Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Rèn kĩ năng nói, viết trong phân môn tập làm văn lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.93 KB, 14 trang )

MỤC LỤC
Mục lục…………………………………………………………………………..………1
1.PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................................2
1.1. Lí do chọn sáng kiến.................................................................................................2
1.2. Điểm mới của sáng kiến............................................................................................2
2. PHẦN NỘI DUNG……………………………………………………………….......3
2.1. Thực trạng của vấn đề..……………………………………………………………3
2.1.1. Thuận lợi……………………………………………………………………...…...3
2.1.2. Khó khăn ………………………………………………………………………….3
2.2. Các biện pháp chủ yếu để giúp học sinh lớp 3 rèn kỹ năng nói, viết trong phân
môn Tập làm văn..............................................................................................................4
2.2.1.Biện pháp 1: Hướng dẫn học sinh xác định đúng yêu cầu của bài tập..............4
2.2.2. Biện pháp 2: Hướng dẫn tìm hiểu các gợi ý……………………………………….4
2.2.3. Biện pháp 3:Hướng dẫn học sinh lập bản đồ tư duy……….……………………...4
2.2.4. Biện pháp 4: Chú ý đến từng dạng bài tập làm văn để có phương pháp dẫn dắt học
sinh hợp lí…………………………………………………………………………….…..5
2.2.5. Biện pháp 5: Hướng dẫn học sinh liên tưởng và diễn đạt..………………………..9
2.2.6. Biện pháp 6: Sửa câu, từ và cách liên kết trong đoạn văn……………………......10
2.2.7. Biện pháp 7: Tạo niềm say mê khám phá kiến thức, tạo không khí vui vẻ, sôi
động, hào hứng trong tiết học……………………..…………….………………………11
2.2.8. Biện pháp 8: Dạy học theo quan điểm giao tiếp………………………….............11
2.3. Kết quả………………………………………………………………..……………12
3. PHẦN KẾT LUẬN…………………...……………………………………………..13
3.1. Kết luận....................................................................................................................13
3.2. Kiến nghị ……………………………………………………….…………………14
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1


GIÚP HỌC SINH LỚP 3 RÈN KĨ NĂNG NÓI, VIẾT
TRONG PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN


1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn sáng kiến
Căn cứ vào mục tiêu giáo dục của môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học là nhằm hình
thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để
học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi, góp phần rèn luyện các
thao tác của tư duy. Phân môn Tập làm văn ở Tiểu học có nhiệm vụ quan trọng đối với
học sinh là rèn kĩ năng nói, viết, giao tiếp, ... Nói và viết hỗ trợ rất nhiều cho các môn
học khác. Nhận thấy kĩ năng tiếp thu nói và viết của học sinh còn nhiều hạn chế, đặc biệt
khó hơn là trong phân môn Tập làm văn bởi đặc thù của môn học phải hình thành và rèn
cho học sinh khả năng nói và viết một văn bản ở nhiều thể loại khác nhau. Ở lớp 2, học
sinh mới bước đầu làm quen với môn học này, viết một đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu
qua hình thức quan sát tranh ảnh, nghe chuyện, ... Nhưng bước sang lớp 3 kỹ năng hình
thành một đoạn văn yêu cầu cao hơn từ 5 đến 7 câu, rồi 7 đến 10 câu. Nhưng thực tế
hiện nay, phần đa học sinh đều không hứng thú học phân môn Tập làm văn vì các em
nghĩ rằng: Mình sẽ không biết nói gì, viết gì? để hoàn thành một đoạn văn ngắn theo yêu
câu đề bài. Bên cạnh đó, học sinh còn tập kể lại được những mẫu chuyện được nghe
thầy, cô kể trên lớp. Qua từng nội dung bài dạy, phân môn Tập làm văn nhằm bồi dưỡng
cho học sinh năng lực sử dụng Tiếng Việt, thái độ ứng xử có văn hoá, tinh thần trách
nhiệm trong công việc, bồi dưỡng tình cảm lành mạnh tốt đẹp cho học sinh.
Để thực hiện tốt mục tiêu của môn học đòi hỏi người thầy phải biết vận dung linh
hoạt, sáng tạo các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học sao cho phù hợp với khả
năng sử dụng ngôn ngữ và tâm lí lứa tuổi học sinh để giờ học diễn ra tự nhiên nhẹ nhàng
và có hiệu quả. Trong giảng dạy giáo viên phải có nghệ thuật sư phạm, biết dẫn dắt, gợi
mở đưa học sinh giải quyết các tình huống và thông qua việc xử lí các tình huống đó học
sinh lĩnh hội được kiến thức bài.
Qua thực tế giảng dạy các tiết Tập làm văn cũng như dự giờ các đồng nghiệp, tôi
nhận thấy học sinh còn rụt rè, ngại khi nói và viết về các chủ đề được học do vốn từ còn
hạn chế. Chính vì lí do đó, tôi tiến hành nghiên cứu và thực hiện sáng kiến kinh nghiệm:
“ Giúp học sinh lớp 3 rèn kỹ năng nói, viết trong phân môn Tập làm văn”.
1.2. Điểm mới của sáng kiến

Sáng kiến kinh nghiệm “ Giúp học sinh lớp 3 rèn kỹ năng nói, viết trong phân môn
Tập làm văn” đề cập đến một vấn đề không mới nhưng có tính cấp thiết trong việc nâng
2


cao chất lượng giảng dạy trong các nhà trường. Trước đó cũng đã có nhiều đồng nghiệp
đề cập đến vấn đề này song đối với đề tài mà tôi nghiên cứu lại có những điểm mới như:
- Các biện pháp mà tôi đưa ra sát với thực tế giảng dạy tại trường và phù hợp với đặc
điểm đối tượng học sinh của trường tôi.
- Cách phân loại từng loại bài trong phân môn Tập làm văn để đưa ra những biện pháp
phù hợp cũng là điểm riêng của sáng kiến.
- Trong quá trình giảng dạy, tôi lựa chọn những ví dụ sát với thực tiễn và gần gũi với học
sinh.
2. NỘI DUNG
2.1. Thực trạng của vấn đề:
2.1.1. Thuận lợi:
- Trường có đội ngũ cán bộ, giáo viên đạt chuẩn về trình độ kiến thức, trẻ khỏe và giàu
tâm huyết.
- Học sinh đa số là con em trong xã và có tinh thần hiếu học.
- Được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp, Ban giám hiệu nhà trường luôn đi sâu đi sát và
tạo mọi điều kiện tốt cho giáo viên trong công tác giảng dạy.
- Cách đánh giá học sinh theo tinh thần của Thông tư 22/2016 có tính nhân văn giúp học
sinh mạnh dạn, tự tin và có hứng thú học tập hơn.
- Cơ sở vật chất ở các lớp tương đối đầy đủ tiện nghi, bàn ghế, phòng học.
- Nội dung chương trình môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng
rất phong phú; kênh hình trong sách giáo khoa Tiếng Việt được trình bày phù hợp với
từng nội dung bài học và tâm sinh lí lứa tuổi các em.
- Học sinh đã nắm vững kiến thức, kĩ năng tạo lập văn bản, kể chuyện, miêu tả từ các
lớp dưới. Đây là cơ sở giúp các em học tốt phân môn Tập làm văn lớp 3.
2.1.2. Khó khăn

- Việc tổ chức dạy các giờ Tập làm văn (được coi là dạy mẫu ) ở trường của chúng tôi
chưa nhiều nên giáo viên chưa có cơ hội để học tâp lẫn nhau nhằm nâng cao năng lực
giảng dạy.
- Hình thức, phương pháp dạy học theo hướng đổi mới làm cho nhiều giáo viên lúng
túng trong quá trình lên lớp, nhiều giáo viên phụ thuộc, rập khuôn theo sách giáo khoa,
hay áp đặt học sinh,…
- Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của học sinh lớp 3 tiếp thu nhanh nhưng cũng nhanh
quên, mức độ tập trung học tập chưa cao, vốn ngôn ngữ của các em chưa nhiều, các em
còn mãi chơi nhiều hơn học.
- Môn Tập làm văn là một môn khó, nhiều em còn ngại học văn, lười suy nghĩ nên ở các
giờ học các em còn ngại phát biểu, viết bài qua loa cho xong chuyện. Cách dùng từ đặt
câu chưa đúng, viết đoạn văn còn nghèo ý.
3


- Việc tổ chức học tập trên lớp của giáo viên chưa phát huy được vốn ngôn ngữ vốn có
của các em cũng như chưa khơi dậy ở học sinh sự mạnh dạn tự tin trong học tập.
- Địa bàn dân cư nơi trường chúng tôi đóng chân rộng với phần đông gia đình học sinh
có đời sống còn khó khăn, một số gia đình chưa có nhiều điều kiện quan tâm đến việc
học của con em mình.
Trước khi thực hiện sáng kiến, tôi trực tiếp khảo sát phân môn Tập làm văn của lớp tôi giảng dạy có
kết quả như sau:

Kết quả thực hành của học sinh
Thời gian tiến
hành

Tên đề bài

Lớp


Tổn
g số
học
sinh

Hoàn
thành tốt
SL TL

Ngày 07/9/2017
(Tuần 3)

Kể về gia đình

Ngày 15/9/2017 Nghe kể lại câu chuyện
(Tuần 4)
“Dại gì mà đổi”

Hoàn
thành
SL TL

Chưa
hoàn
thành
SL

TL


3C

26

2

7.7

18

69.2

6

23.1

3C

26

3

11.5

16

61.5

7


27

2.2. Các biện pháp chủ yếu để giúp học sinh lớp 3 rèn kỹ năng nói, viết trong phân
môn Tập làm văn
2.2.1. Biện pháp 1: Hướng dẫn học sinh xác định đúng yêu cầu của bài tập
Để giúp học sinh xác định đúng yêu cầu của bài tập, trước hết người giáo viên cần
nắm rõ cấu trúc của phân môn Tập làm văn lớp 3.
Về cấu trúc phân môn Tập làm văn trong SGK Tiếng Việt 3 có 54 bài tập. Số lượng
bài tập ít hơn so với SGK Tiếng Việt 2 đối với phân môn Tập làm văn nhưng nội dung
có hệ thống cao hơn lớp 2. Mỗi bài học được trình bày từ 1 đến 2 bài tập - gồm bài tập
rèn luyện kỹ năng nói và bài tập rèn kỹ năng viết trong đó bài tập rèn kỹ năng nói
chiếm hơn 70% nhất là kiểu bài “Nghe - kể lại chuyện” và “Kể hay nói, viết về một chủ
đề”. Đối với hai dạng bài này thì nội dung được phân bổ như sau:
- Dạng bài “Kể hay nói, viết về một chủ đề gồm có 16 bài tập, như: Nói về Đội TNTP;
Nói về thành thị hoặc nông thôn; Nói về quê hương; Nói ,viết về cảnh đẹp đất nước...
- Dạng bài “Nghe - kể lại chuyện” gồm có 10 bài tập, như: Nghe - kể: Dại gì mà đổi;
Nghe - kể: Không nỡ nhìn; Nghe - kể: Tôi cũng như bác; Nghe - kể: Giấu cày...
Nội dung kiến thức và yêu cầu rèn luyện kỹ năng ở phân môn Tập làm văn lớp 3 khá
khó, nhiều bài tập mang tính thực hành từ thực tế xung quanh các em như: Kể về gia
4


đình mình; Nói, viết về thành thị hoặc nông thôn; Kể về một trận thi đấu thể thao..... Qua
đó, học sinh hình thành được các kỹ năng tạo lập văn bản (từ chỗ nói theo những câu
hỏi gợi ý hoặc kể về gia đình, người thân đến viết một văn bản trọn vẹn). Muốn dạy Tập
làm văn cho học sinh có hiệu quả, giáo viên cần nắm rõ mục tiêu, nội dung bài học, lựa
chọn và phối hợp các phương pháp dạy học; các hình thức dạy học phù hợp với yêu cầu
của từng bài.
Bên cạnh đó, ở mỗi yêu cầu của từng loại bài tập làm văn nói – viết, giáo viên cần
cho học sinh tự xác định rõ yêu cầu các bài tập. Giúp học sinh tự xác định đúng yêu cầu

bài tập để khi thực hành các em sẽ không chệch hướng, đảm bảo đúng nội dung đề tài
cần luyện tập.
2.2.2. Biện pháp 2: Hướng dẫn tìm hiểu các gợi ý
Sau khi xác định được yêu cầu bài tập, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu các câu
hỏi gợi ý để các em nói hoặc viết đúng trọng tâm nội dung, trình bày đoạn văn rõ ràng,
mạch lạc, đủ ý, đúng từ, tránh lan man. Việc tìm hiểu nội dung các câu hỏi gợi ý cũng sẽ
giúp các em hình dung được toàn bộ bài nói hoặc viết của mình, tránh được sự trùng lặp
ý văn.
Giáo viên có thể tổ chức học sinh tìm hiểu các câu hỏi gợi ý bằng cách cho học sinh
cũng thảo luận để nói cho nhau nghe suy nghĩ, tình cảm của bản thân về chủ đề được
nhắc đến, từ đó các em cũng có thể sửa lỗi cho bạn và học tập cái hay từ bạn.
Ví dụ: Khi dạy bài Nghe – kể : Dại gì mà đổi, Tiếng Việt 3, tập 1, trang 36.
Đây là dạng bài nghe – kể lại nội dung câu chuyện, trước khi kể mẫu câu chuyện, giáo
viên có thể hướng dẫn HS gợi ý theo các câu hỏi trong sách giáo khoa và có thể giáo
viên dặt thêm một số câu hỏi nữa như:
a. Câu chuyện có những nhân vật nào?
b. Vì sao mẹ dọa đổi cậu bé?
c. Cậu bé trả lời mẹ như thế nào?
d. Vì sao cậu bé nghĩ như vậy?
Khi tìm hiểu gợi ý đó, học sinh có thể hình dung ra câu chuyện có những nhân vật
nào? Câu chuyện xảy ra ở đâu? Lời đối thoại của mẹ và cậu bé có gì đáng chú ý? để từ
đó học sinh dự đoán về nội dung câu chuyện sẽ được nghe và kể lại. Hơn nữa, khi tìm
hiểu các gợi ý sẽ kích thích sự tò mò, hứng thú và học sinh sẽ lắng nghe tích cực hơn để
kiểm chứng và đối chiếu lại với những dự đoán của mình trước đó. Chính điều này sẽ
giúp các em nhanh ghi nhớ câu chuyện hơn.
5


2.2.3. Biện pháp 3: Hướng dẫn học sinh lập bản đồ tư duy
Ví dụ khi dạy tiết tập làm văn: Kể về gia đình ( Bài 1- Tiếng Việt 3, tập một, trang

28), Giáo viên có thể treo bản đồ tư duy để học sinh quan sát, giới thiệu cho học sinh về
một số từ ngữ liên quan đến gia đình như:
Bố, mẹ

bảo ban, đùm bọc

( giáo viên, nông dân…)
(chăm sóc, yêu thương…)

Anh, chị
( sinh viên, học sinh…)

Gia đình

Ông, bà
( yêu thương, hiền
lành…)

Em

hạnh phúc, đầm ấm

( đoàn kết, giúp đỡ…)

( còn nhỏ, mẫu giáo ….)
( ngoan ngoãn…)

Theo đó, học sinh quan sát bản đồ tư duy để tự suy nghĩ và hồi tưởng.
Giáo viên nên chú ý hướng dẫn học sinh đánh số thứ tự cho các ý tìm được, lưu ý
trình tự chung của thể loại văn đang làm và hướng dẫn có tính chất mở (đoạn văn miêu

tả thì lưu ý những chi tiết nào có ý nghĩa giới thiệu chung thì nói trước, ý nào miêu tả
chi tiết, cụ thể thì nói sau).
- Mỗi học sinh xem lại các ý trong bản đồ tư duy và đánh số thứ tự.
- Yêu cầu một vài học sinh lên thể hiện trước lớp để cả lớp theo dõi việc làm mẫu của
một số học sinh. Ngoài các bản đồ tư duy làm mẫu, giáo viên vẽ sẵn trên bảng các bản
đồ tư duy tương tự và che chúng lại hoặc xóa đi một số ý để học sinh ghi nhớ và sáng
tạo thêm.
Các tiết học sau, giáo viên có thể hướng dẫn cho học sinh chuẩn bị trước bản đồ tư
duy ở nhà thông qua một số bài học đã được học để các em chủ động hơn về vốn từ ngữ
và nội dung nói hoặc viết.
2.2.4. Biện pháp 4: Chú ý từng dạng bài tập làm văn để có phương pháp dẫn dắt học
sinh hợp lí
Như đã tìm hiểu phần cấu trúc thiết kế các bài tập làm văn ở lớp 3, khi dạy dang bài
nghe - kể lại câu chuyện giáo viên cần lưu ý:
- Tuỳ vào tình hình của lớp, trình độ học sinh để chọn cách dạy phù hợp nhất.

6


- Cho dù dạy theo cách nào, giáo viên cũng phải có sự chuẩn bị bài trước (Tranh ảnh
phục vụ nội dung truyện hoặc xây dựng bản đồ tư duy (Phiếu bài tập) để giờ học sinh
động, gây hứng thú học tập cho học sinh hơn.
- Chú ý giao việc cho học sinh rõ ràng đặc biệt là khi hoạt động nhóm và nên theo dõi
kèm cặp thêm cho học sinh còn lúng túng, tạo cho các niềm tin, mạnh dạn hơn trong học
tập.
Ví dụ 1: Dạng bài nghe - kể lại câu chuyện.
Nghe - kể lại câu chuyện: Không nỡ nhìn (BT1- SGK - TV3 - Tập 1 - Tr.61)
Nội dung câu chuyện trong sách giáo viên như sau: “Trên một chuyến xe buýt đông
người, có anh thanh niên đang ngồi cứ lấy hai tay ôm mặt. Một bà cụ ngồi bên thấy thế
bèn hỏi:

- Cháu nhức đầu à? Có cần dầu xoa không?
Anh thanh niên nói nhỏ:
- Không ạ. Cháu không nỡ nhìn các cụ già và phụ nữ phải đứng.”
1.Chuẩn bị :
- Tranh vẽ ở sách giáo khoa phóng to
- Phiếu học tập: Sơ đồ trình tự câu chuyện
2. Cách tiến hành:
- Giáo viên kể chuyện lần một và hỏi học sinh: Câu chuyện có mấy nhân vật? Câu
chuyện xảy ra ở đâu? học sinh sẽ trả lời:
+ Câu chuyện có hai nhân vật
+ Chuyện xảy ra trên chuyến xe buýt.
- Giáo viên kể chuyện lần hai, học sinh nghe rồi hoàn thành các sự kiện trong khung còn
trống của sơ đồ trình tự câu chuyện trên phiếu học tập.(Học sinh hoạt động theo nhóm 4)
Ví dụ:

7


Anh thanh
niên

Trên xe buýt

Tay ôm
mặt

Cháu không
nỡ nhìn

Bà cụ


- Học sinh dựa vào trình tự câu chuyện để kể lại chuyện trong nhóm.
- Gọi đại diện các nhóm kể chuyện trước lớp.
- Cả lớp theo dõi nhận xét diễn biến của chuyện, giáo viên bổ sung.
- Cho học sinh trao đổi về tính khôi hài của chuyện: Anh thanh niên trên chuyến xe buýt
không biết nhường chỗ cho người già, phụ nữ mà lại che mặt và giải thích rất buồn cười
là không nỡ nhìn các cụ già và phụ nữ phải đứng.
- Cho học sinh liên hệ thực tế bản thân: Nếu gặp người như anh thanh niên trên chuyến
xe đó thì em sẽ làm gì?
- Giáo viên nhận xét chung .
Hay dạng bài nói hay viết về một chủ đề: Nội dung các bài tập thuộc dạng bài này
nhằm rèn cho học sinh kỹ năng diễn đạt bằng lời nói (viết) về một chủ đề nào đó. Giáo
viên có thể tìm hiểu qua ví dụ sau.
Ví dụ 2: Dạng bài nói về một chủ đề.
Đề bài: Nói về quê hương em (BT2-Tiếng Việt 3, tập 1- Trang 92)
1. Chuẩn bị: Phiếu học tập
a. Hoàn thành bảng dưới đây
Tên bài đọc
Giọng quê hương

Quê hương là...

Chi tiết làm em xúc động nhất

...................................... ..............................................................
...................................... ..............................................................

Quê hương

.....................................


...............................................................
8


Đất quý, đất yêu

Vẽ quê hương

.....................................

..............................................................

.....................................

.............................................................

.....................................

.............................................................

.....................................

...............................................................

.....................................

..............................................................

b. Đánh dấu X trước mỗi câu nếu em đồng ý, đánh XX trước mỗi câu nếu em rất đồng ý.

Qua các bài đọc trên em thấy quê hương:
+ Là tất cả những gì gần gũi, thân thương đối với mình. 
+ Là nơi mình sinh ra và lớn lên. 
+ Là những điều mình có thể nghe, có thể thấy, có thể sờ, có thể nếm. 
+ Là cái gì đó mà khi xa mình thấy nhớ thương. 
c. Các em hãy liên hệ về quê hương mình (theo các gợi ý sau).
Quê em ở đâu? Em yêu nhất cảnh vật gì ở quê hương? Cảnh vật đó có gì đáng nhớ?
Tình cảm của em đối với quê hương như thế nào?
2. Cách tiến hành:
Hoạt động 1: Giúp HS tìm hiểu yêu cầu của đề bài và chuẩn bị thông tin ý tưởng để
nói. Trước hết, giáo viên phát phiếu học tập cho học sinh và dẫn dắt học sinh hoàn thành
bài tập a, b trên phiếu (theo nhóm).
- Treo bảng phụ có ghi các bài tập a, b trên bảng. Cho các nhóm tự nêu kết quả bài làm
của mình, các nhóm khác nhận xét, GV bổ sung hoàn thành bài tập.
Hoạt động 2: Học sinh tập trung động não nghĩ về quê hương đã xác định trong bản
đồ tư duy và viết ra bất kì những từ ngữ nào liên quan đến quê hương mà mình đang
nghĩ tới.
- Giáo viên treo bài tập c (ghi sẵn ở bảng phụ) lên bảng kèm với lời dẫn dắt để kích thích
học sinh hồi tưởng.
- Học sinh làm vào giấy nháp; có thể để hai học sinh làm vào phiếu bài tập lớn rồi sau
đó ghi ra bất kì ý tưởng nào của mình có được xung quanh chủ đề ấy (lưư ý HS chỉ ghi
từ hoặc cụm từ).
9


Ví dụ:
ngôi nhà

con sông


nông thôn

vườn bách thú

Quê hương em

đường phố

thành phố

cây đa, giếng nước

nhà cao tầng

Hoạt động 3: HS đánh số thứ tự các ý mình vừa tìm được, giáo viên hướng dẫn các
em sắp xếp các ý bằng số thứ tự 1,2,3.
- Giáo viên bao quát lớp đặc biệt là chú ý học sinh còn lúng túng để giúp các em điều
chỉnh.
Hoạt động 4: HS nhìn sơ đồ của mình và nói : Cho hai em nói mẫu trước lớp.
Ví dụ : Em sinh ra và lớp lên ở một làng thuần nông thuộc xã ….. . Quê hương em
thật là đẹp. Bên đình có cây đa cổ thụ che bóng rợp cả một vùng, chúng em thường đến
đó vui chơi vào những ngày hè. Đến vụ mùa, cánh đồng lúa chín vàng như một tấm
thảm khổng lồ trải dài vô tận. Con kênh nhỏ uốn quanh làng tạo thêm không khí mát mẻ.
Được thả diều cũng lũ bạn vào mỗi chiều cuối hè là niềm vui của tụi nhỏ chúng em. Em
rất yêu quê hương của mình.
- Cả lớp nhận xét, giáo viên nhận xét, bổ sung.
Hoạt động 5: Học sinh nói theo cặp (hoặc nhóm 4). Giáo viên bao quát lớp đặc biệt
lưu ý giúp học sinh gặp khó khăn.
Hoạt động 6: Học sinh nói, thể hiện trước lớp:
- Đại diện các nhóm chia sẻ bài nói trước lớp. Chú ý cho học sinh còn gặp khó khăn

được thể hiện để rèn thêm cho các em kỹ năng diễn đạt.
- Tổ chức cho học sinh thể hiện mở rộng cảm xúc về quê hương mình. Khuyến khích
học sinh tự tìm đặt thêm câu hỏi mở rộng. Học sinh cùng giáo viên nhận xét. Hướng dẫn
học sinh học tập những bài nói hay.
2.2.5. Biện pháp 5: Hướng dẫn học sinh liên tưởng và diễn đạt.
Nếu trong một bài tập làm văn mà học sinh chỉ biết diễn đạt nội dung bằng những gì
đã quan sát hoặc thực hành một cách chính xác theo các gợi ý thì bài viết chỉ đủ ý mà
không có sức lôi cuốn, hấp dẫn người đọc, người nghe. Vì vậy, với những đề bài khác
10


nhau, giáo viên nên có những câu hỏi gợi ý, khuyến khích học sinh liên tưởng, tưởng
tượng thêm những chi tiết một cách tự nhiên, chân thật và hợp lí qua việc sử dụng các
biện pháp so sánh, nhân hóa để từ đó học sinh biết trình bày bài văn giàu hình ảnh, sinh
động, sáng tạo.
2.2.6. Biện pháp 6: Sửa câu, từ và cách liên kết trong đoạn văn
Bài văn thực hành của học sinh lớp 3 tuy có ý tưởng, nhưng vẫn còn nhiều sai sót về
diễn đạt từ và câu. Vì vậy, khi học sinh trình bày, giáo viên phải hết sức chú ý lắng nghe,
ghi nhận những ý tưởng hay, ý có sáng tạo của học sinh để khen ngợi; đồng thời phát
hiện những sai sót để sửa chữa. Giáo viên cần đặt ra tiêu chí nhận xét thật cụ thể để học
sinh làm cơ sở lắng nghe bạn trình bày; phát hiện những từ, ý, câu văn hay của bạn để
học hỏi và những hạn chế của bạn để góp ý, sửa sai.
Nhưng để có một đoạn văn mạch lạc rõ ràng, ý tưởng liên kết chặt chẽ nhau thu hút
được người đọc; giáo viên cần giúp các em biết viết đoạn văn có mở và kết đoạn, biết
dùng từ liên kết câu, dùng câu liên kết đoạn một cách hợp lí và sáng tạo. Đối với bài văn
kể về một việc làm một hoạt động nào đó, giáo viên cần khuyến khích học sinh sử dụng
những từ liên kết câu thể hiện trình tự diễn biến của sự việc như: “đầu tiên”; “kế tiếp”;
“sau đó”; “cuối cùng”… để đoạn văn gắn kết chặt chẽ liên tục từng ý với nhau. Do đặt
điểm lứa tuổi và trình độ từng đối tượng học sinh không đồng đều nhau nên các em chưa
hiểu nhiều về từ, câu liên kết trong đoạn văn viết nên giáo viên cần hướng dẫn bằng

những gợi ý giản đơn dễ hiểu, có thể cho học sinh khá giỏi làm mẫu để giúp các em
trình bày tốt hơn đoạn văn viết của mình. Trong việc hướng dẫn học sinh sửa chữa bài
viết, giáo viên cần đưa ra tiêu chí đánh giá cụ thể giúp học sinh phát hiện những đoạn
văn hay.
2.2.7. Biện pháp 7: Tạo niềm say mê khám phá kiến thức, tạo không khí vui vẻ, sôi
động, hào hứng trong tiết học
Để tạo nên một không khí sinh động và lôi cuốn học sinh trong các giờ học là điều
không dễ dàng. Nhưng làm được điều đó giáo viên không chỉ làm chủ kiến thức trong
lĩnh vực dạy học của mình mà cần có phương pháp sư phạm thích hợp để phát huy tính
chủ động của học sinh. Đổi mới phương pháp là đổi mới hình thức tổ chức dạy học để
tạo một sự tương ứng cần thiết. Mỗi hình thức tổ chức dạy học đều có tác dụng tích cực
để phát triển học sinh ở một khía cạnh nào đó. Vì vậy mỗi GV cần biết kết hợp nhiều
hình thức tổ chức để phát huy thế mạnh của từng học sinh. Phương pháp dạy học mới,
đòi hỏi phải có hình thức tổ chức dạy học tạo cơ hội cho học sinh suy nghĩ làm việc, trao
đổi thảo luận với nhau nhiều hơn… nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, độc lập của
học sinh.
Khi dạy bài Tập làm văn Nghe - kể: Dại gì mà đổi (Tuần 4)
11


Ở tiết Tập làm văn này, GV cần kể đúng nội dung câu chuyện, thể hiện được điệu bộ,
cử chỉ hấp dẫn lôi cuốn học sinh ngay từ phát ban đầu: Thể hiện được giọng kể lời nói
nghiêm khắc của người mẹ, lời nói vô tư ngộ nghĩnh của cậu bé 4 tuổi khi trả lời câu nói
của người mẹ.
- Lập kế hoạch cho hình thức dạy học, GV chọn hình thức dạy học phù hợp nhằm lôi
cuốn HS vào các hoạt động học tập tích cực, chủ động và sáng tạo. Tạo cho học sinh
không khí thoải mái, mạnh dạn tự tin khi thảo luận, đàm thoại một cách tự nhiên đúng
chủ điểm trọng tâm của bài học.Từ đó rèn cho học sinh khả năng diễn đạt những ý kiến
theo lối suy nghĩ, cảm xúc của mình, thể hiện thái độ yêu ghét, trân trọng , thẳn thắn phê
phán… Thực hiện được những biện pháp trên là giáo viên đã thành công mộtphần trong

phương pháp đổi mới dạy học. Học sinh trở nên mạnh dạn tự tin và có nhiều hứng thú
trong học tập.
2.2.8. Biện pháp 8: Dạy học theo quan điểm giao tiếp
Dạy học theo quan điểm giao tiếp là hình thành cho học sinh kỹ năng diễn đạt thông
qua các bài học, hình thành thói quen ứng xử trong giao tiếp hàng ngày với thầy cô, cha
mẹ, bạn bè và mọi người xung quanh.
Vận dụng phương pháp dạy học theo quan điểm này, giáo viên tạo cho học sinh nhiều
cơ hội thực hành, luyện tập, không quá nặng về lý thuyết như phương pháp dạy học
truyền thống. Do vậy học sinh hào hứng tham gia vào các hoạt động học tập, tích cực,
sáng tạo trong làm văn. Việc hình thành và rèn luyện các kỹ năng nghe-nói-đọc-viết cho
học sinh thông qua phân môn Tập làm văn đảm bảo đạt được hiệu quả tối ưu.
Ví dụ: Giảng dạy dạng bài tập nghe và tập nói.
Nghe và kể lại câu chuyện “Giấu cày”- Tập làm văn - Tuần 15.
Qua việc kể mẫu của giáo viên, quan sát tranh, gợi ý sách giáo khoa… học sinh kể
nội dung câu chuyện như sau: Có một người đang cày ruộng thì vợ gọi về ăn cơm. Bác
ta liền hét to trả lời: Để tôi giấu cái cày vào bụi đã.
Về nhà bác ta liền bị vợ trách: Ông giấu cày mà la to như thế, kẻ gian biết chỗ, nó lấy
mất cày thì sao.
Lát sau, cơm nước xong, bác ta ra ruộng, quả nhiên thấy cày bị mất. Bác ta liền chạy
một mạch về nhà, nói thầm vào tai vợ: “Nó lấy mất cày rồi!”
Qua giao tiếp giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với nhau (kể cho nhau nghe),
việc kể lại nội dung câu chuyện trước lớp giúp các em thấy được sự phê phán hóm hỉnh,
hài hước, và kể lại nội dung câu truyện với giọng kể, cử chỉ, điệu bộ gây cười ở người
nghe, nét mặt phù hợp, nâng kịch tính câu chuyện lên cao hơn.
12


Song song với việc rèn luyện kỹ năng nghe - nói, học sinh rèn kỹ năng viết: nắm kỹ
thuật viết, luật viết câu văn, đoạn văn hoàn chỉnh, đúng về ngữ pháp, bố cục, phù hợp
văn cảnh hoặc môi trường giao tiếp. Mỗi bài văn của học sinh không đơn thuần là kể, tả

ngắn về con người, sự vật, sự việc mà thông qua đó thể hiện suy nghĩ, cảm xúc, sự đánh
giá, thái độ yêu - ghét, trân trọng hay phê phán của các em.Thông qua bài viết của các
em người đọc hiểu được tâm tư tình cảm của các em về một vấn đề nào đó.
2.3. Kết quả
Qua một thời gian ngắn áp dụng các biện pháp trên vào quá trình giảng dạy, tôi thấy
học sinh đã đạt có những tiến bộ hơn so với trước . Hiệu quả giờ dạy được nâng lên rõ
rệt. Học sinh chủ động hứng thú học tập, hoạt động tích cực hơn, mạnh dạn, tự tin hơn
trong giờ học. Kết quả học tập phân môn Tập làm văn của lớp tôi có tiến bộ như sau:
Kết quả thực hành của học sinh
Thời gian
vận dụng

Giữa HK I
(tuần 8)
Cuối HK I
(tuần 16)
Đầu HK II
(tuần 19)
Cuối HK II
(tuần 33)

Tên bài dạy

Lớp

Tổng
Hoàn
số
thành tốt
học

sinh S TL
L

Hoàn
thành
S
L

TL

Chưa hoàn
thành
SL TL

Kể về người hàng xóm.

3C

26

5

19.2

16

61.6

5


19.2

Nói về thành thị, nông thôn

3C

26

8

30.8

15

57.7

3

11.5

Nghe - kể lại câu chuyện “Chàng
trai làng Phù Ủng”.

3C

26

9

34.6


17

65.4

0

0

26

10

38.4

16

61.6

0

0

Viết về bảo vệ môi trường

3C

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Ý nghĩa của sáng kiến
Dạy học là quá trình không ngừng tìm tòi, đổi mới và sáng tạo để tìm hiểu những khó

khăn của học sinh và tìm ra được hướng để khắc phục những vướng mắc khi lĩnh hội tri
thức nhằm nâng cao hiệu quả dạy và học. Không có phương pháp dạy học nào là vạn
năng, theo tôi sự thành công của mỗi tiết dạy chính là kết quả học tập của học sinh càng
13


ngày càng tiến bộ và các em cảm thấy có hứng thú, vui vẻ khi được tự mình chiếm lĩnh
các tri thức và kỹ năng.
3.2. Kiến nghị
- Đối với giáo viên: Trong quá trình dạy học nói chung và dạy học môn Tiếng Việt ở
Tiểu học nói riêng, giáo viên cần có ý thức nghiên cứu, tìm hiểu, vận dụng nhiều biện
pháp, thủ thuật để nâng cao hiệu quả học tập, sự hứng thú cho học sinh. Cần dành nhiều
thời gian hơn để nghiên cứu bài, lập kế hoạch bài dạy, dự kiến trước những tình huống
có thể xảy ra để đề ra những biện pháp khắc phục kịp thời; tổ chức cho các em tự phát
hiện, tìm tòi ra kiến thức mới từ đó sẽ phát huy được óc tư duy sáng tạo, tính độc lập, tự
giác cho các em.
- Đối với Tổ chuyên môn của nhà trường: Cần có các buổi sinh hoạt chuyên môn chia
sẻ nhiều hơn những kinh nghiệm giảng dạy để giáo viên có thể học hỏi, trao đổi, nâng
cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của bản thân trong quá trình giảng dạy. Trong
thực tế đã có những thành công nhất định. Do khả năng còn hạn chế nên sáng kiến kinh
nghiệm cũng sẽ có những thiếu sót. Kính mong sự góp ý của các cấp lãnh đạo và quý
thầy cô!

14



×