Luật Kinh doanh bảo hiểm – Những nội
dung cần hoàn thiện
THS. TRẦN VŨ HẢI – ĐH LUẬT HÀ NỘI
1. Đặt vấn đề
Bảo hiểm là một nhu cầu tất yếu của con người trong việc đối mặt với rủi
ro, đó là nguy cơ xảy ra thiệt hại về sức khoẻ, tính mạng hoặc tài sản. Chính vì
vậy, hoạt động kinh doanh bảo hiểm là một ngành dịch vụ phát triển từ lâu ở các
quốc gia trên thế giới và ngày càng có vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Ở Việt
Nam, hoạt động kinh doanh bảo hiểm được điều chỉnh bởi Luật kinh doanh bảo
hiểm (LKDBH) được ban hành ngày 9/12/2000 và có hiệu lực từ ngày 1/4/2001.
Đây là một văn bản hết sức quan trọng, là cơ sở để phát triển thị trường bảo hiểm
Việt Nam. Từ chỗ có rất ít doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) thì cho đến nay, tham
gia thị trường này gồm rất nhiều DNBH thuộc nhiều thành phần kinh tế, trong đó
có những DNBH nổi tiếng của nước ngoài cũng tham gia đầu tư vào Việt Nam.
Đến hết năm 2007, tổng số doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ có mặt tại thị
trường Việt Nam là 23 doanh nghiệp, 9 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, 1 doanh
nghiệp tái bảo hiểm, 8 doanh nghiệp môi giới bảo hiểm
.
Một cách khái quát nhất, LKDBH trong thời gian qua đã điều chỉnh tương
đối toàn diện các vấn đề pháp lý về hoạt động kinh doanh bảo hiểm, bao gồm các
nội dung chủ yếu: địa vị pháp lý của DNBH; hợp đồng bảo hiểm; đầu tư nước
ngoài vào lĩnh vực bảo hiểm, v.v.. Với phạm vi điều chỉnh rộng, LKDBH đã góp
phần phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam và là công cụ quan trọng để các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền quản lý hoạt động kinh doanh đặc thù này một cách
có hiệu quả.
Tình hình thị trường bảo hiểm trong những năm qua có nhiều bước phát
triển rõ rệt. Đã có những thời kỳ tốc độ phát triển thị trường bảo hiểm (cả bảo
hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ) ở mức cao, và lĩnh vực bảo hiểm trở
thành một ngành nghề kinh doanh hấp dẫn. Nhiều hãng bảo hiểm nước ngồi có
kinh nghiệm ln đánh giá cao về tiềm năng phát triển thị trường bảo hiểm Việt
Nam, ngay cả trong giai đoạn hiện nay, mặc dù thị trường bảo hiểm nhân thọ đang
có những trầm lắng nhất định.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, qua thời gian qua, LKDBH cũng
đã bộc lộ những bất cập làm giảm sút hiệu quả điều chỉnh pháp luật. Những bất
cập này có nhiều nguyên nhân, nhưng tập trung chủ yếu là do các nguyên nhân cơ
bản sau đây:
– Kỹ năng xây dựng pháp luật trong giai đoạn đầu đổi mới còn hạn chế.
Trong giai đoạn đầu của cơng cuộc đổi mới, các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và đội ngũ chuyên gia pháp lý nước ta đã có những cố gắng đáng ghi nhận
trong việc xây dựng và dần hoàn thiện khung pháp lý cho thể chế kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với thực trạng kinh tế- xã hội
của Việt Nam. Bên cạnh những văn bản như Luật Công ty, Bộ luật dân sự, Bộ luật
lao động v.v., LKDBH ra đời đã có vai trị hết sức quan trọng trong việc xây dựng
một nền kinh tế thị trường hoàn thiện. Tuy nhiên, những hạn chế về khả năng soạn
thảo cũng như có nhiều vấn đề cần phải cân nhắc thêm được đặt ra trước nhà lập
pháp đã làm ảnh hưởng đến chất lượng các quy định trong LKDBH. Đến nay, dựa
vào kinh nghiệm ban hành hàng loạt các văn bản luật quan trọng như Luật doanh
nghiệp, Luật đầu tư, Luật các tổ chức tín dụng, Luật chứng khốn v.v., được các
chuyên gia đánh giá cao về kỹ năng soạn thảo, thì đã đến lúc cần đặt ra yêu cầu
sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện LKDBH để đảm bảo cho hiệu lực điều chỉnh
của văn bản này đối với thị trường bảo hiểm Việt Nam.
– Sự phát triển của thị trường bảo hiểm giai đoạn hiện nay cần có những
quy định pháp luật mới phù hợp
Trong hơn mười năm kể từ khi LKDBH được ban hành, nền kinh tế nói
chung và thị trường bảo hiểm đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Nhiều loại
hình sản phẩm bảo hiểm được ra đời đáp ứng những nhu cầu khác nhau của các
chủ thể trong nền kinh tế.[2] Với số lượng DNBH đông đảo, pháp luật phải thật sự
trở thành một công cụ hữu hiệu để đảm bảo cạnh tranh lành mạnh và kinh doanh
hiệu quả. Bên cạnh đó, mơi trường kinh doanh đang có những bước hội nhập sâu
rộng, đòi hỏi hành lang pháp lý phải được xây dựng phù hợp.
– Những cam kết của Việt Nam trong quá trình hội nhập cần được thực
hiện
Trong biểu cam kết dịch vụ gia nhập WTO của Việt Nam, dịch vụ bảo
hiểm là một nội dung cam kết quan trọng. Những cam kết này phải được nội luật
hoá trong LKDBH để đảm bảo thực hiện các thoả thuận quốc tế trong quá trình
hội nhập của nước ta với nền kinh tế thế giới. Theo cam kết này, từ thời điểm
1/1/2008, hầu hết các rào cản đối với hoạt động bảo hiểm của DNBH có vốn đầu
tư nước ngồi phải được dỡ bỏ. Về hiện diện thương mại, đến cuối năm 2011 (5
năm sau khi gia nhập), các DNBH nước ngoài được phép thành lập chi nhánh kinh
doanh bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam.[3]
2. Về cấu trúc văn bản LKDBH
Cấu trúc văn bản LKDBH hiện hành có nhiều điểm khơng hợp lý, cần phải
được cơ cấu lại nhằm đảm bảo hiệu quả điều chỉnh pháp luật với tư cách là văn
bản luật chuyên ngành.
Thứ nhất, LKDBH hiện hành quy định về hợp đồng bảo hiểm tại chương II,
còn những vấn đề pháp lý cơ bản điều chỉnh DNBH được quy định tại chương III.
Thiết nghĩ, việc sắp xếp như vậy là không phù hợp vì các lý do sau đây:
Một là, LKDBH cần phải coi trọng những nội dung điều chỉnh về hoạt động
kinh doanh bảo hiểm, mà chủ thể kinh doanh chủ yếu là DNBH, nên sau chương I
quy định về những vấn đề chung, thì chương II phải nên quy định về DNBH và
một số chủ thể kinh doanh khác (sẽ phân tích ở phần sau bài này).
Hai là, theo logic thì phải có doanh nghiệp mới có sản phẩm bảo hiểm, nên
sau chế định về DNBH mới nên quy định về sản phẩm bảo hiểm (được thể hiện
qua hợp đồng bảo hiểm).
Thứ hai, nên xác định nội dung điều chỉnh của chương Hợp đồng bảo hiểm
là điều chỉnh về các loại hình bảo hiểm (các sản phẩm bảo hiểm) để không trùng
lắp với những quy định của Bộ luật dân sự về hợp đồng bảo hiểm và phù hợp với
tinh thần của LKDBH là điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm với đối tượng
của hoạt động kinh doanh này là các sản phẩm bảo hiểm, bao gồm bảo hiểm phi
nhân thọ và bảo hiểm nhân thọ. Do đó, chương về hợp đồng bảo hiểm nên đặt tên
thành “Các sản phẩm bảo hiểm”
Thứ ba, mục chuyển giao hợp đồng bảo hiểm nên để thành một bộ phận
của chương về hợp đồng bảo hiểm, vì đây là việc DNBH nhận chuyển giao thay
thế DNBH chuyển giao để trở thành bên bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm. Do
vậy, mặc dù có những quy định đặc thù nhưng thực chất đây là việc sửa đổi hợp
đồng bảo hiểm.
Thứ tư, nên sáp nhập các quy định về doanh nghiệp môi giới bảo hiểm và
đại lý bảo hiểm vào phần quy định về doanh nghiệp bảo hiểm để thành một
chương có tên gọi: các chủ thể kinh doanh bảo hiểm. Thiết nghĩ, đại lý bảo hiểm
nhân danh DNBH để thực hiện hoạt động kinh doanh bảo hiểm, nên phải là một
phần trong quy định về DNBH. Bên cạnh đó, hoạt động môi giới bảo hiểm phải
được coi là một nghiệp vụ kinh doanh bảo hiểm vì đây là một dịch vụ hết sức quan
trọng đối với thị trường bảo hiểm (tương tự như nghiệp vụ mơi giới chứng khốn
của cơng ty chứng khốn).
Thứ năm, những quy định về tài chính, hạch tốn, kế tốn và báo cáo tài
chính phải là một phần của chương về DNBH. Hoạt động tài chính của DNBH
mặc dù có những đặc thù, song khơng nên đặt thành một chương riêng, vì đây là
văn bản Luật điều chỉnh toàn diện về hoạt động kinh doanh bảo hiểm chứ không
chỉ riêng về DNBH.
Thứ sáu, không nên đặt riêng một chương về DNBH có vốn đầu tư nước
ngồi. Hiện nay, Việt Nam đã gia nhập WTO và thực hiện các cam kết bình đẳng
về địa vị pháp lý của các chủ thể kinh doanh, như vậy, việc đặt ra một chương điều
chỉnh riêng về DNBH có vốn đầu tư nước ngồi trong giai đoạn hiện nay là khơng
thoả đáng. Tuy nhiên, để nội luật hoá các cam kết quốc tế của Việt Nam, việc xây
dựng các quy định dành riêng cho hoạt động đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực bảo
hiểm vẫn rất cần thiết. Do đó, chương về DNBH và doanh nghiệp mơi giới bảo
hiểm có vốn đầu tư nước ngoài nên đổi tên thành “Những quy định về đầu tư nước
ngoài trong kinh doanh bảo hiểm” thiết nghĩ sẽ hợp lý hơn.
Như vậy, về cấu trúc của LKDBH có thể như sau:
Chương 1: Những quy định chung
Chương 2: Các chủ thể kinh doanh bảo hiểm
Chương 3: Các sản phẩm bảo hiểm
Chương 4: Những quy định về đầu tư nước ngoài trong kinh doanh bảo hiểm)
Chương 5: Những quy định khác (khen thưởng, xử lý vi phạm và điều khoản thi
hành)
3. Một số quy định bất cập chủ yếu và phương hướng sửa đổi
Thứ nhất, giữa Bộ luật dân sự (BLDS) và LKDBH không thống nhất trong
quy định trả tiền bảo hiểm khi người được bảo hiểm chết trong bảo hiểm con
người.
Trong BLDS năm 1995 và BLDS năm 2005, hợp đồng bảo hiểm cũng được
quy định như là một loại hợp đồng thông dụng. Tuy nhiên, trong những quy định
về hợp đồng bảo hiểm của BLDS, hoàn tồn khơng có quy định về người thụ
hưởng mà chỉ có quy định về người được bảo hiểm, nhưng khái niệm về người
được bảo hiểm cũng không được BLDS nêu ra. Tuy nhiên, người thụ hưởng là
một chủ thể liên quan rất quan trọng trong hợp đồng bảo hiểm con người. Điều
này tất yếu dẫn đến những vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật.
Tại Điều 582 BLDS năm 1995 quy định về bảo hiểm tính mạng có ghi
nhận: “Trong trường hợp bảo hiểm tính mạng, thì khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, bên
bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho bên được bảo hiểm hoặc người đại diện theo
uỷ quyền của họ; nếu bên được bảo hiểm chết, thì tiền bảo hiểm được trả cho
người thừa kế của bên được bảo hiểm”. Tuy nhiên trong LKDBH lại quy định,
người thụ hưởng là người được bên mua bảo hiểm chỉ định nhận tiền bảo hiểm
trong bảo hiểm con người và người thụ hưởng có thể khơng phải là người được
bảo hiểm. Như vậy, nếu người được bảo hiểm chết, theo quy định của BLDS, số
tiền bảo hiểm sẽ trả cho người thừa kế của người được bảo hiểm, còn theo quy
định của LKDBH, số tiền bảo hiểm sẽ trả cho người thụ hưởng, và có thể họ
khơng phải là người (hoặc những người) thừa kế của người được bảo hiểm. Sự bất
cập này vẫn được giữ nguyên mà không được sửa đổi trong BLDS năm 2005
(Điều 578). Thiết nghĩ, nên sửa đổi Điều 578 theo hướng, việc trả tiền bảo hiểm
phải theo thoả thuận, có thể trả cho người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng.
Nếu người được bảo hiểm chết mà không phải là người thụ hưởng, thì số tiền bảo
hiểm sẽ trả cho người thụ hưởng. Số tiền bảo hiểm chỉ được coi là di sản thừa kế
của người được bảo hiểm nếu khơng có người thụ hưởng. Quy định như vậy mới
đúng với mục đích của bên mua bảo hiểm trong bảo hiểm con người và cũng
không làm ảnh hưởng đến sự điều chỉnh các loại hợp đồng bảo hiểm khác.
Thứ hai, LKDBH cịn thiếu sự giải thích một số thuật ngữ rất phổ biến
trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ (ví dụ như thuật ngữ giá trị hồn lại và chi phí
hợp lý, v.v.), mặc dù những thuật ngữ này được sử dụng thường xuyên trong luật
và các văn bản dưới luật dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau. Bên cạnh đó có nhiều
thuật ngữ khác cũng có cách hiểu không thống nhất giữa các DNBH đã dẫn đến
việc hạn chế khả năng lựa chọn của khách hàng[1]. Các DNBH đã từng thảo luận
về việc thống nhất thuật ngữ, chứng tỏ đây là một nội dung hết sức quan trọng.[1]
Luật kinh doanh bảo hiểm nên quy định cụ thể các thuật ngữ phổ biến nhằm đảm
bảo việc áp dụng được thuận lợi hơn. Về nội dung này, xin được đề cập kỹ hơn
trong một bài viết khác.
Thứ ba, LKDBH chưa quy định hợp lý về việc chuyển nhượng hợp đồng
bảo hiểm con người. Bản chất của việc chuyển nhượng hợp đồng là việc một chủ
thể khác sẽ thay thế vị trí pháp lý của bên mua bảo hiểm trong hợp đồng. Bên mua
bảo hiểm có thể chuyển nhượng HĐBHNT cho người khác để tiếp tục duy trì hợp
đồng hoặc để có một khoản tiền nhất định hoặc khơng muốn hợp đồng chấm dứt
vì điều đó làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người thụ hưởng. Vấn đề này được
LKDBH quy định tại Điều 26, nhưng thực tế điều khoản này chỉ đủ với hợp đồng
bảo hiểm thiệt hại, khi mà bên mua bảo hiểm đồng thời là người được bảo hiểm
(vào thời điểm mua bảo hiểm). Đối với hợp đồng bảo hiểm con người, bên chuyển
nhượng (bên mua bảo hiểm) có thể khơng phải là người được bảo hiểm. Do vậy,
quá trình chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm con người có nhiều vấn đề nảy sinh
cần pháp luật quy định. Ví dụ: điều kiện đối người nhận chuyển nhượng như thế
nào, có cần có sự đồng ý của người được bảo hiểm hay không,v.v.. Những bổ sung
này rất quan trọng nhằm tránh những tranh chấp có thể xảy ra sau khi hợp đồng
được chuyển nhượng. Nếu khơng có quy định cụ thể, sẽ khó khăn khi xem xét
trách nhiệm của DNBH trong việc chấp thuận việc chuyển nhượng của bên mua
bảo hiểm. Trên thực tế, các DNBH đều thoả thuận với bên mua bảo hiểm về việc
không chịu trách nhiệm về tính hợp pháp của thoả thuận chuyển nhượng, từ đó
dẫn đến tình trạng DNBH chấp nhận việc chuyển nhượng để tiếp tục thu phí, đến
khi sự kiện bảo hiểm xảy ra lại từ chối trả tiền bảo hiểm mà chỉ hồn lại phí bảo
hiểm vì hợp đồng khơng cịn hiệu lực.
Việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm, mặc dù theo nguyên tắc thoả
thuận, phải có sự chấp thuận của DNBH, nhưng để đảm bảo quy định của pháp
luật về bên mua bảo hiểm, nên cần sửa đổi, bổ sung Điều 26 theo hướng phải quy
định cụ thể người nhận chuyển nhượng phải thoả mãn điều kiện là bên mua bảo
hiểm theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, vì việc chuyển nhượng hợp đồng
bảo hiểm con người không làm thay đổi người được bảo hiểm, nên việc chuyển
nhượng phải có sự đồng ý của chủ thể này. Nếu người được bảo hiểm khơng có
năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ hợp
pháp khác là điều kiện để chuyển nhượng hợp đồng.[1]
Thứ tư, khái niệm quyền lợi có thể được bảo hiểm khơng thật sự hợp lý với
bản chất của bảo hiểm con người. Theo quy định của LKDBH thì “quyền lợi có
thể được bảo hiểm là quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài
sản; quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm”.
Thực chất, quyền lợi có thể được bảo hiểm quy định như trên chỉ là những quyền
lợi vật chất thuần tuý của bên mua bảo hiểm đối với đối tượng bảo hiểm. Trên
thực tế, bảo hiểm con người không mang yếu tố bồi thường thiệt hại, mà là sự bù
đắp tổn thất tính mạng, sức khoẻ của người được bảo hiểm đối với chính người
này và người thân của họ (đồng thời có thể có yếu tố tiết kiệm như trong bảo hiểm
nhân thọ chẳng hạn). Chính vì vậy, những lợi ích tinh thần cần phải được đánh giá
đúng mức nhằm xác định quyền lợi có thể được bảo hiểm như quan hệ hôn phối,
quan hệ ông bà với cháu, giữa chủ sử dụng lao động và người lao động v.v.., trong
bảo hiểm con người.[1]
Trong LKDBH, cũng đã có quy định cụ thể về việc bên mua bảo hiểm có
thể mua bảo hiểm cho những ai. Nhà làm luật có dự liệu mở là bên mua bảo hiểm
có thể mua bảo hiểm cho “người khác, nếu bên mua bảo hiểm có quyền lợi có thể
được bảo hiểm”, nhưng nếu căn cứ vào khái niệm quyền lợi có thể được bảo hiểm
trong LKDBH, thì những đối tượng này bị bó hẹp rất nhiều. Điều đó tất yếu dẫn
đến hai hệ quả: thứ nhất, làm hạn chế sự mở rộng hợp lý thị trường bảo hiểm con
người; thứ hai, có thể DNBH sẽ cung cấp sản phẩm bảo hiểm cho bên mua bảo
hiểm khơng có quyền lợi có thể được bảo hiểm theo quy định của pháp luật tức là
đã vi phạm pháp luật. Do vậy, cần phân tách rõ giữa quyền lợi có thể được bảo
hiểm của bảo hiểm thiệt hại và bảo hiểm con người. Đối với hợp đồng bảo hiểm
tài sản và hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự, quyền lợi có thể được bảo hiểm
là quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài sản đối với đối tượng
bảo hiểm. Đối với hợp đồng bảo hiểm con người, quyền lợi có thể được bảo hiểm
là quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng và các quyền lợi khác đối với người
được bảo hiểm, nếu được doanh nghiệp bảo hiểm chấp thuận hoặc pháp luật có
quy định.[1]
Thứ năm, LKDBH có những quy định mâu thuẫn liên quan đến hành vi lừa
dối khi giao kết hợp đồng bảo hiểm. Theo quy định tại Điều 19 LKDBH thì nếu
một bên cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm thì
bên kia có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng. Nếu bên mua bảo hiểm
cung cấp thông tin sai sự thật thì DNBH có quyền thu phí bảo hiểm đến thời điểm
đình chỉ hợp đồng. Ngược lại, nếu doanh nghiệp cung cấp thông tin sai sự thật mà
gây thiệt hại cho bên mua bảo hiểm thì bên mua bảo hiểm có quyền địi bồi
thường. Việc cung cấp thơng tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm về
bản chất là hành vi lừa dối khi giao kết hợp đồng. Tuy nhiên tại Điều 22 của
LKDBH lại quy định nếu một bên có hành vi lừa dối thì hợp đồng vô hiệu và được
xử lý theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định pháp luật liên quan. Theo
quy định của Bộ luật dân sự, nếu hợp đồng vơ hiệu thì các bên hồn trả cho nhau
những gì đã nhận, bên nào có lỗi thì phải bồi thường thiệt hại. Rõ ràng cùng một
vấn đề đã có hai cách xử lý khác nhau cùng được quy định trong LKDBH.
Về mặt lý luận, nếu có hành vi lừa dối khi giao kết hợp đồng thì hợp đồng
đó phải vơ hiệu vì đã khơng tn thủ ngun tắc trung thực khi giao kết. Bộ luật
dân sự năm 2005 quy định, nếu một bên bị lừa dối thì có quyền u cầu Tồ án
tun bố hợp đồng vơ hiệu trong thời hạn một năm, kể từ ngày ký kết hợp đồng
(Điều 142 và Điều 145). Vì vậy, việc cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết
hợp đồng bảo hiểm khơng thể dẫn đến hành vi đình chỉ thực hiện hợp đồng. Chính
vì vậy, đề nghị sửa đổi Điều 19 khoản 2 và khoản 3 theo hướng: bỏ khoản 3 Điều
19 và sửa đổi khoản 2 Điều 19 điểm a bằng cách bỏ cụm từ “nhằm giao kết hợp
đồng bảo hiểm”. Khi đó, Điều 19 khoản 2 chỉ áp dụng cho trường hợp bên mua
bảo hiểm thực hiện nghĩa vụ cung cấp cung cấp thông tin khi thực hiện hợp đồng,
cịn nếu các bên cung cấp thơng tin sai sự thật để giao kết hợp đồng, sẽ áp dụng
quy định tại Điều 22.
Thứ sáu, LKDBH không phân biệt sự thay đổi của yếu tố làm cơ sở
xác định phí bảo hiểm là do nguyên nhân khách quan hay chủ quan. [1]
Tại khoản 2 Điều 20 LKDBH có quy định: “Khi có sự thay đổi những yếu
tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm, dẫn đến tăng các rủi ro được bảo hiểm thì
DNBH có quyền tính lại phí bảo hiểm cho thời gian còn lại của hợp đồng bảo
hiểm. Trong trường hợp bên mua bảo hiểm khơng chấp nhận tăng phí bảo hiểm thì
DNBH có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm, nhưng phải
thông báo ngay bằng văn bản cho bên mua bảo hiểm”.
Quy định như vậy sẽ gây thiệt thòi cho bên mua bảo hiểm hoặc người thụ hưởng.
Thiết nghĩ, trong trường hợp có những yếu tố làm tăng mức độ rủi ro, cần thiết
phải phân biệt là do nguyên nhân khách quan hay nguyên nhân chủ quan. Nếu
mức độ rủi ro tăng lên do yếu tố chủ quan, ví dụ người được bảo hiểm tham gia
những cơng việc có tính chất độc hại, nguy hiểm hoặc có nếp sinh hoạt ngày càng
khơng điều độ, có ý thức trong việc gây giảm sút sức khoẻ chính mình v.v., thì
DNBH có quyền tăng phí bảo hiểm. Ngược lại, nếu rủi ro tăng lên do nguyên nhân
khách quan như ơ nhiễm mơi trường, biến đổi khí hậu v.v., DNBH khơng thể
đương nhiên lấy đó là căn cứ tăng phí bảo hiểm, trừ trường hợp có thoả thuận với
bên mua bảo hiểm. Rõ ràng trong quan hệ bảo hiểm, tính khơng xác định chính là
một trong những yếu tố của rủi ro, là động cơ để bên mua bảo hiểm giao kết hợp
đồng. DNBH khơng thể vì quyền lợi của riêng mình mà tự ý tăng phí bảo hiểm
hoặc đình chỉ hợp đồng khi nguyên nhân làm tăng yếu tố rủi ro là khách quan. Do
vậy, điều 20 khoản 2 LKDBH nên quy định theo hướng: Khi có sự thay đổi những
yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm mà nguyên nhân từ phía bên mua bảo hiểm
hoặc người được bảo hiểm, dẫn đến tăng các rủi ro được bảo hiểm thì doanh
nghiệp bảo hiểm có quyền tính lại phí bảo hiểm cho thời gian cịn lại của hợp đồng
bảo hiểm. Trong trường hợp này, bên mua bảo hiểm khơng chấp nhận tăng phí bảo
hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp
đồng bảo hiểm, nhưng phải thơng báo ngay bằng văn bản cho bên mua bảo hiểm./.
NGUỒN: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP, SỐ THÁNG 9/2008
[1] Xem: Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam (2008), Báo cáo Tổng quan thị trường bảo
hiểm Việt Nam năm 2007
[2] Xem Quyết đinh 96/2007/QĐ-BTC của Bộ tài chính ngày 23/11/2007đã cho
phép thực hiện các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ liên kết đầu tư (vừa là bảo hiểm,
vừa là đầu tư từ số phí bảo hiểm với nhiều hình thức đầu tư đa dạng)
[3] Xem: Bộ Thương mại, Biểu cam kết dịch vụ của Việt Nam gia nhập WTO
(Bản tiếng Việt)