo địa bàn 28
2.4 Cơ cấu theo đối tác đầu tư 29
II. Tình hình thu hút và sử dụng FDI của một số chuyên ngành Công
nghiệp
1. Công nghiệp dầu khí 31
2. Công nghiệp nặng 38
3. Công nghiệp nhẹ 51
4. Công nghiệp thực phẩm 58
III. Những đóng góp của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào sự phát triển của
ngành Công nghiệp Vi
ệt Nam 63
IV. Một số tồn tại, hạn chế đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành
Công nghiệp Việt Nam 69
CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT
FDI VÀO CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
I. Mục tiêu và định hướng phát triển Ngành công nghiệp trong thời gian tới
1. Mục tiêu phát triển ngành Công nghiệp Việt Nam 76
2. Định hướng phát triển ngành Công nghiệp Việt Nam 76
II. Một số giải pháp nhằ
m tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả nguồn
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Công nghiệp trong thời gian tới
3


78
KẾT LUẬN 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO 94
4

LỜI NÓI ĐẦU
Trước đòi hỏi của thực tiễn phát triển kinh tế-xã hội của đất nước cũng như
những chuyển biến của bối cảnh quốc tế, Việt Nam đã tiến hành quá trình CNH,
HĐH nhằm thực hiện công cuộc đổi mới một cách toàn diện hơn. Tuy nhiên, do
xuất phát điểm của nước ta quá thấp, kém nhiều so với các nước trong khu vực
và trên thế giới, chỉ d
ựa vào nguồn vốn trong nước thì chúng ta không thể thu
hẹp khoảng cách trình độ kỹ thuật, công nghệ sản xuất, quản lý kinh doanh và
nhất là chất lượng sản phẩm, kỹ năng thâm nhập của hàng hoá nước ta vào thị
trường khu vực và thị trường thế giới. Trong điều kiện đó, để tiến hành CNH -
HĐH đất nước, đảm bảo duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế, thu hẹp khoả
ng
cách của nước ta và các nước trong khu vực, việc thu hút đầu tư nước ngoài vào
phục vụ chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam là hết sức quan
trọng.
Thực tế cho thấy, trong mấy năm gần đây, dưới sự tác động tích cực của quá
trình cải cách môi trường đầu tư và kinh doanh, các biện pháp khuyến khích và
hỗ trợ của nhà nước, sự chủ động tích cực và sáng tạo c
ủa các doanh nghiệp
công nghiệp sản xuất Việt Nam đã đạt được những kết quả nổi bật đóng góp một
phần không nhỏ cho quá trình CNH, HĐH của đất nước (tốc độ tăng trưởng bình
quân của ngành công nghiệp khá cao (13,9%, tỷ trọng của công nghiệp trong
GDP liên tục tăng từ mức 23,5% năm 1996 lên mức 31,9% năm 2001 ). Mà
đầu tư nước ngoài là một tác nhân quan trọng trong sự tăng trưởng này.
Cùng với ch

ủ trương mở cửa của Đảng và Nhà nước, với Luật Đầu tư nước
ngoài (1987) đã từng bước tạo ra môi trường hấp dẫn để thu hút ngày càng nhiều
vốn đầu tư và làm cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam ngày
một đạt hiệu quả hơn. Ngay từ năm 1998, ngành Công nghiệp đã đặt việc thu hút
đầu tư trực tiếp n
ước ngoài trong chiến lược phát triển của mình. Nguồn vốn
đăng ký đầu tư trực tiếp nước ngoài tính đến cuối năm 2002 đạt 22,16 tỷ USD:
trong đó thời kỳ 1996-2000 đạt 11,6 tỷ USD, tăng 30% so với 5 năm trước với tỉ
5

trọng vốn trong tổng nguồn vốn ĐTNN không ngừng tăng lên, từ 41,5% giai
đoạn 1988-1990, lên 52,7% giai đoạn 1991-1995 và 60,3% giai đoạn 1996-
2002. Vốn thực hiện trong lĩnh vực này cũng đạt tỉ lệ cao nhất so với các lĩnh
vực khác và tỉ trọng tăng dần từ 46% thời kì 1998-1990 lên 56% thời kì 1991-
1995 và tăng lên 73% thời kì 1996-2002. Ngoài ra, tỷ trọng về doanh thu, xuất
khẩu hay số lao động đều cao hơn so với các ngành khác. Tuy nhiên trong tình
hình trong nướ
c và thế giới có nhiều những thuận lợi và khó khăn khiến cho việc
thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Công nghiệp vẫn còn
nhiều hạn chế cần tháo gỡ, giải quyết.
Nhận thức được tính cấp thiết của vấn đề, em đã mạnh dạn chọn đề tài khoá
luận: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp Việt Nam: Thực
trạ
ng và giải pháp” nhằm mục đích trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn thực
trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào ngành công nghiệp của nước
ta hơn một thập kỷ qua, rút ra những kết luận cần thiết, đề ra chủ trương và một
hệ thống các giải pháp để thu hút và sử dụng hiệu quả hơn nguồn vốn FDI vào
ngành công nghiệp Việt Nam trong thời gian tới.
Ph
ương pháp nghiên cứu của em là diễn giải - quy nạp: đưa ra những số

liệu thống kê của từng lĩnh vực trong ngành Công nghiệp để phân tích, đánh giá,
và kết luận.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, khoá luận gồm 3 chương:
Chương I: Sự cần thiết phải tăng tường thu hút nguồn vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào Ngành Công nghiệp Việt Nam
Chương II: Th
ực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công
nghiệp Việt Nam
Chương III: Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào ngành công nghiệp Việt Nam trong thời gian tới
Qua bài viết này, em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo Phạm
6

Thị Mai Khanh, giảng viên Khoa Kinh tế Ngoại thương, Trường Đại học Ngoại
thương, người đã tận tình chỉ bảo, góp ý chu đáo để em có thể từng bước hoàn
thành bài viết của mình.
Hà Nội tháng 5 năm
2003
Sinh viên thực
hiện
Lê Thanh Hương

7

CHƯƠNG I
SỰ CẦN THIẾT PHẢI TĂNG CƯỜNG THU HÚT NGUỒN
VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO QUÁ TRÌNH
PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

I. KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC

NGOÀI
1. Khái niệm và bản chất đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment - FDI) là hình thức
đầu tư quốc tế chủ yếu mà chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hay phần đủ
lớn vốn đầu tư vào các dự án, cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành các
doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ, thương mại. Sự
ra đời và phát
triển của nó là kết quả tất yếu của quá trình quốc tế hoá và phân công lao động
quốc tế. Trên thực tế có nhiều cách nhìn nhận khác nhau về đầu tư trực tiếp
nước ngoài. Nhìn chung đầu tư trực tiếp nước ngoài được xem xét như một
hoạt động kinh doanh ở đó có yếu tố di chuyển vốn quốc tế và kèm theo sự di
chuyển vốn là chuyển giao công nghệ, kỹ nă
ng quản lý và các ảnh hưởng kinh
tế xã hội khác đối với nước nhận đầu tư.
Theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam, đầu tư trực tiếp nước ngoài có
thể được hiểu như là việc các tổ chức, các cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào
Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất cứ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp
nhận để hợ
p tác với bên Việt Nam hoặc tự mình tổ chức các hoạt động sản xuất
kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam.
Dưới góc độ kinh tế có thể hiểu đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức di
chuyển vốn quốc tế trong đó người sở hữu đồng thời trực tiếp tham gia điều
hành và quản lý hoạt động sử dụng vốn đầu tư.
Về bản chấ
t, đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức xuất khẩu tư bản, một
8

hình thức cao hơn của xuất khẩu hàng hoá. Đây là hai hình thức xuất khẩu luôn
bổ sung và hỗ trợ nhau trong chiến lược thâm nhập chiếm lĩnh thị trường của
các công ty, tập đoàn nước ngoài hiện nay. Tiền đề của việc xuất khẩu tư bản là

“tư bản thừa” xuất hiện trong các nước tiên tiến. Nhưng thực chất của vấn đề
đó là một hiện tượ
ng kinh tế mang tính tất yếu khách quan, khi mà quá trình
tích tụ và tập trung đã đạt đến một mức độ nhất định sẽ xuất hiện nhu cầu đầu
tư ra nước ngoài. Đó chính là quá trình phát triển của sức sản xuất xã hội, đến
độ đã vượt ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của một quốc gia, hình thành nên quy
mô sản xuất trên phạm vi quốc tế.
2. Đặc điểm của đầ
u tư trực tiếp nước ngoài
- Đây là hình thức đầu tư bằng vốn của tư nhân do các chủ đầu tư tự quyết
định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi.
Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có những ràng
buộc về chính trị, không để lại gánh nặng cho nền kinh tế.
- Chủ đầu tư nước ngoài đi
ều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tư nếu là
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp liên
doanh tuỳ theo tỷ lệ vốn góp của mình. Đối với nhiều nước trong khu vực, chủ
đầu tư chỉ được thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong một số
lĩnh vực nhất định và chỉ được tham gia liên doanh với số vốn cổ phần của bên
nướ
c ngoài nhỏ hơn hoặc bằng 49%; 51% còn lại do nước chủ nhà nắm giữ.
Trong khi đó Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam cho phép rộng rãi hơn đối
với hình thức 100% vốn nước ngoài và quy định bên nước nước ngoài phải góp
tối thiểu 30% vốn pháp định của dự án.
- Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà có thể tiếp nhận
được công nghệ, kĩ thuật tiên tiến, h
ọc hỏi kinh nghiệm quản lý, là những
mục tiêu mà các hình thức đầu tư khác không giải quyết được.
- Nguồn vốn đầu tư này không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ
đầu tư dưới hình thức vốn pháp định và trong quá trình hoạt động, nó còn bao

9

gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai hoặc mở rộng dự án cũng như
vốn đầu tư từ nguồn lợi nhuận thu được.
II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI TĂNG CƯỜNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI VÀO QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP
VIỆT NAM

Để làm rõ hơn vai trò của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với quá
trình CNH, HĐH của Việt Nam nói chung và Ngành Công nghiệp nói riêng, dưới
đây xin dành riêng một mục đề cập đến vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài ở
các nước đang phát triển trong bối cảnh hiện nay.
1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài với quá trình CNH của các nước đang phát
triển
Có nhiều y
ếu tố có thể ảnh hưởng đến mức độ thành công khi thực hiện CNH
của các nước đang phát triển trong bối cảnh hiện nay. Tuy nhiên, trong số đó có
bốn yếu tố cơ bản nhất được xem là điều kiện quyết định khả năng thực hiện CNH
của các nước đang phát triển là vốn; công nghệ; kỹ thuật; nguồn nhân lực; cải
cách thể chế (thị
trường, hội nhập ). Đầu tư trực tiếp nước ngoài là loại hình hoạt
động kinh tế hội tụ tương đối đầy đủ tiềm năng của bốn yếu tố trên. Có thể lý giải
tiềm năng đó như sau:
Lịch sử phát triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài cho thấy thái độ của các nước
tiếp nhận đầu tư là từ thái độ
phản đối (xem đầu tư trực tiếp là công cụ cướp bóc
đối với thuộc địa), đến thái độ buộc phải chấp nhận, đến thái độ hoan
nghênh Trong điều kiện thế giới hiện nay đầu tư trực tiếp được mời chào,
khuyến khích mãnh liệt. Trên thực tế đang diễn ra trào lưu cạnh tranh quyết liệt
trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mặ

c dù, hiện còn nhiều tranh luận,
còn những ý kiến khác nhau về vai trò, về mặt tích cực, tiêu cực của đầu tư trực
tiếp nước ngoài đối với nước tiếp nhận đầu tư, nhưng chỉ điểm qua nhu cầu, qua
trào lưu cạnh tranh thu hút cũng đủ cho ta khẳng định rằng đầu tư trực tiếp nước
ngoài hiện nay, đối với các nước nhận đầu tư, có tác dụng tích c
ực là chủ yếu, đa
10

phần các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài khi thực hiện đều đưa lại lợi ích cho
nước nhận đầu tư. Đối với nhiều nước, đầu tư trực tiếp nước ngoài thực sự đóng
vao trò là điều kiện, là cơ hội, là cửa ngõ giúp thoát khỏi tình trạng của một nước
nghèo, bước vào quỹ đạo của sự phát triển và thực hiện công nghiệ
p hoá. Vậy
xuất phát từ những kỳ vọng nào mà hầu hết các nước đang phát triển lại có nhu
cầu lớn về đầu tư trực tiếp nước ngoài như vậy?
Thứ nhất, đầu tư trực tiếp nước ngoài có khả năng giải quyết có hiệu quả
những khó khăn về vốn cho công nghiệp hoá. Đối với các nước nghèo, vốn được
xem là yếu tố c
ơ bản, là điều kiện khởi đầu quan trọng để thoát khỏi đói nghèo và
phát triển kinh tế. Thế nhưng, đã là nước nghèo thì khả năng tích luỹ vốn hay huy
động vốn trong nước để tập trung cho các mục tiêu cần ưu tiên là rất khó khăn, thị
trường vốn trong nước lại chưa phát triển. Trong điều kiện của thời kỳ đầu tiến
hành công nghiệp hoá, nhìn chung các nước đang phát tri
ển đều gặp rất hiều khó
khăn: mức sống thấp, khả năng tích luỹ kém, cơ sở hạ tầng chưa phát triển, công
nghệ kỹ thuật lạc hậu, mức đầu tư thấp nên kém hiệu quả, ít có điều kiện để xâm
nhập, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, thiếu khả năng tiếp cận với khoa học kỹ
thuậ
t tiên tiến của thế giới Giải pháp của các nước đang phát triển lúc này là tìm
đến với các nguồn đầu tư quốc tế. Trước khi tiến hành đầu tư các nhà đầu tư nước

ngoài thường có sẵn một số điều kiện cơ bản như vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản
lý, khả năng thị trường tức là nhà đầu tư đã dự báo được phần nào hi
ệu quả có
thể thu được đồng vốn đầu tư. Hay nói cách khác, các nhà đầu tư chỉ xin phép
triển khai dự án khi họ tính toán thấy độ rủi ro ít và khả năng thu lợi cao. Đây là
điểm ưu thế hơn hẳn của loại vốn đầu tư trực tiếp so với các loại vốn vay khác.
Thứ hai, thông qua các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước tiếp nhận
đầu tư
có thể tiếp nhận được những kỹ thuật mới, những công nghệ tiến tiến, góp
phần cải thiện đáng kể cơ sở hạ tầng, phát triển công nghiệp nói riêng và phát
triển kinh tế nói chung. Đồng thời, tạo ra các điều kiện kinh tế-kỹ thuật cho việc
thực hiện cuộc cải biến cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tă
ng
11

tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ Để thực hiện một số dự án đầu tư có hiệu quả
(khả năng sinh lời lớn, thu hồi vốn nhanh) nhiều nhà đầu tư đã chọn một số lĩnh
vực xây dựng cơ sở hạ tầng như viễn thông, tin học công nghiệp như là điều kiện
cho việc thực hiện các dự án đầu tư
của mình. Bên cạnh đó, chính phủ các nước
nhận đầu tư cũng thường có nhiều chính sách ưu đãi, khuyến khích các nhà đầu tư
bỏ vốn đầu tư vào một số lĩnh vực của công nghiệp, cơ sở hạ tầng quan trọng hy
vọng thúc đẩy nhanh sự phát triển của các lĩnh vực này. Như vậy đầu tư trực tiếp
nước ngoài tạo ra điều ki
ện để góp phần cải thiện đáng kể cơ sở hạ tầng của
những nước nhận đầu tư.
Thứ ba, các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể thu hút một lượng lớn
lao động trực tiếp và tạo ra nhiều việc làm cho các dịch vụ tương ứng. Thông qua
việc thực hiện các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể làm cho
đội ngũ cán

bộ của nước nhận đầu tư qua việc tham gia vào hoạt động của liên doanh mà
trưởng thành hơn về năng lực quản lý phù hợp với nền sản xuất hiện đại; hình
thành một lực lượng công nhân kỹ thuật hành nghề; tăng nguồn thu cho ngân
sách.
Thứ tư, đầu tư trực tiếp nước ngoài có các điều kiện cần thiết cho việc tạo
lậ
p một hệ thống thị trường phù hợp với yêu cầu của một nền sản xuất công
nghiệp hoá, tiếp cận và mở rộng được thị trường mới; tăng cường quan hệ hợp tác
kinh tế quốc tế v.v Hình thành được các khu chế xuất, khu công nghiệp chủ lực;
tạo ra các điều kiện cơ bản cho tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của mỗi
nước,
đặc biệt đối với các nước đang phát triển.
Như vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các nước đang phát triển đóng
vai trò như một cửa ngõ giúp các nước này thoát khỏi những khó khăn về điều
kiện kinh tế-xã hội, đưa các nước đang phát triển bước vào quỹ đạo của sự phát
triển và của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nướ
c. Nền kinh tế Việt
Nam cũng đang từng bước phát triển, trong đó ngành Công nghiệp Việt Nam đóng
một vai trò không nhỏ, vậy thực trạng ngành Công nghiệp Việt Nam trước nhu
12

cầu thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ra sao sẽ được đề cập đến trong phần
sau.
2. Thực trạng Ngành Công nghiệp Việt Nam hiện nay và nhu cầu thu hút
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Trong giai đoạn 1996-2001, tổng giá trị sản lượng công nghiệp đạt khoảng 997
ngàn tỷ đồng và có tốc độ tăng trưởng bình quân 13,9%/năm. Trong thời gian đầu,
do môi trường kinh tế trong n
ước và quốc tế có nhiều thuận lợi nên mức tăng
trưởng giá trị sản xuất công nghiệp đạt cao: 14,2% vào năm 1996 và 13,8% vào

năm 1997. Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 1998, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài
chính tiền tệ khu vực, làm cho thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, trong khi đó nhu
cầu thị trường trong nước tăng chậm, nên tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công
nghi
ệp chỉ đạt 12,5% vào năm 1998 và 11,6% vào năm 1999. Từ năm 2000 đến
nay, tình hình kinh tế trong nước và khu vực đã có nhiều chuyển biến tích cực và
dần thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng; đồng thời với những cải cách mạnh mẽ về
môi trường kinh doanh, đầu tư trong nước và tác động của các biện pháp kích cầu,
nên phát triển công nghiệp đã bắt đầu phục hồi trở lại, đạt được tố
c độ tăng trưởng
cao.Trong giai đoạn 1996-2001, các thành phần kinh tế hoạt động trong công
nghiệp đều tăng trưởng khá, song khu vực công ngiệp quốc doanh tăng thấp hơn
so với khu công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và công nghiệp ngoài quốc
doanh. Tuy nhiên, kể từ năm 2000, xu hướng tăng trưởng công nghiệp theo các
thành phần kinh tế đã có sự thay đổi: khu vực công nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài bắt đầu gi
ảm dần trong khi đó khu vực công nghiệp trong nước bắt đầu tăng
dần. Có một số lý do như sau: Do vốn đầu tư nước ngoài là từ các nước châu Á
nên mặc dù Việt Nam không nằm trong tâm cơn bão tài chính tiền tệ khu vực,
nhưng cuộc khủng hoảng này đã giáng một đòn mạnh vào đầu tư nước ngoài của
Việt Nam. Do cuộc khủng hoảng này, các công ty, tập đoàn quốc tế rơi vào tình
trạng khó kh
ăn về tài chính nên họ đã rút vốn đầu tư ra khỏi các nước được đầu tư
trong đó có Việt Nam. Tình hình cạnh tranh thu hút vốn đầu tư nước ngoài trên
13

thế giới và trong khu vực đang ngày càng trở nên rất gay gắt. Cộng đồng quốc tế
đánh giá môi trường đầu tư của Việt Nam còn chưa hấp dẫn, có nhiều rủi ro, chi
phí đầu tư cao, hệ thống tài chính ngân hàng chưa hoàn thiện, sức mua của thị
trường Việt Nam còn chưa cao, chưa tương xứng với một nước có 80 triệu dân

Đồ thị 1: Tốc độ tăng giá trị sản xuấ
t công nghiệp theo thành phần kinh tế
( Nguồn: Nghiên cứu kinh tế số 294, tháng 11/ 2002)
Mặc dù phát triển công nghiệp trong thời gian qua đạt nhiều kết quả tích cực:
tỷ trọng công nghiệp trong GDP tiếp tục thay đổi theo hướng tăng dần, đã tăng
lên đáng kể từ mức 23,2% năm 1996 lên mức 31,9% năm 2001, góp phần quan
trọng vào tăng trưởng chung của nền kinh tế; Cơ cấu công nghiệp dịch chuyển
mạnh t
ừ nền công nghiệp hướng nội, thay thế nhập khẩu sang nền công nghiệp
hướng ngoại, định hướng xuất khẩu song trước yêu cầu đòi hỏi của quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế đã đến gần và thực tế phát triển công nghiệp những năm
qua cũng đã đặt ra nhiều vấn đề:
* Hiệu quả sản xuất công nghiệp giảm
Phát triển công nghi
ệp trong thời gian qua chủ yếu mới chỉ là phát triển theo
chiều rộng, gia công, lắp ráp là chủ yếu, chưa chú trọng đầu tư và phát triển
công nghiệp theo chiều sâu, nâng tỷ trọng chế biến sâu, đảm bảo cung cấp
Tèc ®é (%)
1996 1997 1998 1999 2000 2001 9th¸ng2002
0
5
10
15
20
25
30
Tæng sè(%) Quèc doanh(%) Ng oμi quèc doanh(%) §Çu t− n−íc ngoμi(%
)
14


nguyên nhiên vật liệu đầu vào và dịch vụ hạ tầng hợp lý nên hiệu quả sản xuất
công nghiệp chưa ổn định và thiếu vững chắc. Phần lớn các sản phẩm công
nghiệp có sức cạnh tranh kém trên thị trường. Mức chênh lệch giữa tốc độ tăng
giá trị sản xuất công nghiệp và tốc độ tăng giá trị gia tăng công nghiệp có xu
hướng doãng rộng ra. Sự tăng tr
ưởng của nhiều ngành công nghiệp như: chế
biến thực phẩm và đồ uống, dệt, may, da giày, sản phẩm thép và kim loại mầu,
máy móc thiết bị cơ khí, sản phẩm thiết bị điện, hoá chất, phân bón, lốp ô tô, ô
tô, xe máy, giấy, hàng điện tử, sản phẩm nhựa chủ yếu phụ thuộc vào nguồn
nguyên liệu, bán thành phẩm nhập khẩu có giá thành cao và luôn có xu hướng
tăng trong những năm qua. Nguồn nguyên li
ệu sản xuất trong nước chưa đáp
ứng nhu cầu của nhiều ngành công nghiệp chế biến như: nguyên liệu nhựa sản
xuất trong nước mới đáp ứng được 10% nhu cầu; khoảng 20%-30% vải sản
xuất trong nước đáp ứng đủ yêu cầu may mặc xuất khẩu; nguyên phụ liệu giầy-
da sản xuất trong nước chỉ chiếm 25-30% nhu cầu; phần lớn cácloại nguyên
liệ
u chính phục vụ sản xuất các sản phẩm kỹ thuật điện phải nhập khẩu; sản
xuất phôi thép trong nước chỉ đáp ứng khoảng 20% nhu cầu Điều này làm hạn
chế khả năng tăng giá trị nội địa sản xuất công nghiệp và góp phần làm cho
hiệu quả sản xuất công nghiệp giảm.
* Trình độ công nghệ trang thiết bị lạc hậu
Thự
c trạng công nghệ trong một số ngành công nghiệp hiện đanglà một vấn
đề đáng lo ngại hạn chế năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Cụ thể là:
trình độ công nghệ và thiết bị của ngành điện tử thấp hơn so với các nước trong
khu vực khoảng từ 15-20 năm. Phần lớn các thiết bị công nghệ của ngành cơ
khí đã qua sử dụ
ng trên 20 năm, lạc hậu về kỹ thuật, độ chính xác kém, quy mô
sản xuất khép kín, thiếu sự chuyên môn hoá. Công nghệ và thiết bị sản xuất

động cơ diezel chủ yếu được đầu tư từ những năm 60 và 70 và có tỷ lệ đầu tư
đổi mới rất hạn chế. Khoảng 30% sản lượng clinker được tạo ra từ những nhà
máy có công nghệ cũ kỹ và lạc hậu và trình độ công nghệ s
ản xuất ở hầu hết
15

các cơ sở nghiền xi măng đầu ở mức dưới trung bình. Phần lớn thiết bị công
nghệ sản xuất giấy in báo, giấy bao bì lạc hậu từ 3-5 thập kỷ, sản xuất giấy in,
viết đã qua sử dụng trên 20 năm. Công nghệ lạc hậu được đầu tư từ vài chục
năm trước với qui mô nhỏ trong ngành thép chiếm khoảng 53% sản lượng toàn
ngành, công nghệ tiến ti
ến chiếm khoảng 31%. Trình độ công nghệ và thiết bị
sản xuất các loại hoá chất cơ bản hiện tại rất lạc hậu và có quy mô sản xuất nhỏ
từ vài trăm tấn/ năm đến tối đa từ vài chục ngàn tấn/ năm trong khi đó quy mô
sản xuất của các nước trong khu vực đã đạt được từ hàng chục ngàn tấn/năm
đến hàng trăm ngàn tấn/ năm. Máy móc và công ngh
ệ sản xuất phân bón hầu
hết là lạc hậu, đã sử dụng trên 25-30 năm (trừ công nghệ sản xuất xút, sản
phẩm cao su, ắc quy, pin, chất tẩy rửa, hoá mỹ phẩm trong những năm qua đã
được tiến hành đầu tư đổi mới và áp dụng công nghệ mới loại trung bình tiên
tiến). Các nhà máy sợi dệt-nhuộm trong ngành dệt may mới thay thế được
khoảng 30% công nghệ-thiết bị hiệ
n đại, còn lại khoảng 70% công nghệ-thiết
bị đã sử dụng trên 20 năm và hầu như đã hết khấu hao.
Ngoài ra, vấn đề chuyển giao công nghệ còn nhiều hạn chế. Kết quả khảo sát
gần đây ở 90 doanh nghiệp công nghiệp với 147 công nghệ được chuyển giao
cho thấy, chất lượng và hiệu quả chuyển giao công nghệ còn hạn cế do thiếu sự
lựa chọn công nghệ
tối ưu, trình độ công nghệ chưa phù hợp và đặc biệt là giá
trị chuyển giao phần mềm về bí quyết công nghệ còn rất thấp (tỉ lệ phần mềm

chỉ chiếm 17%, đầu tư trang thiết bị 83%). Do đó, nhìn chung khả năng vận
hành công nghệ mới còn nhiều hạn chế; trình độ hiểu biết và kỹ năng thực hành
của đội ngữ kỹ sư, cán bộ k
ỹ thụat và công nhân vận hành còn yếu kém; hiệu
suất sử dụng thực tế chỉ đạt tối đa 70-80% công suất, nhiều dây chuyền thiết bị
đã qua sử dụng có ứng dụng công nghệ tự động điều khiển trong ngành dệt
nhưng chỉ đạt hiệu suất sử dụng 50-60%.
Có thể đánh giá chung trình độ công nghệ và trang thiết bị sản xuất của ngành
công nghiệp nướ
c ta ở mức trung bình yếu (không kể các doanh nghiệp có vốn
16

đầu tư nước ngoài) so với các nước công nghiệp phát triển là lạc hậu từ 2 đến 3
thế hệ: tỷ lệ trang thiết bị cũ, công nghệ lạc hậu và trung bình chiếm 60-70%,
công nghệ tiến tiến và hiện đại khoảng 30-40%. Điều này là một trong những
nguyên nhân chính làm giảm đáng kể năng suất và sức cạnh tranh của các sản
phẩm công nghiệp khi hội nhập.
* Chất lượng và năng su
ất lao động công nghiệp thấp
Lao động công nghiệp hiện còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số lực lượng
lao động của cả nước. Trình độ lao động, trình độ nghề nghiệp trong ngành
công nghiệp chưa thể đáp ứng được yêu cầu và đòi hỏi của quá trình phát triển
công nghiệp trong thời gian tới và là một trong những nguyên nhân quan trọng
làm hạn chế khả năng đổi mới công nghệ, quy trình s
ản xuất và quản lý ở các
doanh nghiệp. Hiện có khoảng 73% của lực lượng lao động công nghiệp không
có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Tỷ lệ này cao nhất trong ngành công nghiệp
khai thác (80%) và thấp nhất trong ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt
và nước (41%). Ngoài ra, tỷ lệ đào tạo công nhân, kỹ thuật viên và kỹ sư chưa
phù hợp. Tỷ lệ đại học/ trung cấp/ công nhân kỹ thuật là 1/0,83/4,7 trong khi

của thế giớ
i tỷ lệ đại học/ trung cấp/ công nhân kỹ thuật là 1/2,5/3,5.
Công tác đào tạo và đào tạo lại lực lượng cán bộ, công nhân kỹ thuật chưa
được quan tâm đúng mức, hợp tác đào tạo giữa doanh nghiệp với các cơ sở đào
tạo trường học chưa có hiệu quả dẫn đến tình trạng thừa lao động giản đơn,
thiếu lao động kỹ thuật; chất lượ
ng lao động thấp, lạc hậu, bỡ ngỡ trước kỹ
thuật, quản lý và công nghệ mới. Do trình độ công nghệ và trang bị lạc hậu
cùng với trình độ lao động hạn chế nên năng suất lao động công nghiệp và chất
lượng sản phẩm công nghiệp không cao. Năng suất lao động trung bình trong
ngành công nghiệp tính theo giá trị gia tăng công nghiệp của Việt Nam năm
2001 thấp hơn so với các nước ASEAN khác như: Indonexia 2,5 lần;
Philippines 5 l
ần; Thái Lan 3,8; Singapore 7,3; Singapore 22,8 lần.

17

* Đầu tư cho công nghiệp chưa được quan tâm đúng mức và hiệu quả thấp
Tỷ trọng đầu tư cho công nghiệp mặc dù chiếm khoảng 40% tổng vốn đầu tư
toàn xã hội, song tổng vốn đầu tư cho công nghiệp chưa đủ để cơ cấu lại ngành.
Cơ cấu đầu tư của các ngành công nghiệp cũng như tỷ trọng vốn tham gia của
các thành phần kinh tế ch
ưa thực sự hướng tới một nền kinh tế thị trường hoà
nhập và cạnh tranh quyết liệt. Nhiều ngành, nhiều lĩnh vực công nghiệp có vai
trò và tác động lớn như cơ khí chế tạo máy móc và thiết bị, công nghiệp
nguyên liệu chưa được quan tâm đầu tư đúng mức. Trong khi đó có những
chương trình đầu tư lớn trong ngành xi măng, thép không mang lại kết quả như
mong muốn.
Từ
những phân tích trên có thể nói công nghiệp nước ta tăng trưởng nhanh

nhưng hiệu quả không cao, xu hướng diễn ra là giá trị sản xuất ngày càng tăng,
nhưng tỷ lệ giá trị tăng thêm trong giá trị sản xuất ngày càng giảm, nếu trước
đây tỷ lệ giá trị tăng thêm khoảng trên dưới 38% thì những năm gần đây giảm
dần còn 32% và nay chỉ còn 30-31%. Nghĩa là chi phí trung gian tăng dần từ
67% lên 69-70%. Nguyên nhân chính là các ngành gia công lắp ráp tăng nhanh
cả về
chiều rộng lẫn chiều sâu như: lắp ráp ô tô, xe máy, thiết bị gia đình, hàng
điện tử, gia công kim loại và phụ kiện. Trong khi đó các ngành có tỷ lệ giá trị
tăng thêm lớn lại giảm đi như: khai thác dầu khí, phân bón, hoá chất
Tất cả những yếu kém trên là nhân tố tiềm ẩn luôn tạo ra khả năng mất ổn
định, làm giảm tính cạnh tranh và không vững chắc của công nghiệp nước ta.
Biết đượ
c những nhân tố bất lợi để khắc phục, đồng thời tranh thủ khai thác
triệt để các điều kiện thuận lợi đang có, đó là tình hình chính trị ổn định, đường
lối phát triển kinh tế đúng đắn, những ưu đãi về chính sách đầu tư, đặc biệt là
việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ mở ra cơ hội phát triể
n
cho ngành công nghiệp cũ và mới trong những năm tới. Theo dự đoán của các
chuyên gia, nhịp độ tăng trưởng công nghiệp của nước ta dự tính trong những
năm tới có khả năng đạt từ 14-16%và năm 2003 với mục tiêu 14-14,5% là khả
18

thi. Riêng khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn là khu vực có tốc độ
tăng trưởng cao từ 16-20%. Để đạt kế hoạch tăng trưởng trên, các chuyên gia
đầu tư ước tính năm 2003 cần khoảng 369,6 nghìn tỷ đồng vốn đầu tư cho các
ngành công nghiệp. Mà nguồn vốn huy động từ nguồn vốn công cộng chỉ đáp
ứng khoảng 53% nhu cầu, vậy gánh nặng sẽ trông chờ nhiều vào các ngu
ồn vốn
đầu tư nước ngoài (47% tương đương khoảng 173,712 nghìn tỷ đồng). (Nguồn:
Báo Đầu tư số 11 ra ngày 5/3/2003).

Các doanh nghiệp FDI vào ngành Công nghiệp tuy mới hoạt động trên thị
trường Việt Nam nhưng đã thể hiện được sức mạnh của mình. Với những ưu
thế về kỹ thuật, công nghệ, khả năng dồi dào về vốn, có kinh nghiệm hoạt động
lâu năm trong nền kinh t
ế thị trường và lĩnh hội được các bí quyết kinh doanh
từ các công ty mẹ. Các doanh nghiệp FDI thường có quy mô lớn, trình độ trang
bị kỹ thuật hiện đại, khả năng quản lý và điều hành tốt hơn các doanh nghiệp
trong nước.
Tiền lương trả cho người lao động tại các doanh nghiệp FDI cao hơn hẳn các
doanh nghiệp trong nước, góp phần tăng thu nhập cho người lao động. Việc trả
lương cao ở các doanh nghiệ
p FDI như một nam châm vô hình thu hút dần các
bàn tay khéo léo và trí tuệ người Việt Nam vào làm việc. Tính đến cuối năm
1996, lương bình quân một lao động trong các doanh nghiệp FDI là 91 USD/
tháng, tương đương với khoảng một triệu đồng Việt Nam.
Bên cạnh mục đích các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam để tìm kiếm thị
trường tiêu thụ sản phẩm thì phần lớn các doanh nghiệp vào Việt Nam để sử
dụng lao động với giá rẻ hoặc s
ử dụng nguồn nguyên liệu tại chỗ nhằm chế
biến cho xuất khẩu. Một khối lượng lớn sản phẩm của Việt Nam được xuất
khẩu ra thị trường quốc tế bởi các doanh nghiệp FDI, trong đó phần lớn là các
doanh nghiệp liên doanh, đem lại nguồn ngoại tệ đáng kể, góp phần mở rộng
giao lưu thương mại quốc tế. Tính đến cuố
i năm 1996, kim ngạch xuất khẩu
của các doanh nghiệp FDI là 792 tr. USD, chiếm 33% tổng kim ngạch xuất
19

khẩu cả nước.
Theo số liệu thống kê, giá trị sản lượng toàn ngành công nghiệp năm 1999 đạt
trên 116 nghìn tỷ đồng, tăng 10,3% so với năm 1998. Trong đó, khu vực doanh

nghiệp Nhà nước chiếm tỷ trọng 43,48% toàn ngành, tăng 4,52% (các doanh
nghiệp trực thuộc Bộ Công nghiệp tăng 6,02%). Khu vực doanh nghiệp ngoài
quốc doanh chiếm tỷ trọng 21,7%, tăng 8,8%. Đặc biệt, khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài chiếm tỷ tr
ọng 34,75%, tăng khoảng 20%. Giá trị sản lượng toàn
ngành công nghiệp nửa đầu năm 2000 đạt 100.586 tỷ đồng, bằng 54,3% kế
hoạch năm và tăng 14,7% so với cùng kỳ năm trước. Đây là tốc độ tăng cao
nhất kể từ năm 1996 (tăng 13,2%), năm 1997 (tăng 13,6%), năm 1998 (tăng
12,6%) và năm 1999 (tăng 10,3%). Trong đó: khu vực doanh nghiệp nhà nước
Trung ương tăng 10,8% (các doanh nghiệp thuộc Bộ Công nghiệp tăng 14,4%),
khu vực doanh nghiệp nhà nước địa phương tăng 14,6%, khu vực ngoài quốc
doanh tăng 18,5% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 15,7%.
Nhận thức được vai trò của FDI và tính tất yếu của việc mở cửa thu hút các
nguồn lực bên ngoài, ngành Công nghiệp Việt Nam đã đề ra một số định hướng
thu hút, sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài:
+ Khuyến khích đầu tư vào các dự
án phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu
xuất khẩu theo hướng tăng mạnh những sản phẩm công nghệ chế biến, giảm dần
xuất khẩu sản phẩm thô, phát huy nhiều lợi thế so sánh của đất nước. Những ưu
đãi nhằm khuyến khích đầu tư đối với các dự án này bao gồm:
- Dự án xuất khẩu ít nhất 50% sản phẩm được hưở
ng mức thuế suất thuế thu
nhập doanh nghiệp ưu đãi là 20% trong thời gian 10 năm, được miễn thuế lợi
tức trong thời gian 1 năm kể từ năm kinh doanh có lãi, giảm 50% trong thời gian
tối đa 2 năm tiếp theo. (Điều 46, 48 khoản 1- Luật ĐTNN tại Việt Nam -2000)
- Dự án xuất khẩu ít nhất 80% sản phẩm được hưởng mức thuế suất thuế thu
nhập doanh nghiệp ư
u đãi là 15% trong thời gian 12 năm, được miễn giảm thuế
lợi tức 2 năm kể từ năm kinh doanh có lãi, giảm 50% trong tối đã 3 năm tiếp
20


theo. (Điều 46, khoản 2, Điều 48 khoản 2 Luật ĐTNN tại Việt Nam-2000)
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có tỷ lệ xuất khẩu ít nhất 50%, đáp
ứng được các điều kiện quy định, được phép thành lập kho bảo thuế
(Manufacturing Bonded Warehouse) đối với hàng hoá là nguyên liệu, vật tư
nhập khẩu phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu. Hàng hoá đưa vào kho bảo
thuế chưa thu
ộc diện chịu thuế nhập khẩu.
- Các dự án có tỷ lệ xuất khẩu cao hoặc xuất khẩu toàn bộ sản phẩm được lựa
chọn hình thức đầu tư thích hợp, kể cả hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài.
Ngoài ra, còn ban hành những giải pháp đồng bộ về thuế suất nhập khẩu
chi tiết phụ tùng nhằm khuyến khích mạnh sản xuất hướng vào xuất kh
ẩu.
+ Chú trọng những ngành, lĩnh vực có công nghệ hiện đại, công nghệ cao (tin
học, vật liệu mới, tự động hoá, dầu khí, )
- Doanh nghiệp có vốn ĐTNN có dự án đầu tư vào các lĩnh vực ứng dụng và
phát triển công nghệ cao, dịch vụ khoa học và công nghệ được áp dụng thuế
suất, thuế thu nhập doanh nghiệp 20% trong thời hạn 10 năm kể từ khi hoạt
động. (Đ
iều 46, khoản 4/ Luật ĐTNN tại Việt Nam-2000)
- Doanh nghiệp có đầu tư vào các hoạt động khoa học và công nghệ, nếu sử
dụng được giao đất thuê để xây dựng cơ sở nghiên cứu khoa học và công nghệ,
thì đối với phần đất này doanh nghiệp được hưởng ưu đãi về tiền sử dụng đất,
tiền thuê đất và diện tích sử dụng đất.
+ Tạo điề
u kiện thu hút đầu tư nước ngoài vào các khu công nghiệp, khu chế
xuất:
- Đối với các KCN, KCX, các nhà đầu tư nước ngoài được khuyến khích đầu
tư với chính sách ưu đãi tiền thuê đất, miễn giảm thuế, giảm giá nhiều loại dịch

vụ.
- Hỗ trợ về vốn tín dụng đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực cung cấp miễn phí
21

thông tin trong quá trình khảo sát, lập dự án đầu tư, cung cấp điện nước đến tận
hàng rào dự án. Hỗ trợ kinh phí đền bù giải phóng mặt bằng kể cả “chính sách”
chi hoa hồng phí và tiền thưởng cao nhất cho người giới thiệu đầu tư.
+ Tiếp tục thu hút ĐTNN trong các lĩnh vực quan trọng: tìm kiếm, thăm dò, và
khai thác dầu khí và phát triển các cơ sở công nghiệp hạ nguồn dầu khí. Thăm
dò khai thác tài nguyên khoáng sản Việ
t Nam; đầu tư sản xuất phôi thép, hoàn
nguyên quặng, cán thép lá, thép hợp kim, thép hình,
+ Tập trung khuyến khích các dự án sản xuất linh kiện, phụ tùng lốp ô tô, xe
máy; sản xuất lắp ráp thiết bị xe máy, thiết bị kỹ thuật cho ngành vận tải và cho
các ngành công nghiệp khác.
+ Ưu tiên các dự án điện tử, điện gia dụng chú trọng vào sản xuất linh kiện điện,
điện tử, màn hình vi tính; thiết bị phần mềm tin họ
c, điện tử công nghiệp, phục
vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu; các dự án điện gia dụng xuất khẩu trên
80%.
+ Khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực thu hút nhiều lao động như các dự án về
may mặc-da giầy xuất khẩu; sản xuất nguyên liệu, phụ kiện cho may mặc, da
giầy.
Với những định hướng trên, ngành Công nghiệp Việt Nam đã đạt được những
kết quả đáng kể: Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp
trong thời gian từ năm 1988 đến 19/10/2002 là 2522 dự án, với 18.217,4 triệu
USD vốn đăng ký, chiếm 59,8% về số dự án và chiếm 42,7% về vốn đăng ký.
Số cơ sở công nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tăng từ 666 lên 1063 đơn
vị. Điều dó đã góp phần vào tăng giá tr
ị sản xuất toàn ngành năm 2002 lên

14,5%, vừa vượt mục tiêu 14% vừa cao hơn tốc độ tăng 14,2% của năm 2001.
Đến năm 2002 là năm thứ 12 liên tục tăng trưởng công nghiệp đạt được 2 chữ
số, đưa qui mô công nghiệp năm 2002 gấp 4,8 lần năm 1990, một kỷ lục về tốc
độ tăng cao, liên tục và kéo dài mà các thời kì trước chưa bao giờ đạt được. Tuy
nhiên bên cạnh đó còn những m
ặt tồn tại, hạn chế mà ngành Công nghiệp vẫn
22

chưa khắc phục được, khiến cho dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa
được phát huy hết thực lực của nó cũng như gây ra nhiều khó khăn cho các
doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài trong quá trình triển khai dự án, vì vậy
sau đây xin đi sâu hơn vào thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành
Công nghiệp Việt Nam.
Ngành công nghiệp Việt Nam trong những năm qua đã và đang phát tri
ển với
một phần giúp sức của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài như thế nào sẽ
được trình bày cụ thể hơn ở Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào ngành Công nghiệp Việt Nam.
23

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO
NGÀNH CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM


I. QUY MÔ VÀ CƠ CẤU ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO NGÀNH
CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
1. Quy mô đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Công nghiệp Việt Nam
Trong những năm gần đây, thông qua các hình thức liên doanh hoặc đầu tư
100% vốn nước ngoài, ngành công nghiệp nước ta đã đạt được mục tiêu thu hút

vốn và kỹ thuật của nhiều nước để phát triển, cung cấp ngày càng nhiều hàng
hoá tiêu dùng cho xã hội. Giá trị sản lượng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài (doanh nghiệp FDI) chiếm tỷ tr
ọng 23,8% trong tổng giá trị ngành
công nghiệp của cả nước. Một số ngành quan trọng có năng lực sản xuất tăng
nhanh như ngành thép, ngành lắp ráp ôtô xe máy, điện tử, công nghiệp hàng tiêu
dùng.
Công nghiệp khu vực có vốn đầu tư nước ngoài xuất hiện đã trở thành một bộ
phận quan trọng của nền công nghiệp nước ta, đã chiếm tỷ trọng lớn và ngày
một gia tăng nhờ có tố
c độ tăng khá cao. Nếu trước đây khu vực này hầu như
không có gì, thì đến nay đã chiếm 35,7% toàn bộ ngành công nghiệp. Tốc độ
tăng của khu vực này nhìn chung cũng cao hơn hẳn tốc độ tăng của công nghiệp
trong nước. Nhờ có sự tăng trưởng cao của công nghiệp khu vực có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài đã “kéo” tốc độ chung của toàn ngành công nghiệp lên.
Để có thể thấ
y rõ tác động của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
ngành Công nghiệp như thế nào xin xem tốc độ tăng trưởng của các khu vực
DNNN, khu vực ngoài quốc doanh và khu vực có vốn ĐTNN so với toàn ngành
trong đồ thị sau.
24

Đồ thị 2 : Tốc độ tăng của ngành Công nghiệp so với năm trước (%)
(Nguồn: Thời báo kinh tế số 17-22/ Ngày 7-2-2003)
Tính đến ngày 20/12/2002 cả nước có 3669 dự án FDI còn hiệu lực với tổng
vốn đầu tư là 39.104,74 tr.USD, trong đó có 2431 dự án đầu tư vào ngành công
nghiệp với số vốn đầu tư đăng ký (TVĐK) 22.160,753 tr.USD, chiếm 66,3% số
dự án với 56,67% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của cả nước. Tổng vốn
đầu tư đăng ký (TVĐK), vốn pháp định (VPĐ) và vốn đầu tư
thực hiện (ĐTTH)

thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1 : Tình hình FDI vào ngành công nghiệp
(tính đến ngày 20/12/2002, chỉ tính những dự án còn hiệu lực)
FDI Cả nước Ngành công
nghiệp
Tỷ lệ % so với tổng số các
ngành
Tổng số dự án 3669 2431 66,3
TVĐK (Tr.USD) 39.104,74 22.160,75 56,67
VPĐ (Tr.USD) 18.103,68 10.257,77 56,912
ĐTTH(Tr.USD) 20.739,30 13.343,30 64,338
(Nguồn: Vụ QLDA - Bộ KH&ĐT)
Tèc ®é t¨ng (%)
0
5
10
15
20
25
1995 1999 2000 2001 2002
Toμn ngμnh Khu vùc ngoμi quèc doanh
Khu vùc DNNN Khu vùc cã vèn §TNN

×