TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC
---------------------
PHẠM THÙY LINH
MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG
HỘI THOẠI TRONG PHÂN MÔN
TẬP LÀM VĂN LỚP 3
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phƣơng pháp dạy học Tiếng Việt
HÀ NỘI - 2015
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC
---------------------
PHẠM THÙY LINH
MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG
HỘI THOẠI TRONG PHÂN MÔN
TẬP LÀM VĂN LỚP 3
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phƣơng pháp dạy học Tiếng Việt
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN THU HƢƠNG
HÀ NỘI - 2015
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên của đề tài, em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc
nhất tới cô giáo Nguyễn Thu Hƣơng- ngƣời đã tận tình hƣớng dẫn, động viên
và giúp đỡ chúng em hoàn thành khóa luận này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy (cô) giáo trong Ban giám hiệu,
phòng Đào tạo, Ban chủ nhiệm Khoa Giáo dục Tiểu học, thƣ viện Trƣờng Đại
học Sƣ phạm Hà Nội 2. Cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của Ban giám hiệu, các
thầy cô giáo và các em học sinh Trƣờng Tiểu học Ngọc Thanh A, Thị xã Phúc
Yên – tỉnh Vĩnh Phúc và Trƣờng Tiểu học Thị trấn Sóc Sơn, Huyện Sóc Sơn
– TP Hà Nội trong suốt quá trình chúng em quan sát, tìm hiểu thực tế và thực
nghiệm khoá luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn bạn bè, ngƣời thân – những ngƣời đã tạo
điều kiện và động viên tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu để hoàn
thành khóa luận.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2015
Ngƣời thực hiện
Phạm Thùy Linh
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả đƣa ra trong khóa luận là trung thực, chính xác và chƣa từng
đƣợc công bố trong bất cứ công trình nào khác
Hà Nội, tháng 5 năm 2015
Ngƣời thực hiện
Phạm Thùy Linh
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
HS
: Học sinh
GV
: Giáo viên
SGK
: Sách giáo khoa
TLV
: Tập làm văn
SGKTV3 : Sách giáo khoa Tiếng Việt 3
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................. 5
4. Đối tƣợng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu ........................................ 5
5. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 5
6. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................ 5
7. Phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................... 6
NỘI DUNG ...................................................................................................... 7
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VIỆC
DẠY HỌCHỘI THOẠI TRONG PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN LỚP 3 ....... 7
1.1. Một số vấn đề về hội thoại ..................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm ......................................................................................... 7
1.1.2. Bản chất của hội thoại ..................................................................... 8
1.1.3. Các nhân tố giao tiếp và hội thoại ................................................... 9
1.1.4. Các chức năng của giao tiếp và hội thoại ...................................... 14
1.1.5. Đích của giao tiếp, hội thoại .......................................................... 15
1.1.6. Quy tắc hội thoại ............................................................................ 16
1.1.7. Các yếu tố kèm lời và phi lời .......................................................... 19
1.2. Phân môn Tập làm văn trong chƣơng trình Tiểu học ........................... 20
1.2.1. Vị trí và nhiệm vụ của phân môn Tập làm văn............................... 20
1.2.2. Nội dung phân môn Tập làm văn lớp 3 .......................................... 22
1.2.3. Nội dung dạy hội thoại ở phân môn Tập làm văn lớp 3 ................. 24
1.2.4. Thực trạng của việc dạy học hội thoại trong phân môn Tập làm văn
lớp 3.......................................................................................................... 31
CHƢƠNG 2. BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG HỘI THOẠI TRONG GIỜ
TẬP LÀM VĂN LỚP 3 ................................................................................. 34
2.1. Kết quả khảo sát việc dạy học hội thoại trong phân môn Tập làm văn
lớp 3 ............................................................................................................. 34
2.2. Các biện pháp rèn kĩ năng hội thoại trong phân môn Tập làm văn ...... 36
2.2.1. Biện pháp bồi dưỡng vốn sống, vốn hiểu biết ................................ 36
2.2.2. Rèn thói quen định hướng giao tiếp, hội thoại ............................... 40
2.2.3. Bồi dưỡng năng lực hội thoại, giao tiếp ........................................ 41
2.2.4. Các biện phát rèn luyện kĩ năng sử dụng ngữ điệu ........................ 43
2.2.5. Biện pháp rèn luyện kĩ năng sử dụng các yếu tố phi lời ................ 44
2.2.6. Sử dụng trò chơi đóng vai theo chủ đề ........................................... 46
2.3. Phân loại các dạng bài tập rèn kĩ năng hội thoại cho học sinh trong
phân môn Tập làm văn lớp 3 ....................................................................... 49
2.3.1. Dạng bài tập rèn kĩ năng trao đáp thông qua quan sát tranh ....... 49
2.3.2. Dạng bài tập trao đổi theo chủ đề cho trước ................................. 53
2.3.3. Dạng bài tập tự tổ chức một chủ đề để trao đổi ............................ 56
CHƢƠNG 3. THỰC NGHIỆM KHOA HỌC ................................................ 60
3.1. Mục đích thực nghiệm .......................................................................... 60
3.2. Đối tƣợng và phạm vi thực nghiệm ...................................................... 60
3.3. Nội dung thực nghiệm .......................................................................... 61
3.4. Các giáo án thực nghiệm ...................................................................... 61
3.4.1. Giáo án thực nghiệm 1 ................................................................... 61
3.4.2. Giáo án thực nghiệm 2 ................................................................... 68
3.4.3. Giáo án thực nghiệm 3 ................................................................... 75
KẾT LUẬN .................................................................................................... 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 84
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp là hoạt động thƣờng nhật của tất cả mọi
ngƣời. Trong giao tiếp, hội thoại chiếm tỉ lệ không hề nhỏ. Sự thành công của
mỗi ngƣời phụ thuộc vào kinh nghiệm tham gia hội thoại của họ. Hội thoại có
vị trí vô cùng quan trọng nên ngày từ nhỏ, học sinh đã cần phải tham gia vào
các cuộc hội thoại và hiểu biết thêm về hội thoại. Từ lâu, các chƣơng trình
học tập cũng đang nghiên cứu và đƣa ra các bài tập về hội thoại, nhƣng kết
quả thu đƣợc chƣa cao. Tại các trƣờng Tiểu học hiện nay, một số trƣờng cũng
đã quan tâm và đƣa hội thoại vào nhƣ một trong những mục tiêu chính của
môn học.
Ở Việt Nam, chỉ từ cuối thế kỉ XX và những năm đầu thế kỉ XXI, hội
thoại mới đƣợc đƣa vào chƣơng trình môn Tiếng Việt, đƣợc dạy thử nghiệm
rồi dạy chính thức ở các lớp học. Tuy nhiên, hiểu biết của giáo viên về hội
thoại còn ít ỏi, sơ lƣợc, nên hiệu quả của các biện pháp rèn kĩ năng hội thoại
trong các môn học chƣa đạt hiệu quả cao.
Tập làm văn là phân môn có tính tổng hợp, sáng tạo, thực hành và thể
hiện đậm nét dấu ấn cá nhân. Tất cả các môn học đều phải sử dụng đến hành
văn để làm nhƣ: Lịch sử, Địa lí, Toánvà các phân môn khác của Tiếng Việt,…
Phân môn Tập làm văn còn có tầm quan trọng đến tƣơng lai, khi học sinh
bƣớc vào đời, nó chính là hành trang cho các em nhƣ: học sinh làm văn tốt thì
ăn nói mới lƣu loát đƣợc, phải có kĩ năng giao tiếp tốt thì mớiđạt đƣợc mục
đích giao tiếp đã đề ra. Vậy có thể nói phân môn Tập làm văn có tầm ảnh
hƣởng rất lớn trong cả cuộc đời của con ngƣời. Chính vì vậy, ta càng thấy rõ
đƣợc việc dạy hội thoại trong phân môn Tập làm văn là điều cần thiết.
1
Ở lớp 3, phân môn Tập làm văn đƣợc lồng ghép các bài văn kể mang
yếu tố hội thoại rất đa dạng và phong phú. Đòi hỏi giáo viên phải nắm sâu sắc
kĩ năng biện pháp giảng dạy để giúp học sinh thực hiện tốt nhiệm vụ của
mình.Tuy nhiên hiểu biết của giáo viên về dạy hội thoại còn hạn chế, nên
nhiều giáo viên gặp rất nhiều khó khăn khi dạy hội thoại nói chung và dạy hội
thoại trong phân môn Tập làm văn nói riêng.
Chính vì những lí do trên nên tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp rèn kĩ
năng hội thoại trong phân môn Tập làm văn lớp 3” làm khoá luận tốt nghiệp
Đại học.
2. Lịch sử vấn đề
Theo định hƣớng của chƣơng trình giáo dục phổ thông môn Ngữ Văn ở
Việt Nam, HS từ lớp 1 đến lớp 12 sẽ đƣợc rèn luyện 5 kĩ năng nói bộ phận: 1)
Sử dụng nghi thức lời nói; 2) Đặt và trả lời câu hỏi; 3) Thuật việc, kể chuyện;
4) Trao đổi, thảo luận; 5) Phát biểu, thuyết trình, tranh luận. Ở bậc Tiểu học,
HS đƣợc tập trung rèn các kĩ năng nói 1,2,3 và bƣớc đầu làm quen với các kĩ
năng 4,5.
Qua tìm hiểu về vấn đề rèn kĩ năng hội thoại cho HS đã có rất nhiều
nhà nghiên cứu tìm hiểu. Có thể chia các công trình nghiên cứu về rèn kĩ năng
hội thoại cho HS theo một số hƣớng chính nhƣ sau:
Trƣớc tiên, bàn về: Nghiên cứu hoạt động dạy hội thoại cho HS Tiểu
học trong môn Tiếng Việt nói chung. Đi theo hƣớng này, tác giả Phan Phƣơng
Dung – Nguyễn Trí (2009), Dạy hội thoại cho HS Tiểu học nhà xuất bản
(NXB) Giáo dục Việt Nam. Ở chủ đề 4 – Tình huống giao tiếp và các kiểu bài
tập dạy hội thoại trong SGK TV ở Tiểu học, các tác giả đã miêu tả và phân
chia các bài tập hội thoại từ lớp 2 đến lớp 5 thành ba kiểu bài tập cơ bản:
- Kiểu bài tập dạy nghi thức lời nói trong hội thoại.
- Kiểu bài tập đáp lời hoặc trao lời trong các tình huống giao tiếp.
2
- Kiểu bài tập xử lí trọn vẹn một tình huống giao tiếp.
Ở chủ đề 5 các tác giả đƣa ra phƣơng pháp dạy hội thoại ở Tiểu học với
ba hoạt động cơ bản:
- Dạy hội thoại theo hƣớng phân tích và thực hành.
- Dạy hội thoại qua phƣơng pháp đóng vai.
- Dạy hội thoại qua các phân môn Tiếng Việt.
Một số biện pháp nâng cao hiệu quả rèn kĩ năng nói cho HS ở môn TV,
đề tài khoa học Viện khoa học Giáo dục Việt Nam, của Trần Thị Hiền Lƣơng
(2009). Trong công trình này, tác giả đƣa ra biện pháp và cách thức thực hiện
các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả rèn luyện kĩ năng nói cho HS Tiểu học
ở các phân môn Tiếng Việt.
Hay tác giả Nguyễn Hồng Thúy (2006) Xây dựng hệ thống bài tập rèn
kĩ năng hội thoại cho HS lớp 4 Luận văn Thạc sĩ khoa học Giáo dục trƣờng
ĐHSP Hà Nội. Hệ thống bài tập mà tác giả nêu ra trong luận văn khá đa dạng
và sinh động, nhƣng chỉ giới hạn cho HS một khối lớp 4.
Cùng hƣớng nghiên cứu này, sau đó còn có nhiều tài liệu nghiên cứu về
vấn đề rèn kĩ năng hội thoại nhƣ: Nguyễn Trí (2007) Một số vấn đề dạy hội
thoại cho HS Tiểu học NXB Giáo dục; Đặng Thị Lệ Tâm (2011) Dạy học
nghi thức lời nói cho Hs Tiểu học trong môn Tiếng Việt Luận án tiến sĩ Khoa
học Giáo dục; Vũ Khắc Tuân (2009) Luyện nói cho học sinh lớp 2 NXB Giáo
dục; Bùi Thị Kim Mai (2014), Bồi dưỡng năng lực thuyết trình, tranh luận,
lập chương trình hoạt động cho học sinh lớp 5, Luận văn thạc sĩ khoa học
Giáo dục;…
Bên cạnh hƣớng đi trên, các tác giả còn có hƣớng đi khác đó là nghiên
cứu hoạt động dạy học rèn kĩ năng nói trong một phân môn Tiếng Việt. Đi
theo hƣớng nghiên cứu này có tác giả Lê Thị Thanh Hà (2003),Phương pháp
dạy Tập làm văn nói theo hướng giao tiếp cho học sinh lớp 2 Luận văn Thạc
3
sĩ khoa học Giáo dục trƣờng ĐHSP Hà Nội. Đáng phải kể đến nhƣ Đặng Thị
Trà (2004), Phát triển kĩ năng nói cho học sinh lớp 2 qua phân môn Kể
chuyện Luận văn Thạc sĩ khoa học Giáo dục trƣờng ĐHSP Hà Nội. Hay
Nguyễn Thị Thu Hƣơng (2005), Dạy học nghi thức lời nói cho học sinh lớp 2
qua phân môn Tập làm văn Luận văn Thạc sĩ khoa học Giáo dục trƣờng
ĐHSP Hà Nội;… Hầu hết các tác giả đều tập trung nghiên cứu sâu vào các
biện pháp rèn kĩ năng nói theo đặc trƣng phân môn, chƣa có biện pháp cụ thể
cho từng dạng bài tập, đây chính là vấn đề mà đa số GV đều quan tâm đến khi
nhắc tới rèn kĩ năng hội thoại cho HS.
Luật Giáo dục, điều 24.2, đã ghi: Phƣơng pháp giáo dục phổ thông phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với
đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dƣỡng phƣơng pháp tự học, rèn
luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm. Đáng
chú ý hơn từ thập niên XX, các tài liệu giáo dục ở nƣớc ngoài và trong nƣớc,
một số văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo thƣờng nói tới việc cần thiết phải
rèn luyện kĩ năng hội thoại, giao tiếp cho học sinh.
Có thể nói cốt lõi của đổi mới phƣơng pháp dạy học là hƣớng tới hoạt
động học tập chủ động, sáng tạo, chống thói quen học thụ động. Nội dung dạy
hội thoại là nội dung không mới mẻ nhƣng vấn đề này luôn để lại những câu
hỏi khiến các nhà nghiên cứu muốn tìm ra câu trả lời thỏa đáng về các
phƣơng pháp dạy hội thoại. Để những giờ học Tập làm văn có yếu tố hội thoại
trở nên hiệu quả, một mặt GV cần phải dạy HS cách đƣa ra lời trao và cách
đáp lại lời trao sao cho đúng các quy tắc và đem lại hiệu quả giao tiếp. Mặt
khác GV cần phải tổ chức tình huống học tập để HS có môi trƣờng rèn luyện
khả năng giao tiếp của mình. Mặc dù chƣơng trình tiểu học hiện hành đã triển
khai dạy học hội thoại hơn mƣời năm nhƣng vẫn là công việc khó đối với
nhiều GV. Trong khi đó, ngoài một số hƣớng dẫn chung của sách giáo viên và
4
giải đáp về nội dung mới trong cuốn Hỏi đáp Tiếng Việt 3 do tác giả Nguyễn
Minh Thuyết chủ biên, chúng tôi chƣa thấy có công trình nghiên cứu nào đi
sâu nghiên cứu rèn kĩ năng hội thoại qua phân môn TLV lớp 3. Vì thế tôi thực
hiện đề tài Một số biện pháp rèn kĩ năng hội thoại trong phân môn Tập làm
văn lớp 3 với mong muốn góp một phần công sức nhỏ bé nâng cao chất lƣợng
dạy học và trau dồi kinh nghiệm giảng dạy cho bản thân.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này chúng tôi nhằm mục đích: nghiên cứu và đề xuất
một số biện pháp rèn kĩ năng hội thoại trong phân môn Tập làm văn lớp 3
trong chƣơng trình Tiếng Việt ở Tiểu học.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu: những biện pháp rèn kĩ năng hội thoại.
Khách thể nghiên cứu: quá trình dạy học phân môn Tập làm văn lớp 3.
5. Phạm vi nghiên cứu
Trong đề tài này, tôi tìm hiểu hoạt động dạy học kĩ năng hội thoại trong
phân môn Tập làm văn lớp 3 và những biện pháp rèn kĩ năng hội thoại cho
HS lớp 3.
Giới hạn phạm vi nghiên cứu trên đối tƣợng HS lớp 3 trƣờng Tiểu học
Ngọc Thanh A và Trƣờng Tiểu học Thị trấn Sóc Sơn.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này, tôi thực hiện các nhiệm vụ sau:
Tìm hiểu cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của việc dạy học hội thoại ở
phân môn Tập làm văn trong chƣơng trình Tiếng Việt lớp 3.
Đề xuất một số biện pháp rèn kĩ năng hội thoại trong phân môn Tập
làm văn lớp 3.
Thực nghiệm khoa học.
5
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, tôi sử dụng các biện pháp sau:
- Phƣơng pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phƣơng pháp quan sát.
- Phƣơng pháp điều tra.
- Phƣơng pháp đàm thoại.
- Phƣơng pháp thực nghiệm.
- Phƣơng pháp thống kê toán học.
6
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VIỆC DẠY HỌC
HỘI THOẠI TRONG PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN LỚP 3
1.1.Một số vấn đề về hội thoại
1.1.1.Khái niệm
Hội thoại có vai trò quan trọng trong đời sống. Trong một ngày, một
tháng, một năm, một đời ngƣời, thời gian dành cho hội thoại rất lớn, lớn hơn
thời gian dành cho độc thoại nhiều lần. Con ngƣời chủ yếu giao tiếp với nhau
bằng hội thoại. Ngôn ngữ đƣợc sử dụng chủ yếu trong hội thoại. Giáo sƣ Đỗ
Hữu Châu khẳng định: “hội thoại là hình thức giao tiếp thường xuyên, phổ
biến của ngôn ngữ, nó cũng chính là hình thức cơ sở của một hoạt động ngôn
ngữ khác…”.
Ngôn ngữ là công cụ để con ngƣời giao tiếp với nhau. Khi tham gia vào
giao tiếp, ngôn ngữ tồn tại dƣới hai dạng: dạng nói và dạng viết.
Khi ngôn ngữ tồn tại ở dạng nói, tức là ngôn ngữ đƣợc con ngƣời sử
dụng trong hoạt động nói năng, thì khi đó con ngƣời đang thực hiện một hoạt
động, gọi là hoạt động giao tiếp.
Nhƣ vậy, hội thoại là hoạt động giao tiếp bằng lời ở dạng nói giữa các
nhân vật giao tiếp nhằm trao đổi các nội dung miêu tả và liên cá nhân theo
đích đặt ra.
Tuy nhiên trong những năm nay, với sự phát triển nhƣ vũ bão của công
nghệ thông tin, công nghệ truyền thông nên điện thoại di động,hệ thống mạng
phát triển rất mạnh mẽ. Con ngƣời có thể nói chuyện với nhau mà không phải
mặt đối mặt (qua điện thoại), hay có thể đối thoại bằng hình thức nhắn tin qua
7
điện thoại, email,… mà cũng không cần phải ở gần nhau, hay không cần phải
dùng đến lời nói trực tiếp (nhắn tin qua điện thoại) mà vẫn đảm bảo nội dung
cuộc thoại và các nhân tố nhƣ một cuộc đối thoại thông thƣờng.
Nhƣ vậy, theo Nguyễn Trí (2008), Một số vấn đề dạy hội thoại cho học
sinh Tiểu học NXB Giáo dục, ta có khái niệm hội thoại toàn diện: hội thoại là
cuộc giao tiếp bằng lời (ở dạng nói hay dạng viết) tối thiểu giữa hai nhân vật
về một vấn đề nhằm đạt được mục đích đã đặt ra.
1.1.2. Bản chất của hội thoại
Hội thoại là một hiện tƣợng giao tiếp bằng ngôn ngữ hay một hiện
tƣợng xã hội? Có thể khẳng định ngay: hội thoại vừa là một hiện tƣợng giao
tiếp bằng ngôn ngữ, vừa là một hiện tƣợng xã hội. Hai đặc điểm đó đều chi
phối các hoạt động hội thoại.
Nói hội thoại là một hiện tƣợng giao tiếp bằng ngôn ngữ vì chính trong
hội thoại (độc thoại), ngôn ngữ mới thực hiện đƣợc chức năng quan trọng của
nó: chức năng giao tiếp. Chính trong hội thoại ngôn ngữ mới phát huy đầy đủ
đặc điểm, sức mạnh, vẻ đẹp,… của nó. Nói cách khác, ngôn ngữ trở nên sống
động nhờ vào hội thoại.
Bàn đến bản chất ngôn ngữ của hội thoại, về mặt sƣ phạm là bàn đến
mối quan hệ giữa kinh nghiệm sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp và hội thoại của
cá nhân học sinh khi bƣớc chân đến trƣờng và yêu cầu dạy hội thoại của nhà
trƣờng. Khi vào học lớp Một cũng nhƣ các lớp học trên,mặc dù chƣa đƣợc học
hội thoại nhƣng học sinh vẫn sử dụng ngôn ngữ để tham gia trò chuyện với
nhau, với bố mẹ, trao đổi về mọi vấn đề các em gặp phải trong đời sống, để giãi
bày, yêu cầu, đòi hỏi, ra lệnh, doạ nạt, quát tháo, … dƣờng nhƣ các em đã nắm
đƣợc một phần nào các quy tắc, quy luật … về hội thoại.Đó là con đƣờng tiếp
nhận tự phát. Muốn dùng ngôn ngữ cho chính xác, linh hoạt, đúng lúc, đúng
chỗ, tế nhị,… học sinh phải đƣợc học, đƣợc luyện tập về hội thoại. Muốn hiểu
8
các quy tắc, quy luật hội thoại một cách sâu sắc, học sinh phải qua con đƣờng
học tập. Do đó, dạy hội thoại cho học sinh là một yêu cầu tất yếu nhà trƣờng
phải thực hiện. Con đƣờng để dạy hội thoại nhanh, có hiệu quả chính là phải từ
kinh nghiệm sẵn có của học sinh phát triển lên, luyện tập thêm.
Bàn đến bản chất ngôn ngữ của hội thoại chính là bàn đến tính chất
giao tiếp của nó, là phải quan tâm đến các nhân tố tham gia vào cuộc giao
tiếp, vào cuộc đối thoại nhƣ: ngữ cảnh, ngôn ngữ và diễn ngôn.
Nói hội thoại là một hiện tƣợng xã hội vì nó nảy sinh và tồn tại chỉ
trong các cộng đồng ngƣời, trong xã hội loài ngƣời. Con ngƣời sử dụng hội
thoại nhƣ một công cụ đắc lực để trao đổi thông tin, giao lƣu tình cảm, gắn
kết từng cá thể với nhau tạo thành một cộng đồng, một xã hội.
Bàn đến bản chất xã hội của hội thoại là bàn đến chức năng, mục đích
và nội dung hội thoại. Hoạt động hội thoại là hoạt động giao tiếp gắn rất chặt
với các quy tắc ứng xử trong xã hội, thể hiện trình độ văn minh của con
ngƣời. Học các quy tắc hội thoại, từ phép lịch sự đến việc thực hiện các quy
luật cấu trúc hội thoại, ngƣời học thực ra đã tiếp nhận nhiều quy tắc đạo đức,
nhiều phép ứng xử văn minh nhƣ tôn trọng thể diện ngƣời hội thoại, sự phối
hợp, hợp tác trong cuộc sống,… Vì thế, dạy hội thoại cho học sinh đồng thời
cũng là dạy đạo đức, dạy văn hoá ứng xử.
Một điều đáng lƣu ý là hai bản chất nêu trên của hội thoại gắn chặt với
nhau đến mức nhiều nhân tố hoặc nhiều giai đoạn khó tách bạch đâu là tính
chất ngôn ngữ, đâu là tính chất xã hội. Điều ấy không có nghĩa là không nhận
thấy hai bản chất này trong hiện tƣợng hội thoại.
1.1.3. Các nhân tố giao tiếp và hội thoại
Hội thoại là một trong những hình thức giao tiếp bằng ngôn ngữ có vị trí
quan trọng nhất. Vì thế các nhân tố tham gia vào cuộc giao tiếp nhƣ: ngữ cảnh,
ngôn ngữ vàdiễn ngôn cũng chính là các nhân tố tham gia vào cuộc hội thoại.
9
1.1.3.1. Ngữ cảnh
Bàn đến ngữ cảnh hội thoại là bàn đến những nhân tố có mặt trong một
cuộc giao tiếp nhƣng nằm ngoài diễn ngôn. Đó là các nhân tố có tác động lớn
đến hội thoại.
Nhân tố đầu tiên không thể thiếu – nhân vật hội thoại (giao tiếp) là
những ngƣời tham gia vào một cuộc giao tiếp bằng ngôn ngữ để tạo ra các lời
nói, các diễn ngôn qua đó mà tác động lẫn nhau. Có hai yếu tố của nhân vật
hội thoại ảnh hƣởng đến cuộc hội thoại là vai giao tiếpvà quan hệ liên cá
nhân. Trong một cuộc giao tiếp có sự phân vai: vai phát ra diễn ngôn tức là
vai nói (viết) và vai tiếp nhận diễn ngôn, tức nghe (đọc). Trong cuộc giao tiếp
nói, mặt đối mặt, hai vai nói, nghe thƣờng luân chuyển, ngƣời nói chuyển
thành ngƣời nghe và ngƣợc lại. Quan hệ liên cá nhân giữa các nhân vật tham
gia hội thoại thể hiện ở các phạm vi nhƣ: vị thế xã hội, vị thế giao tiếp và
quan hệ thân cận.
Nhân tố thứ hai, song hành với nhân vật hội thoại là hiện thực ngoài
diễn ngôn. Bất kì cuộc hội thoại nào cũng xoay quanh một phạm vi hiện thực
nhất định. Phạm vi hiện thực đó trở thành hiện thực – đề tài của hội thoại. Các
cuộc hội thoại lại diễn ra trong một hoàn cảnh xã hội nào đó, một môi trƣờng
hội thoại xác định, một tình huống hội thoại cụ thể. Các yếu tố trên hợp thành
hiện thực bên ngoàidiễn ngôn nhƣng có tác động quan trọng đến hội thoại,
gồm có 4 bộ phận:
Một là hiện thực – đề tài củadiễn ngôn đó là khi giao tiếp, các nhân vật
giao tiếp dùng diễn ngôn của mình để nói về một cái gì đó. Cái đƣợc nói tới là
hiện thực – đề tài của diễn ngôn. Nằm trong hiện thực – đề tài của diễn ngôn
chính là những cái tồn tại, diễn tiến trong hiện thực ngoài diễn ngôn và ngoài
ngôn ngữ. Những cái thuộc tâm giới của con ngƣời nhƣ một cảm xúc, một
nguyện vọng, một tƣ tƣởng,… cũng đƣợc xem là hiện thực ngoài ngôn ngữ,
ngoài diễn ngôn. Hay hiện thực – đề tài của diễn ngôn còn là bản thân của
10
ngôn ngữ. Trong một cuộc giao tiếp, nhân vật giao tiếp chỉ có thể chọn một
bộ phận nào đó trong thế giới diễn ngôn làm đề tài. Cũng không phải ngƣời
nói muốn đƣa hiện thực nào thành đề tài thì tự khắc nó thành đề tài diễn ngôn.
Vậy đề tài diễn ngôn phải đƣợc các nhân vật giao tiếp thỏa thuận lấy làm đối
tƣợng để trao đổi trong cuộc giao tiếp đó.
Hai là hoàn cảnh giao tiếp rộng bao gồm những hiểu biết về lịch sử, địa
lí, văn hoá, nghệ thuật, khoa học, kĩ thuật, kinh tế, quân sự, giáo dục, tâm lí
dân tộc và xã hội, ngôn ngữ, trang phục, âm nhạc,… của dân tộc, bộ tộc, cộng
đồng ngƣời,… ở thời điểm và ở không gian trong đó đang diễn ra cuộc hội
thoại. Các điều kiện trên có ảnh hƣởng ít, nhiều, đậm, nhạt khác nhau,… đến
các cuộc hội thoại. Điều đáng chú ý là hoàn cảnh giao tiếp bao giờ cũng phải
là hiện thực thực tại. Bởi vì nói tức là sống nên phải nói với nhau trong hiện
thực thực tại tức là hiện thực mà chúng ta đang sống. Mục đích giao tiếp,
niềm tin, kế hoạch, các hành động thực hiện kế hoạch giao tiếp đƣợc đặt ra là
vì thế giới thực tại và đặt trong thế giới thực tại. Mỗi cuộc đối thoại đƣợc đặt
trong hoàn cảnh, nền văn hóa nhất định, nếu không có hiểu biết về nền văn
hóa, phong tục,… thì khó có thể hiểu hết ý nghĩa của đoạn hội thoại. Vậy tức
là ta cần phải hiểu biết về các hoàn cảnh giao tiếp nhƣ: hiểu biết về phong tục
tập quán, về sinh hoạt, về cách sử dụng ngôn ngữ,… của đoạn hội thoại đó thì
giao tiếp mới đạt hiệu quả cao. Nếu không có những hiểu biết này, lời nói có
thể rất dài nhƣng ngƣời nghe vẫn không hiểu hết nội dung lời nói.
Ba là hoàn cảnh giao tiếp hẹpđƣợc hiểu là không – thời gian thoại
trƣờng cụ thể diễn ra cuộc giao tiếp. Không gian và thời gian không nên hiểu
là bất kì, thƣờng xuyên biến đổi, mà là không gian thoại trƣờng có những đặc
trƣng chung, đòi hỏi ngƣời ta phải xử sự, nói năng theo những cách thức ít
nhiều cũng chung cho nhiều lần xuất hiện. Thí dụ nhƣ: trƣờng học, chùa
chiền, hội trƣờng,… Thời gian thoại trƣờng là thời gian ở một không gian
11
thoại trƣờng mà lúc đó con ngƣời phải nói năng, xử sự khác với cách nói
năng, xử sự ở thời gian khác trong cùng không gian thoại trƣờng. Thí dụ: buổi
sáng, buổi chiều, ngày rằm, mồng một và ngày thƣờng là những thời gian
thoại trƣờng khác nhau của không gian thoại trƣờng: chùa chiền.
Bốn là ngữ huống, chúng ta nói tác động tổng hợp của các yếu tố tạo
nên ngữ cảnh ở từng thời điểm của cuộc giao tiếp là các ngữ huống của cuộc
giao tiếp. Thông qua ngữ huống mà ngữ cảnh chi phối diễn ngôn. Ngữ cảnh là
một khái niệm động, không phải là tĩnh. Cần nhắc lại một điều: bất cứ cái gì
muốn trở thành ngữ cảnh của các yếu tố tạo nên ngữ cảnh phải đƣợc nhân vật
giao tiếp ý thức thì mới đƣợc gọi là ngữ huống. Qua hiểu biết tạo nên ngữ
huống mà ngữ cảnh tác động vào diễn ngôn.
1.1.3.2. Ngôn ngữ
Tất cả các cuộc hội thoại đều phải sử dụng một tín hiệu làm công cụ.
Trong trƣờng hợp giao tiếp bằng ngôn ngữ thì hệ thống tín hiệu là các ngôn
ngữ tự nhiên. Mà hội thoại là quá trình sử dụng ngôn ngữ làm công cụ giao
lƣu giữa ngƣời với ngƣời. Để có thể sử dụng ngôn ngữ đạt hiệu quả cao trong
hội thoại, ngƣời tham gia hội thoại cần chú ý đến những vấn đề sau: đặc điểm
của ngôn ngữ nói, ngữ vực và ngôn ngữ cá nhân.
Ngôn ngữ có hai dạng: ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Hai dạng của
ngôn ngữ có nhiều đặc điểm chung nhƣ cùng dùng chung kho từ vựng, hệ
thống các quy tắc ngữ pháp và phong cách, cùng chịu sự chi phối của các đặc
điểm về truyền thống và văn hoá dân tộc, tâm lí dân tộc và cộng đồng,… Tuy
nhiên mỗi dạng ngôn ngữ lại có những đặc điểm riêng khác nhau. Ngôn ngữ
nói có những đặc thù:
Có thể sử dụng tất cả các lớp từ trong vốn từ của một ngôn ngữ, kể
cả những từ một số phong cách ngôn ngữ viết cấm kị nhƣ các từ thô tục, các
tiếng lóng, biệt ngữ của nhiều lớp ngƣời khác nhau trong xã hội,…
12
Thƣờng sử dụng các cấu trúc ngữ pháp đơn giản, giản lƣợc,… kể cả
các cách diễn đạt không theo quy tắc ngữ pháp chuẩn mực, nói tắt,…
Chú trọng sử dụng ngữ điệu để diễn đạt một số nội dung liên quan
đến tình cảm, cảm xúc, biểu đạt thái độ,… của ngƣời nói.
Đƣợc sự phụ trợ rất có hiệu quả của các yếu tố phi ngôn ngữ nhƣ sự
biểu cảm trên nét mặt, các cử chỉ điệu bộ của chân, tay, thân thể,… ngƣời
tham gia hội thoại.
Trong giao tiếp, có những chuẩn mực ngôn ngữ đƣợc cả xã hội hoặc
cộng đồng thừa nhận. Đó là căn cứ để xã hội đánh giá ngôn ngữ cá nhân hoặc
ngôn ngữ của các nhóm ngƣời trong xã hội khi giao tiếp. Bên cạnh ngôn ngữ
chuẩn mực, lại có phƣơng ngữ địa lí, phƣơng ngữ xã hội… Sự phân chia này
dựa theo đối tƣợng sử dụng ngôn ngữ.
Về ngữ vực, trong giáo trình đại cƣơng ngôn ngữ học (tập hai – Ngữ
dụng học), tác giả Đỗ Hữu Châu đã dẫn ý kiến của M. Halliday về ba loại ngữ
vực: Ngữ vực quy thức (formal) đó là ngữ vực mà ta dùng để nói với những
ngƣời quen biết ít hoặc chƣa quen biết.Ngữ vực thân tình (familiar) là ngữ
vực của những cuộc giao tiếp giữa những ngƣời có quan hệ thân thiết với
nhau. Giữa hai ngữ vực đó là ngữ vực phi quy thức (informal) là ngữ vực của
những ngƣời tuy có biết nhau nhƣng không thân thiết.
Ngôn ngữ cá nhân dùng khi giao tiếp, hội thoại đều có dấu ấn của ngôn
ngữ chuẩn mực, của phƣơng ngữ, của ngữ vực, thậm chí của cả biệt ngữ xã
hội, đồng thời kèm theo là những sáng tạo của riêng cá nhân. Cần nhận rõ mối
quan hệ này để có thể phân tích ngôn ngữ từng cá nhân khi tham gia hội thoại,
chỉ ra những nét đặc sắc cũng nhƣ những sáng tạo riêng của họ.
1.1.3.3. Diễn ngôn
Trong khi ngữ pháp chỉ những quy tắc sử dụng ngôn ngữ để tạo ra
những đơn vị ngữ pháp nhƣ tiểu câu, cụm từvà câu thì diễn ngôn chỉ những
13
đơn vị của ngôn ngữ lớn hơn nhƣ đoạn, cuộc thoại, cuộc phỏng vấn. Theo GS.
TS. Đỗ Hữu Châu “Diễn ngôn là lời của từng người nói ra trong một cuộc
giao tiếp. Cũng có những diễn ngôn do hai hay hơn hai nhân vật giao tiếp xây
dựng nên (như trường hợp trong một cuộc hội thoại tay ba, hai người liên kết
với nhau để chống lại người thứ ba)”. Diễn ngôn nhƣ đã nói ở trên có mặt
động và mặt tĩnh. Diễn ngôn là một quá trình sản sinh ra và liên kết các phát
ngôn thành một chỉnh thể. Nó cũng là tên gọi của sản phẩm ngôn từ do quá
trình đó tạo nên.
Tóm lại, một cuộc hội thoại khi diễn ra, có nhiều nhân tố tham gia nhƣ
ngữ cảnh,ngôn ngữ và diễn ngôn, nhiều yếu tố tác động và ảnh hƣởng đến
nhƣ các vai giao tiếp và quan hệ liên cá nhân của nhân vật hội thoại, nhƣ hiện
thực – đề tài hội thoại, hoàn cảnh giao tiếp, môi trƣờng hội thoại, tình huống
hội thoại, ngữ vực và ngôn ngữ cá nhân.
1.1.4. Các chức năng của giao tiếp và hội thoại
1.1.4.1. Chức năng thôngtin
Chức năng này đòi hỏi thông qua các cuộc giao tiếp, hội thoại, các đối
tác dễ thu đƣợc những hiểu biết, tri thức mới mẻ, bổ ích, lí thú. Một cuộc hội
thoại thành công, hấp dẫn là một cuộc hội thoại mang lại cho các thành viên
càng nhiều thông tin càng tốt. Các nội dung thông tin đƣợc đánh giá theo tiêu
chuẩn đúng – sai.
1.1.4.2. Chức năng tạo lập quan hệ
Chức năng này tạo nên sự xích lại gần nhau, gắn kết với nhau hay xa
cách nhau, đối lập nhau trong quan hệ liên cá nhân. Có thể, sau một cuộc giao
tiếp, hội thoại, những ngƣời tham gia có thể thấy thân thiết hơn hoặc có thể ác
cảm hơn, biến thành kẻ thù của nhau.
1.1.4.3. Chức năng biểu hiện (hay còn gọi là chức năng biểu lộ)
Chức năng này tạo điều kiện cho mỗi thành viên của giao tiếp, hội thoại
có thể bày tỏ ý kiến, tình cảm, sở thích, năng khiếu, hứng thú, nguồn gốc gia
14
đình, địa phƣơng… để đối tác hội thoại hiểu mình hơn. Qua đó các thành viên
cũng thể hiện thái độ, các đánh giá, tình cảm… đối với cuộc sống, đối với đề tài,
các đối tác tham gia hội thoại và đối với bản thân cuộc hội thoại đang diễn ra.
1.1.4.4. Chức năng giải trí hay tiêu khiển
Giao tiếp với nhau, trò chuyện với nhau là một cách giải trí, tiêu khiển,
giải tỏa những bức xúc, thƣ giãn những căng thẳng của chúng ta. Chuyện
phiếm, tán gẫu, “buôn dƣa lê” là những cuộc giao tiếp mà chức năng chủ yếu
là giải trí. Giải trí bằng lời là hết sức cần thiết cho con ngƣời trong xã hội,
miễn là không lạm dụng. Ngôn ngữ là phƣơng tiện giải trí không tốn kém và
lành mạnh nhất của con ngƣời.
1.1.4.5. Chức năng hành động
Chức năng hành động là chức năng thông qua giao tiếp mà chúng ta
thúc đẩy nhau hành động. Không phải chỉ ngƣời nghe mới hành động mà
ngƣời nói cũng phải hành động dƣới sự thúc đẩy của lời nói trong giao tiếp.
1.1.5. Đích của giao tiếp, hội thoại
Cuộc hội thoại, giao tiếp nào cũng có đích tác động của nó. Giao tiếp,
hội thoại có ba đích tác động:
Đích thuyết phục qua hội thoại, trạng thái nhận thức của những ngƣời
tham gia có thể thay đổi. Ngƣời ta nói hội thoại đã đạt đích thuyết phục. Cái
gì dẫn tới sự thay đổi này? Đó là các nội dung thông tin của hội thoại. Qua hội
thoại những ngƣời tham gia, nhờ nhận thêm các thông tin mới, họ có thể đồng
tình hay phản đối vấn đề đƣa ra bàn luận.
Đích truyền cảm tạo ra sự thay đổi trạng thái tình cảm, cảm xúc… của
những ngƣời tham gia hội thoại là một trong những mục đích của hội thoại.
Đó là đích truyền cảm.
Đích hành động: thƣờng thƣờng trong các cuộc giao tiếp, hội thoại sẽ
dẫn chứng ngƣời tham gia đến các hành động, hoạt động… tiếp sau cuộc hội
15
thoại. Ngƣời ta nói các cuộc hội thoại đó đạt đƣợc đích hành động. Cả hai nội
dung của hội thoại tạo nên đích hành động, trong đó nội dung liên cá nhân giữ
vai trò chủ yếu trong việc tạo ra hành động của ngƣời tham gia hội thoại.
1.1.6. Quy tắc hội thoại
1.1.6.1. Quy tắc điều hành luân phiên lượt lời
Một cuộc hội thoại phải có ngƣời nói và có ngƣời nghe. Quy tắc điều
hành luân phiên lƣợt lời nhấn mạnh tới các quy định liên quan đến ngƣời nói.
Có thể tóm tắt các yêu cầu chính của quy tắc này với ngƣời nói nhƣ sau:
- Vai nói thƣờng xuyên thay đổi nhau trong một cuộc hội thoại.
- Mỗi lần chỉ có một ngƣời nói. Do đó cần nhận ra các dấu hiệu kết
thúc một lƣợt lời để có ngƣời tiếp lời.
- Hiện tƣợng cùng một lúc có nhiều ngƣời cùng nói có thể xảy ra
trong các cuộc đa thoại nhƣng không thể kéo dài. Lúc này cần đến vai trò
của ngƣời điều khiển “công khai” hay “không công khai” để đƣa cuộc thoại
trở về đúng quy tắc của nó. Điều này rất cần khi hƣớng dẫn HS trao đổi
tranh luận về vấn đề gì đó.
- Không nên để sự chuyển tiếp từ ngƣời nói này sang ngƣời nói kia kéo
dài. Nếu để kéo dài, cuộc hội thoại có thể trở nên nặng nề, khó trở lại bình
thƣờng, thậm chí có thể bị dừng lại. Lúc này cũng cần đến vai trò ngƣời điều
khiển để cân bằng lƣợt ngƣời.
Trong hội thoại, quy tắc luân phiên lƣợt lời có lúc bị vi phạm. Đó là lúc
xảy ra tình trạng các lƣợt lời dẫm đạp lên nhau do sự tranh lời, cƣớp lời, đoạt
lời… của những ngƣời tham gia hội thoại. Sự vi phạm này có lúc do vô tình,
có lúc do cố ý để nhằm đạt mục đích. Nghiên cứu sự vi phạm lƣợt lời cũng
quan trọng, có ý nghĩa thực tiễn và sƣ phạm không kém gì việc nghiên cứu sự
luân phiên lƣợt lời. Rèn luyện cho học sinh kĩ năng hội thoại, chúng tôi hết
16
sức chú ý tới điều này. Muốn cuộc hội thoại diễn ra thành công, các nhân vật
tham gia hội thoại phải luân phiên lƣợt lời hợp lí.
1.1.6.2. Quy tắc chi phối cấu trúc hội thoại
Một cuộc hội thoại cũng có diễn biến của nó. Quy tắc chi phối cấu trúc
hội thoại đòi hỏi những ngƣời tham gia hội thoại phải tôn trọng cấu trúc của
nó. Các cuộc hội thoại dù là chính thức hay phi chính thức, dù là trang trọng
hay đời thƣờng phải có phần mở đầu (dù ngắn hay dài, dù trực tiếp hay gián
tiếp…), phải có phần phát triển, phần kết thúc.
Một cuộc hội thoại là một thể thống nhất. Tính thống nhất của hội thoại
đƣợc quyết định bởi tính liên kết hình thức (những biện pháp hình thức để
liên kết hành vi phụ thuộc và hành vi chỉ hƣớng, liên kết hai tham thoại
trongmột cặp thoại với nhau, liên kết các cặp thoại thành sự kiện lời nói và
liên kết lời nói thành đoạn thoại…) và tính mạch lạc về nội dung.
1.1.6.3. Quy tắc điều hành nội dung hội thoại
Theo giáo sƣ Đỗ Hữu Châu [5], quy tắc điều hành nội dung hội thoại
điều hành cả nội dung miêu tả (nội dung thông tin, thông báo), nội dung liên
cá nhân và ngữ dụng, điều hành cả nghĩa trực tiếp và nghĩa hàm ẩn. Sự điều
hành này thông qua hai tiểu quy tắc hợp tác hội thoại và tiểu quy tắc quan
yếu. Sau đây chúng ta tập trung làm rõ bốn phƣơng châm của tiểu quy tắc hợp
tác hội thoại.
Phƣơng châm về lƣợng đòi hỏi lời nói phải có nội dung. Nội dung đó
phải phù hợp với nội dung cuộc thoại thời điểm họ tham gia và có lƣợng tin
không thừa, không thiếu. Thực hiện đúng phƣơng châm này, cuộc thoại tiến
triển bình thƣờng.
Phƣơng châm về chất khuyên ngƣời nói: Hãy nói những điều anh tin
rằng đúng hoặc có bằng chứng xác thực.
17
Phƣơng châm quan hệcó lúc gọi là phƣơng châm quan yếu. Giải thích
về phƣơng châm quan hệ, Grice, ngƣời đề xƣớng ra các phƣơng châm hội
thoại, viết: “Phương châm này được phát biểu rất ngắn gọn: Hãy quan yếu
nghĩa là hãy nói cho đúng chỗ. Tuy nhiên đằng sau hình thức ngắn gọn đó là
một loạt vấn đề không dễ xử lí, như: Cái gọi là quan yếu có bao nhiêu loại,
chia thành bao nhiêu trung tâm, chúng biến đổi như thế nào trong diễn trình
hội thoại, những thủ pháp thông thường được dùng để chuyển đổi một cách
chính đáng đề tài này sang đề tài khác trong một cuộc hội thoại” [6].
Nếu phƣơng châm quan hệ là hãy nói cho đúng chỗ thì khi tiến hành
hội thoại, các đối tác phải xác định đúng vai trò, vị trí của mình, nắm và hiểu
đƣợc nội dung hội thoại tại thời điểm họ tham gia để lời phát biểu đúng chỗ,
không lạc lõng.
1.1.6.4. Những quy tắc chi phối liên cá nhân trong hội thoại – phép lịch sự
Lịch sự là có thái độ nhã nhặn, lễ độ khi tiếp xúc, phù hợp với quan
niệm và phép tắc xã giao của xã hội, thí dụ: nói năng lịch sự. Thực hiện phép
lịch sự trong giao tiếp, hội thoại theo siêu quy tắc của Leech, quy tắc này bao
gồm 6 phƣơng châm lịch sự lớn:
- Phƣơng châm khéo léo
Giảm tối thiểu tổn thất cho ngƣời.
Tăng tối đa lợi ích cho ngƣời.
- Phƣơng châm rộng rãi
Giảm thiểu lợi ích cho ta.
Tăng tối đa tổn thất cho ta.
- Phƣơng châm tán thƣởng
Giảm thiểu sự chê bai đối với ngƣời.
Tăng tối đa khen ngợi ngƣời.
- Phƣơng châm khiêm tốn
18