Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Phân tích nguyên lý mối liên hệ phổ biến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (58.09 KB, 10 trang )

Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật
1. Khái niệm
Các sự vật, các hiện tượng và các quá trình khác nhau của thế giới có mối liên hệ
qua lại, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt lập, tách rời nhau? Nếu
chúng có mối liên hệ qua lại thì cái gì quy định mối liên hệ đó.
Trong lịch sử triết học, để trả lời câu hỏi đó, ta thấy có những quan điểm khác nhau,
thậm chí trái ngược nhau.
Trả lời câu hỏi thứ nhất, những người theo quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật,
hiện tượng tồn tại biệt lập, tách rời nhau, cái này tồn tại bên cạnh cái kia. Chúng không có
sự phụ thuộc, không có sự ràng buộc và quy định lẫn nhau. Nếu giữa chúng có sự quy
định lẫn nhau thì cũng chỉ là những quy định bề ngoài, mang tính ngẫu nhiên. Tuy vậy,
trong số những người theo quan điểm siêu hình cũng có một số người cho rằng, các sự
vật, hiện tượng có mối quan hệ với nhau và mối liên hệ rất đa dạng phong phú, song các
hình thức liên hệ khác nhau không có khả năng chuyển hoá lẫn nhau. Chẳng hạn giới vô
cơ và giới hữu cơ không có mối liên hệ gì với nhau, tồn tại độc lập không thâm nhập lẫn
nhau; tổng số đơn giản của những con người riêng lẻ tạo thành xã hội đứng yên không
vận động...
Trái lại, những người theo quan điểm biện chứng lại cho rằng các sự vật, hiện tượng
và các quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa quy định, tác động qua lại, chuyển hoá
lẫn nhau. Chẳng hạn, bão từ diễn ra trên mặt trời sẽ tác động đến từ trường của trái đất và
do đó tác động đến mọi sự vật, trong đó có con người; sự gia tăng về dân số sẽ tác động
trực tiếp đến nền kinh tế, xã hội, giáo dục y tế.v.v; môi trường ảnh hưởng to lớn đến con
người không chỉ trong một nước mà trên toàn thế giới và ngược lại, hoạt động của con
người cũng tác động, ảnh hưởng làm biến đổi môi trường.
Nếu chúng có mối liên hệ qua lại thì cái gì quy định mối liên hệ đó? Trả lời câu hỏi
thứ hai, những người theo chủ nghĩa duy tâm cho rằng cái quyết định mối quan hệ, sự
chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng là một lực lượng siêu tự nhiên (như trời)
hay do ý thức cảm giác của con người. Đứng trên quan điểm duy tâm chủ quan, Bécơli
cho rằng cảm giác là nền tảng của mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng. Hêghen xuất



phát từ lập trường duy tâm khách quan lại vạch ra rằng “ý niệm tuyệt đối” là nền tảng của
mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng.
Những người theo quan điểm duy vật biện chứng khẳng định tính thống nhất vật
chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vât và hiện tượng. Các sự vật, hiện
tượng tạo thành thế giới dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau bao nhiêu, song chúng
dều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất- thế giới vật chất.
Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn tại biệt lập tách rời nhau mà tồn tại trong
sự tác động qua lại chuyển hoá lẫn nhau theo những quan hệ xác định. Chính trên cơ sở
đó triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để
chỉ sự quy định sự tác động qua lại sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng
hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới .
Nguyên lý này được dựa trên một khẵng định trước đó của triết học Mác-Lênin là
khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vât
và hiện tượng. Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới dù có đa dạng, phong phú, có
khác nhau bao nhiêu, song chúng dều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy
nhất, thống nhất- thế giới vật chất. Engels đã nhấn mạnh điều này
“ Tính thống nhất của thế giới là ở tính vật chất của nó, và tính vật chất này được
chứng minh không phải bằng ba lời lẽ khéo léo của kẻ làm trò ảo thuật, mà bằng sự phát
triển lâu dài và khó khăn của Triết học và khoa học tự nhiên”
Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn tại biệt lập tách rời nhau mà tồn tại
trong sự tác động qua lại chuyển hoá lẫn nhau theo những quan hệ xác định. Chính trên
cơ sở đó triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng mối liên hệ là phạm trù triết học
dùng để chỉ sự quy định sự tác động qua lại sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện
tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới.
1.2.3 Nội dung nguyên lý
Mối liên hệ phổ biến là mối liên hệ giữa các mặt (thuộc tính) đối lập tồn tại trong
mọi sự vật, trong mọi lĩnh vực hiện thực


Mối liên hệ mang tính khách quan và phổ biến. Nó chi phối tổng quát sự vận động,

phát triển của mọi sự vật, quá trình xãy ra trong thế giới; và là đối tượng nghiên cứu của
phép biện chứng.
Mối liên hệ phổ biến được nhận thức trong các phạm trù biện chứng như mối liên hệ
giữa: mặt đối lập- mặt đối lập; chất – lượng, cái cũ – cái mới; cái riêng- cái chung;
nguyên nhân- kết quả; nội dung – hình thức; bản chất- hiện tượng; tất nhiên- ngẫu nhiên;
khả năng – hiện thực.
Nội dung nguyên lý:
◊ Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều tồn tại trong muôn vàn mối liên hệ ràng
buộc lẫn nhau.
◊ Trong muôn vàn mối liên hệ chi phối sự tồn tại của chúng có những mối liên hệ
phổ biến
◊ Mối liên hệ phổ biến tồn tại khách quan, phổ biến; chúng chi phối một cách tổng
quát quá trình vận động, phát triển của mọi sự vật hiện tượng xãy ra trong thế giới.
1.2.4 Tính chất của mối liên hệ phổ biến
Ø Mối liên hệ có tính khách quan
Vì mối liên hệ là vốn có của sự vật, hiện tượng. Nó không phụ thuộc vào ý muốn
chủ quan của con người hay thần linh, thượng đế.
Ø Mối liên hệ có tính phổ biến
Bất cứ sự vật hiện tượng nào; ở bất kỳ không gian nào, bất kỳ thời gian nào cũng có
mói liên hệ với sự vật hiện tượng khác. Ngay trong cùng sự vật, hiện tượng thì bất kỳ
thành phần nào, một yếu tố nào cũng có mối liên hệ với những thành phần, nhữg yếu tốc
khác.
Ví dụ : Trong tự nhiên cây xanh có mối liên hệ với môi trường ( không khí, nhiệt
độ…), còn có mối liên hệ với con người ( con người chăm sóc cây xanh, chặt phá
rừng…). Trong xã hội, không có người nào mà không có các mối quan hệ xã hội như:
quan hệ hàng xóm, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp…, các hình thái kinh tế-xã hội cũng có
mối liên hệ với nhau, hình thái kinh tế -xã hội sau ra đời từ hình thái kinh tế-xã hội


trước(công xã nguyên thủy-chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, cộng sản chủ

nghĩa). Trong tư duy, có mối liên hệ giữa các sự suy đoán, các tâm tư, tình cảm, các cách
suy nghĩ khác nhau ví dụ như : nhìn vào một cô gái ta có các suy đoán cô ấy là người giàu
có, cô ấy không được tốt, cô ấy rất khó tính… Trong thời đại ngày nay không một quốc
gia nào không có quan hệ, không có liên hệ với các quốc gia khác về mọi mặt của đời
sống xã hội. Chính vì thế, hiện nay, trên thế giới đã và đang xuất hiện xu hướng toàn cầu
hoá, khu vực hoá mọi mặt đời sống xã hội. Nhiều vấn đề đã và đang trở thành vấn đề toàn
cầu như: đói nghèo, bệnh hiểm nghèo, môi trường sinh thái, dân số và kế hoạch hoá gia
đình, chiến tranh và hoà bình.v.v.
Ø Tính đa dạng phong phú của mói kiên hệ biểu hiện; sự vật khác nhựa, hiện tượng
khác nhau, không gian khác nhau, thời gian khác nhau thì mối liên hệ biểu hiện khác
nhau. Có thể chia mối liên hệ thành nhiều loại; mối liên hệ bên trong, bên ngoài, chủ yếu,
thứ yêu … các mối liên hệ này có vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và vận động của sự
vật hiện tượng.
Sự phân chia từng cặp mối liên hệ chỉ mang tính tương đối vì mỗi loại mối liên hệ
chỉ là một hình thức, một bộ phận, một mắt xích của mối liên hệ phổ biến. Mỗi loại mối
liên hệ trong từng cặp có thể chuyển hoá lẫn nhau tuỳ theo phạm vi bao quát của mối liên
hệ hoặc do kết quả vận động của chính các sự vật. Chẳng hạn, nếu xem xét các doanh
nghiệp tồn tại với tư cách là các đơn vị độc lập thì mối liên hệ giữa chúng là mối liên hệ
bên ngoài. Trong quá trình vận động và phát triển của mình, các doanh nghiệp kết hợp với
nhau tạo thành công ty, thành tổng công ty thì mối liên hệ giữa các doanh nghiệp lại là
mối liên hệ bên trong.
Tuy sự phân chia thành các loại mối liên hệ chỉ mang tính tương đối ví dụ như các
loài cá ,chim và thú đều có quan hệ với nước nhưng cá với nước là mối liên hệ về môi
trường sống, cá chủ yếu sống trong nước còn chim và thú thì không sống được trong nước
.Nhưng sự phân chia đó lại rất cần thiết bởi vì mỗi loại mối liên hệ có vị trí và vai trò xác
định trong sự vận động và phát triển của sự vật. Con người phải nắm bắt đúng các mối
liên hệ đó để có cách tác động phù hợp, nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động
của mình.
1.2.5 Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý mối liên hệ phổ biến.



Từ nghiên cứu quan điểm duy vật biện chứng về mối liên hệ phổ biến có thể rút ra
phương pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo hiện thực
a) Quan điểm toàn diện
Vì bất cứ sự vật hiện tượng nào trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ với các
sự vật khác và mối liên hệ rất đa dạng phong phú, do đó khi nhận thức về sự vật, hiện
tượng chúng ta phải có quan điểm toàn diện, tránh quan điểm phiến diện chỉ xét sự vật,
hiện tượng ở một mối liên hệ đã vội vàng kết luận về bản chất hay về tính quy luật của
chúng.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối liên hệ qua lại
giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua
lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp.
Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật. Chẳng hạn, muốn nhận thức đúng
và đầy đủ tri thức của khoa học triết học, chúng ta còn phải tìm ra mối liên hệ của tri thức
triết học với tri thức khoa học khác, với tri thức cuộc sống và ngược lại, vì tri thức triết
học được khái quát từ tri thức của các khoa học khác và hoạt động của con người, nhất là
tri thức chuyên môn được chúng ta lĩnh hội.
Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt các mối liên hệ,
phải biết chú ý đến các mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu,
mối liên hệ tất nhiên ... để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù
hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong sự phát triển của bản thân.
Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự vật, chúng ta
không những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó mà còn phải chú ý tới những
mối liên hệ của sự vật ấy với các sự vật khác. Đồng thời chúng ta phải biết sử dụng đồng
bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất.
Để thực hiện mục tiêu : “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”,
một mặt chúng ta phải phát huy nội lực của đất nước ta; mặt khác phải biết tranh thủ thời
cơ, vượt qua thử thách do xu hướng quốc tế hoá mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và toàn
cầu hoá kinh tế đưa lại.
b) Quan điểm lịch sử - cụ thể



Vì sự vật nào cũng có quá trình hình thành tồn tại, biến đổi và phát triển ,mỗi giai
đoạn phát triển của sự vật lại có những mối liên hệ riêng đặc trưng cho nó. Cho nên khi
xem xét sự vật vừa phải xem xét quá trình phát triển của nó, vừa phải xem xét trong từng
điều kiện quá trình .
Quan điểm lịch sử cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác động vào
sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật
sinh ra tồn tại và phát triển. Một luận điểm nào đó là luận điểm khoa học trong điều kiện
này nhưng sẽ không phải là luận điểm khoa học trong điều kiện khác. Chẳng hạn, thường
thường trong các định luật của hoá học bao giờ cũng có hai điều kiện: nhiệt độ và áp suất
xác định. Nếu vượt khỏi những điều kiện đó định luật sẽkhông còn đúng nữa. Trong lịch
sử triết học khi xem xét các hệ thống triết học bao giờ chúng ta cũng xem xét hoàn cảnh
ra đời và phát triển của các hệ thống đó .
Phần II : Vận dụng của bản thân
Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận, quan điểm toàn diện, quan điểm
lịch sử - cụ thể góp phần định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn
cải tạo hiện thực, cải tạo chính bản thân chúng ta. Song để thực hiện được chúng, mỗi
chúng ta cần nắm chắc cơ sở lý luận của chúng - nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và
nguyên lý về sự phát triển, biết vận dụng chúng một cách sáng tạo trong hoạt động của
mình. Đối với sinh viên, ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, vẫn có thể sử dụng các
nguyên tắc phương pháp luận đó vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình góp
phần xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, xã hội ta ngày càng tươi đẹp.
Chúng ta có thể áp dụng những quan điểm này trong cuộc sống
Chúng ta hiện nay đều là những tân sinh viên, khi mới nhập học hầu như là không
quen biết nhau. Khi nhìn thấy 1 bạn nào đấy , chắc chắn chúng ta đều có những ấn tượng
đầu tiên về ngoại hình , tính cách của bạn đó. Nhưng nếu chỉ qua 1 vài lần gặp mặt mà
chúng ta đã đánh giá bạn là người xấu hoặc tốt , dễ tính hay khó tính. Cách đánh giá như
vậy là phiến diện , chủ quan trái với quan điểm toàn diện.Điều có thể làm cho chúng ta có
những quyết định sai lầm . Chẳng hạn như khi nhìn thấy một người có gương mặt ưa nhìn

, ăn nói nhỏ nhẹ đã vội vàng kết luận là người tốt và muốn làm bạn , còn khi nhìn thấy
một người ít nói , không hay cười thì cho là khó tính không muốn kết bạn. Qua một thời


gian kết bạn mới nhận ra người bạn mà mình chọn có những đức tính không tốt như lợi
dụng bạn bè, ích kỷ. Còn người bạn ít nói kia thực ra rất tốt bụng , hay giúp đỡ bạn bè. Ấn
tượng đầu tiên chỉ quyết định đến quá trình giao tiếp về sau. Quan điểm toàn diện dạy cho
ta biết rằng khi xem xét, đánh giá một sự vật, hiện tượng phải xem xét đánh giá một cách
toàn diện , mọi mặt của vấn đề để hiểu được bản chất thật sự của sự vật hiện tượng.
Chúng ta không thể chỉ nhìn bề ngoài mà phán xét về phẩm chất, đạo đức của người
đó.Vẻ bề ngoài không nói lên được tất cả , có thể bạn đó có gương mặt lạnh lùng nhưng
tính bạn rất cởi mở, hòa đồng, dễ gần. Vì vậy muốn đánh giá 1 con người cần phải có thời
gian tiếp xúc lâu dài , nhìn nhận họ trên mọi phương diện , ở từng thời điểm ,từng hoàn
cảnh khác nhau.
Trong quan hệ giữa con người với con người, chúng ta phải biết ứng xử sao cho phù
hợp với từng con người. Đối với những người bề trên như ông ,bà ,bố ,mẹ, thầy cô… thì
chúng ta cần có thái độ cư xử lễ phép, tôn trọng họ. Đối với bạn bè thì có những hành
động , thái độ thoải mái,tự nhiên .Ngay cả quan hệ với một con người nhất định ở những
không gian khác nhau hoặc thời gian khác nhau, chúng ta cũng phải có cách giao tiếp,
cách quan hệ phù hợp như ông cha đã kết luận: “đối nhân xử thế”. Ví dụ như khi xưa anh
ta là người xấu ,tính cách không tốt hay vụ lợi không nên giao tiếp chơi thân, nhưng hiện
nay anh ta đã sửa đổi tính cách tốt hơn biết quan tâm mọi người không như xưa , chúng ta
cần nhìn nhận anh ta khác đi , có thể cư xử khác trước, có thể giao tiếp , kết bạn với anh
ta.
Hay khi xem xét nguyên nhân của một vấn đề nào đó để giải quyết, chúng ta cần
xem xét chúng trong các mối liên hệ để xem nguyên nhân từ đâu để có cách giải quyết, xử
lý tốt . Khi ta học kém đi , điểm số giảm cần tìm nguyên nhân do đâu khiến ta như vậy.
Do lười học, không hiểu bài, không làm bài tập hay không có thời gian học. Nếu tìm được
nguyên nhân cụ thể, chủ yếu , thì sẽ tìm được cách giải quyết đúng đắn.
Chúng ta có thể áp dụng những quan điểm này trong việc học tập:

Trong học tập bao giờ cũng xác định mục tiêu, động cơ, thái độ đúng đắn thì mới có
kết quả cao hơn. Việc vận dụng quan điểm toàn diện và lịch sử cụ thể trong học tập sẽ


giúp định hướng học tập sâu hơn và cao hơn, quan điểm toàn diện và lịch sử cụ thể là thế
giới quan của mỗi con người.
Để vận dụng quan điểm trên chúng ta cần phân tích, xem xét các mặt của việc học
một cách cụ thể, toàn diện, phù hợp với từng thời điểm :
- Học tập là suốt đời, học bằng cái gì: bằng mắt, bằng tai, bằng tay, bằng da, bằng
mũi, bằng miệng, học cái gì trước, cái gì sau, học cái gì để biết, cái gì để làm, học để tồn
tại, học để chung sống với con người, với vạn vật, với muôn loài...
- Người học phải biết khiêm tốn, học phải hỏi, học ở mọi người.
- Nhiều thứ con người muốn học, nhưng muốn hiểu kỷ và sâu sắc thì phải tốn nhiều
thời gian, kiên trì, kiên nhẫn. ví dụ như người trồng lúa: học biết các giống lúa, loại nào
phù hợp vùng đất nào, thời tiết nào, những điều kiện và cách chăm bón đúng cách để đạt
năng suất, khi phát hiện có sâu rầy phải giải quyết thế nào...
- Học phải gắn với hành thì việc học có kết quả nhanh hơn. Người xưa vẫn dạy rằng:
“Trăm hay không bằng tay quen”. Lao động thời nào cũng vậy, phải luôn ý thực là lí
thuyết hay cũng không bằng thực hành giỏi. Vai trò của thực hành được đề cao là điều
hiển nhiên.
Ngày nay với đà phát triển của xã hội, quan niệm lí thuyết và thực hành được hiểu
khác hơn, học và hành lúc nào cũng đi đôi, không thể tách rời nhau. Trước hết ta cần
hiểu : “học” là tiếp thu kiến thức đã được tích luỹ trong sách vở, là nắm vững lí luận đã
được đúc kết trong các bộ môn khoa học, đồng thời tếp nhận những kinh nghiệm của cha
anh đi trước. “Học” là trau dồi kiến thức, mở mang trí tuệ, từng lúc cập nhật hóa sự hiểu
biết của mình, không để tụt lùi, lạc hậu. “Học” là tìm hiểu, khám phá những tri thức của
loài người nhằm chinh phục thiên nhiên, chinh phục vũ trụ. Còn “hành” nghĩa là làm, là
thực hành, là ứng dụng kiến thức, lí thuyết vào thực tiễn đời sống. Cho nên học và hành
có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Học và hành là hai mặt của một qua trình thống
nhất, nó không thể tách rời mà phải luôn gắn chặt với nhau làm một.



Chúng ta cần hiểu rõ “hành” vừa là mục đích vừa là phương pháp học tập. Một khi
đã nắm vững kiến thức, đã tiếp thu lí thuyết mà ta không vận dụng vào thực tiễn, thì học
cũng trở nên vô ích. Có nhiều bạn trẻ khi rời ghế nhà trường vào một nhà máy, một cơ
quan… Lúng túng không biết phải làm công việc mà chuyên môn mình đã được học như
thế nào? Dẫn đến gặp rất nhiều khó khăn, nhiều khi là sự hoang mang, chán nản. Nguyên
do dẫn đến việc “học” mà không “hành” được là do học không thấu đáo, khi còn ngồi trên
ghế nhà trường không thật sự chuyên tâm, rèn luyện, trau dồi kiến thức hoặc thiếu môi
trường hoạt động.
Ngược lại nếu hành mà không có lí luận, lí thuyết soi sáng và kinh nghiệm đã được
đúc kết dẫn dắt thì việc ứng dụng vào thực tiễn sẽ lúng túng, gặp rất nhiều khó khăn trở
ngại, thậm chí có khi còn dẫn đến những sai lầm to lớn nữa. Do vậy việc học tập, trau dồi
kiến thức và kinh nghiệm là nền tảng để mỗi người áp dụng vào thực tế, thực hành trong
thực tiễn cuộc sống.
Một thực tế cho thấy, sự thiếu liên hệ giữa kiến thức với thực tiễn ở các trường phổ
thông đã khiến các sinh viên tương lai không biết nên lựa chọn ngành học nào trước mùa
thi. Đa số các em không biết sử dụng những kiến thức đã được học vào việc gì ngoài việc
để... thi đỗ đại học
Hậu quả sâu xa hơn của việc “học” không đi đôi với “hành” là có nhiều học sinh,
sinh viên đạt kết quả học tập rất cao nhưng vẫn ngơ ngác khi bước vào cuộc sống, nhiều
thủ khoa sau khi ra trường, va vấp cuộc sống mới tự hỏi: “Không biết việc chọn trường
chọn ngành của mình đã đúng hay chưa?”. Nhất là khi xã hội đang cần những người có
tay nghề cao phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì việc “Học đi đôi
với hành” càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
- Tuy nhiên, nếu chỉ chăm vào học tập thôi thì chưa đủ, chúng ta cần phải rèn luyện
cả về phẩm chất, đạo đức như Bác đã từng dạy “Có tài mà không có đức là người vô
dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó” Tài và đức là những phẩm chất
khác nhau nhưng luôn luôn gắn bó mật thiết không thể tách rời. Có tài mà không có đức
là người vô dụng, bởi tài năng đó không phục vụ cái chung mà chỉ mưu cầu lợi ích cho

một cá nhân thì cũng trở thành vô giá trị. Con người ta không thể sống một mình, không


thể tách rời khỏi gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, nhân dân, nhân loại. Giá trị một con
người được xem xét chính bởi tác dụng của cá nhân đó trong mối quan hệ với đồng loại.
Người không có đức là người không quan tâm đến quyền lợi của người khác. Nếu có tài,
họ cũng chỉ vun vén để có lợi cho riêng họ. Người có tài mà phản bội Tổ quốc, đi ngược
lại lợi ích của tập thể thì chẳng những vô dụng mà còn có tội. Người càng có tài mà kém
đạo đức thì tác hại mang đến cho gia đình, xã hội càng lớn.
Nhưng nếu chỉ có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Có đức, có khát
vọng hành động vì lợi ích của mọi người nhưng không có kiến thức, năng lực kém thì
những ý định tốt cũng khó trở thành hiện thực. Tài năng giúp con người lao động có hiệu
quả. Thiếu tài năng, người ta trở nên ít có tác dụng trong đời sống con người. Rõ ràng là
giá trị con người phải bao gồm cả tài và đức. Đức và tài bổ sung, hỗ trợ cho nhau thì con
người mới trở nên toàn diện, mới đạt hiệu quả lao động cao và mới có ích cho mọi người.
Chúng ta hiện nay đang là những sinh viên, là những người đang trong quá trình
phát triển về mọi mặt cả về thể lực và trí lực, tri thức và trí tuệ nhân cách... cho nên thời
kì này phải tranh thủ điều kiện để hoàn thiện bản thân, phải rèn luyện cả phẩm chất, năng
lực, cả đức cả tài, học hỏi bạn bè, gia đình, nhà trường và xã hội để trở thành con người
mới xã hội chủ nghĩa nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện nay làm nền tảng cho sự phát
triển tiếp tục trong tương lai.



×