Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính một số vấn đề lý luận và thực tiễn (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (967.45 KB, 84 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ BẠCH TUYẾT

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI TRONG
VỤ ÁN HÀNH CHÍNH – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ BẠCH TUYẾT

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI TRONG
VỤ ÁN HÀNH CHÍNH – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN

Chuyên ngành: LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Mã số: 60380102

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN:TS. TRẦN THỊ HIỀN



HÀ NỘI - 2017


LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành được Luận văn thạc sĩ, lời đầu tiên, em xin chân thành
cảm ơn tới:
Ban giám hiệu, Khoa sau đại học và thư viện Trường Đại học Luật Hà Nội
đã tạo điều kiện giúp cho em trong suốt quá trình học tập và làm luận văn.
Em xin gửi lời cảm ơn đến các thày, cô giáo trong Khoa Luật Hiến pháp và
Luật Hành chính nói chung và các thầy, cô giáo trong tổ bộ môn Luật Hành chính
nói riêng, những người đã giảng dạy và giúp đỡ em trong quá trình học tập.
Đặc biệt, em xin cảm ơn TS. Trần Thị Hiền, người đã tận tình hướng dẫn,
tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành Luận văn thạc sĩ.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 10 tháng 8 năm 2017
Học viên

NGUYỄN THỊ BẠCH TUYẾT


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn: “Bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính
– Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” là do bản thân tự thực hiện và không sao
chép các công trình nghiên cứu của người khác để làm sản phẩm của riêng mình.
Những nội dung trong luận văn này là do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn trực
tiếp của cô giáo TS. Trần Thị Hiền. Những phần sử dụng tài liệu tham khảo trong
luận văn đã được trích dẫn và nêu rõ nguồn trong phần tài liệu tham khảo. Tôi
hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính xác thực và nguyên bản của luận văn này.
Hà Nội, ngày 10 tháng 8 năm 2017

Tác giả luận văn
Học viên

Nguyễn Thị Bạch Tuyết


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1. BLDS: Bộ luật dân sự.
2. BTTH: Bồi thường thiệt hại.
3. Luật TNBTCNN: Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước.
4. Luật TTHC: Luật Tố tụng Hành chính.
5. Nghị quyết 02: Nghị quyết 02/2011/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành Luật Tố tụng hành
chính năm 2010
6. Nghị quyết 03: Nghị quyết 03/2003/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối caongày 18/4/2003 hướng dẫn thi hành Pháp lệnh
thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.
7. Pháp lệnh: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm
1996.
8. QLHC: Quản lý hành chính.
9. TAND: Tòa án nhân dân
10. TTLT số 18: Thông tư liên tịch 18/2015/TTLT-BTP-BTC-TTCP
hướng dẫn thực hiện trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động
quản lý hành chính do Bộ trưởng Bộ Tư pháp - Bộ Tài chính - Tổng Thanh tra
Chính phủ ban hành ngày 14/12/2015.
11. VD: Ví dụ


MỤC LỤC
1. Tính cấp thiết của đề tài. ..................................................................... 1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài .................................................................... 2
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài ..................................................... 4
4. Mục tiêu của việc nghiên cứu .................................................................. 4
5. Các câu hỏi nghiên cứu ........................................................................... 5
6. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 5
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn........................................... 5
8. Kết cấu của luận văn ................................................................................ 5
Chƣơng 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI TRONG
VỤ ÁN HÀNH CHÍNH ................................................................................... 7
1.1. Khái niệm yêu cầu bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính. ..... 7
1.2. Đặc điểm pháp lý của bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính. ........ 8
1.3. Các căn cứ giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại trong vụ án hành
chính............................................................................................................ 11
1.5. Ý nghĩa của bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính.............. 15
Kết luận chương 1: ..................................................................................... 18
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG VỤ ÁN HÀNH CHÍNH VÀ THỰC
TIỄN THI HÀNH....................................................................................... 20
2.1 Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển của quy định về bồi thường
thiệt hại trong tố tụng theo luật tố tụng hành chính Việt Nam. .............. 20
2.1.1. Quy định về giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại trong vụ án
hành chính tại Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm
1996. ................................................................................................... 20
2.1.2. Quy định về giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại trong vụ án
hành chính tại Luật Tố tụng hành chính 2010. ....................................... 22
2.2. Yêu cầu và thụ lý yêu cầu bồi thường thiệt hại trong vụ án hành
chính............................................................................................................ 25
2.2.1. Người có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại trong vụ án hành
chính. ................................................................................................... 25
2.2.2. Thời hiệu yêu cầu giải quyết bồi thường thiệt hại. ........................ 26



2.2.3. Đơn khởi kiện có nội dung yêu cầu bồi thường thiệt hại. ............. 27
2.2.4 Các tài liệu chứng minh thiệt hại trong vụ án hành chính. ............ 30
2.2.5.Thụ lý vụ án hành chính có nội dung yêu cầu bồi thường thiệt hại. .....34
2.3. Giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính. .... 34
2.3.1. Thẩm quyền giải quyết yêu cầu bồi thường trong vụ án hành
chính. .......................................................................................... 34
2.3.2. Các vấn đề cần giải quyết trong vụ án hành chính có yêu cầu bồi
thường. ................................................................................................... 37
2.3.3. Các thiệt hại được bồi thường trong vụ án hành chính ................ 38
2.4. Bản án trong vụ án hành chính có yêu cầu bồi thường thiệt hại. .... 45
2.5. Kháng cáo, kháng nghị vụ đối với việc giải quyết yêu cầu bồi thường
thiệt hại trong vụ án hành chính. .............................................................. 46
2.6. Thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường trong vụ án hành chính. ...47
2.6.1. Kết quả đạt được........................................................................... 47
2.6.2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân ....................................... 49
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC BỒI
THƢỜNG THIỆT HẠI TRONG VỤ ÁN HÀNH CHÍNH ....................... 63
3.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại trong vụ
án hành chính. .................................................................................. 63
3.1.1 Kiến nghị về thống nhất phạm vi trách nhiệm bồi thường giữa Luật
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và luật Tố tụng hành chính. ...... 63
3.1.2 Thời hiệu khởi kiện. ....................................................................... 64
3.1.3 Các loại thiệt hại được bồi thường trong vụ án hành chính. ........ 65
3.1.4 Nghĩa vụ chứng minh thiệt hại trong vụ án hành chính. ............... 67
3.1.5. Kiến nghị bổ sung về thời hạn và nghĩa vụ cung cấp, giao nộp
chứng cứ của bên bị kiện. ........................................................................ 68
3.1.6. Cần tăng cường hơn nữa các biện pháp xử lý vi phạm trong thi
hành án hành chính. ................................................................................ 69

3.2. Các giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả của bồi thường thiệt
hại trong vụ án hành chính. ...................................................................... 70
Kết luận chương 3 ...................................................................................... 72
KẾT LUẬN CHUNG ...................................................................................... 74


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thành lập với nền tảng
là một Nhà nước của giai cấp vô sản, do toàn thể nhân dân lao động làm chủ.
Ngay từ những ngày đầu thành lập, chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn nhấn mạnh
Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời là của dân, do dân và vì dân, do Đảng lãnh
đạo và toàn thể nhân dân làm chủ. Trong suốt quá trình từ khi thành lập đến
nay, bộ máy chính trị và hệ thống pháp luật không ngừng được hoàn thiện để
tối ưu hóa mọi quyền lợi của dân chúng. Bộ máy hành chính Nhà nước không
ngừng được kiện toàn từ trung ương đến địa phương với công cụ là các văn
bản quy phạm pháp luật ngày càng được chặt chẽ với nhiệm vụ bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khi những quyền và lợi ích
hợp pháp này bị xâm phạm.
Với tư cách là chủ thể duy nhất có quyền quản lý, điều hành xã hội, Nhà
nước đã sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong các bộ máy chính
quyền các cấp từ trung ương đến địa phương. Trong quá trình Nhà nước thực
hiện các công việc thuộc thẩm quyền của mình, dù thực thi nghiêm ngặt theo
các quy định của pháp luật nhưng các cán bộ công chức không thể tránh khỏi
những sai lầm do lỗi vô ý hoặc cố ý gây thiệt hại trực tiếp hoặc gián tiếp cho
nhân dân. Để thể hiện tính công bằng, dân chủ, Nhà nước ta thừa nhận việc
bồi thường thiệt hại với những sai lầm này.
Việc bồi thường thiệt hại Nhà nước đã được đặt ra trong rất nhiều văn

bản quy phạm pháp luật như: Luật Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Tố tụng
Hình sự năm 2005, Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, Luật Tố tụng Hành
chính 2015 nhưng rõ nét và bao quát nhất là trong Luật trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước. Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được ban
hành ngày 18/6/2009, có hiệu lực ngày 01/01/2010 và sắp tới sẽ được thay thế


2

bởi Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước Luật trách nhiệm bồi thường
của Nhà nước ban hành ngày 20/6/2017, có hiệu lực ngày 01/7/2018. Luật
này đề cập phạm vi bồi thường của Nhà nước trong 3 lĩnh vực: Hoạt động
quản lý hành chính Nhà nước; hoạt động tố tụng, hoạt động thi hành án, trong
đó hoạt động quản lý hành chính nhà nước là hoạt động có phạm vi ảnh
hưởng trực tiếp đến hầu hết mọi tầng lớp trong đời sống xã hội.
Tuy bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ, luôn đặt ích của
nhân dân lên hàng đầu nhưng trong quá trình thực hiện hoạt động quản lý
hành chính, các cán bộ công chức lại hoạt động chưa thực sự hiệu quả, chưa
đảm bảo được tối đa quyền lợi cho nhân dân. Hành động này có thể xuất phát
từ nhiều nguyên nhân: do trình độ, năng lực của cán bộ công chức còn yếu
kém; do cơ sở vật chất chưa đảm bảo hoặc cũng có thể do lợi ích cá nhân, lợi
ích nhóm khiến các cán bộ, công chức vô tình hoặc cố ý đưa ra những quyết
định trái pháp luật.
Để đảm bảo cho chính sách bồi thường Nhà nước nói chung và bồi
thường Nhà nước trong lĩnh vực quản lý hành chính nói riêng được đưa vào
thực tế một cách hiệu quả, đúng tinh thần thì không những pháp luật về bồi
thường Nhà nước phải được hoàn thiện hóa, cụ thể hóa mà còn phải có những
công trình nghiên cứu cụ thể làm rõ nội hàm cơ cở lý luận thực tiễn của các
quy định pháp luật để có cơ chế áp dụng thống nhất cũng như kiến nghị sửa
đổi bổ sung hoàn thiện hơn nữa các quy định pháp luật về BTTH trong hoạt

động QLHC Nhà nước. Vấn đề BTTH có thể phát sinh từ nhiều con đường
như khiếu nại, khiếu kiện, trong phạm vi Luận văn của mình, tác giả xin đi
sâu nghiên cứu chủ đề: “Bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính – một
số vấn đề lý luận và thực tiễn”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài


3

Trong khoa học pháp lý từ trước đến nay những nghiên cứu về vấn đề
bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực hành chính còn tương đối hạn chế. Tuy
nhiên, các công trình nghiên cứu của các nghiên cứu sinh, học viên và các nhà
khoa học về vấn đề bồi thường thiệt hại trong luật Dân sự, trách nhiệm bồi bồi
thường thiệt hại của Nhà nước lại rất đa dạng.
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường do Tiến sỹ Nguyễn Minh Tuấn
làm chủ nhiệm “Trách nhiệm dân sự của cơ quan, tổ chức về thiệt hại do
hành vi của cán bộ công chức gây ra – Vấn đề lý luận và thực tiễn”, Trường
Đại học Luật Hà Nội, năm 2008. Đề tài đề cập đến nội dung trách nhiệm dân
sự theo Điều 619 BLDS, phân tích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của Điều
619, đưa ra các kiến nghị với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hướng
dẫn áp dụng và hoàn thiện Điều 619 và Điều 620 BLDS, đồng thời tham gia
góp ý kiến xây dựng Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
- Luận văn Thạc sĩ Luật học: “Những vấn đề cơ bản về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Bộ luật Dân sự" và Luận án Tiến sĩ
“Bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng
gây ra” của tác giả Lê Mai Anh đề cập đến các vấn đề: tiếp cận vấn đề trách
nhiệm dân sự, khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và
đặc điểm pháp lý; đặc điểm, nội dung, bản chất trách nhiệm của Nhà nước
trong việc bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành
tố tụng gây ra trong hoạt các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.

- Bài viết "Lỗi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng" của
TS Phùng Trung Tập - Trưởng bộ môn Luật Dân sự, Khoa Luật Dân sự,
Trường Đại học Luật Hà Nội. Trong bài viết này có đề cập đến nhiều vấn đề
trong đó có nội dung có tính chất tham khảo quan trọng cho việc nghiên cứu
đề tài của tác giả như: việc phân tích những hành vi có lỗi trong một số loại
trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng (về cơ sở xác định lỗi, hình thức lỗi), hay


4

khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cần phải xác
định yếu tố lỗi để có căn cứ quy trách nhiệm cho người có hành vi trái pháp
luật.
Ngoài ra, còn có nhiều chuyên đề, bài viết, bài nghiên cứu, báo cáo của
các tác giả khác cũng là những tài liệu quan trọng được tác giả lựa chọn tham
khảo khi thực hiện đề tài nghiên cứu.
Đề tài “Bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính – một số vấn đề lý
luận và thực tiễn” lần đầu tiên được nghiên cứu ở cấp độ luận văn thạc sỹ một
cách chuyên sâu, toàn diện, đầy đủ và đảm bảo được tính logic, hệ thống,
không có sự trùng lặp với các công trình nghiên cứu khoa học đã được công
bố.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu đề tài
Luận văn nghiên cứu những vấn đề sau:
- Một số vấn đề lý luận cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
Nhà nước cho cá nhân, tổ chức khi cá nhân, tổ chức bị thiệt hại phát sinh
trong vụ án Hành chính;
- Nội dung và thực tiễn thi hành pháp luật hiện hành của Việt Nam về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước trong vụ án Hành chính.
4. Mục tiêu của việc nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là làm rõ những quy định của pháp

luật tố tụng hành chính về bồi thường thiệt hại khi phương pháp này được quy
định trong Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996 đến
nay, nghiên cứu mối quan hệ giữa Bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính
với các trách nhiệm bồi thường Nhà nước khác để từ đó định hướng một cách
hiểu, áp dụng đúng, thống nhất về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ
án hành chính.


5

5. Các câu hỏi nghiên cứu
- Vấn đề bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính được quy định
trong pháp luật nước ta như thế nào?
- Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện quy định của pháp luật về Bồi
thường thiệt hại trong vụ án hành chính.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng một số phương pháp cụ thể như: Phương pháp so sánh,
phân tích, tổng hợp, phương pháp lịch sử để nghiên cứu đề tài này. Mặt khác,
trên cơ sở đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật, thực tiễn xã hội, tác giả đưa
ra những bất cập của quy định pháp luật hiện hành và nêu một số quan điểm
về phương hướng hoàn thiện.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn.
Luận văn đã tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ bản chất và ý nghĩa của
việc bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính. Bên cạnh đó, luận văn trình
bày hệ thống các quy định của pháp luật hiện hành về bồi thường thiệt hại
trong vụ án hành chính trong tương quan với các quy định trước đây về bồi
thường thiệt hại trong vụ án hành chính, từ đó đưa ra một số kiến nghị nhằm
hoàn thiện hơn nữa quy định pháp luật về vấn đề này.
8. Kết cấu của luận văn
Chƣơng 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI

TRONG VỤ ÁN HÀNH CHÍNH.
Chƣơng 2: PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ BỒI
THƢỜNG THIỆT HẠI TRONG VỤ ÁN HÀNH CHÍNH VÀ THỰC
TIỄN THI HÀNH


6

Chƣơng 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC
BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI TRONG VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


7

Chƣơng 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ YÊU CẦU BỒI THƢỜNG
THIỆT HẠI TRONG VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
1.1.

Khái niệm yêu cầu bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính.

Để tìm hiểu về khái niệm bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính,
trước hết cần hiểu rõ các khái niệm liên quan như: thế nào thiệt hại và bồi
thường thiệt hại, thế nào là vụ án hành chính.
Theo nghĩa thông thường, thiệt hại là “mất mát, hư hỏng nặng nề về
người và của”1. Trên thực tế, thiệt hại là sự hao hụt về lợi ích vật chất hay
tinh thần của một chủ thể do tác động của một chủ thể khác. Thiệt hại được
biểu hiện qua các dấu hiệu: tổn thất lợi ích vật chất hoặc tinh thần. Tổn thất
vật chất xảy ra khi tài sản bị mất mát, bị hủy hoại, bị hư hỏng và chi phí khắc

phục, ngăn chặn thiệt hại cùng hoa lợi, lợi tức không thu được do tài sản bị hư
hỏng. Tổn thất hay tinh thần xảy ra khi danh dự, uy tín, nhân phẩm hoặc suy
sụp tâm lý, tình cảm của cá nhân cụ thể, liên quan đến các đối tượng mà hành
vi gây thiệt hại xâm phạm đến như tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài
sản của cá nhân, tổ chức.
Trong Đại từ điển tiếng Việt bồi thường là “đền bù những tổn thất đã
gây ra” 2 Bồi thường thiệt hại là một dạng nghĩa vụ dân sự phát sinh từ việc
chủ thể này gây ra thiệt hại, tổn thất cho chủ thể khác. Trong lịch sử, nghĩa vụ
này phát triển theo hướng từ bắt đầu là sự trả thù cá nhân nhằm vào nhân thân
của người gây thiệt hại, do người bị thiệt hại và những người thân của người
bị thiệt hại áp dụng, rồi dần chuyển sang hình thức phạt tài sản, phạt tiền, sau
đó được Nhà nước bảo hộ theo quy định và trình tự tố tụng nhất định. Bồi
thường thiệt hại còn có thể do sự vi phạm nghĩa vụ, bồi thường thiệt hại dạng
này cũng là một chế định được hình thành trong lịch sử lâu đời của pháp luật
1 Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Tr. 1571
2 Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Tr 45


8

dân sự Việt Nam cũng như các nước trên thế giới. Như vậy, về pháp lý, bồi
thường thiệt hại là “Hình thức trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên có hành vi
gây ra thiệt hại khắc khắc phục hậu quả bằng cách bù đắp, đền bù tổn thất về
vật chất và tổn thất tinh thần cho người bị thiệt hại”.
Vụ án là việc tranh chấp phát sinh từ đơn khởi kiện của đương sự, được
Tòa án thụ lý và giải quyết. Vụ án hành chính là vụ án phát sinh khi cá nhân,
tổ chức khởi kiện yêu cầu Tòa án xem xét tính hợp pháp của quyết định hành
chính, hành vi hành chính của cơ quan Nhà nước và được Tòa thụ lý theo quy
định của pháp luật.
Sau khi tìm hiểu các khái niệm trên, tác giả xin mạnh dạn đưa ra khái

niệm giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính “là việc
Tòa án giải quyết đồng thời yêu cầu bồi thường thiệt hại của người khởi kiện,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hành chính”. Tòa án hành
chính sau khi làm rõ tính trái pháp luật của quyết định hành chính, hành vi
hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại
về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri (sau đây gọi tắt là
quyết định hành chính, hành vi hành chính) là đối tượng khởi kiện thì yêu cầu
người có hành vi vi phạm pháp luật bồi thường những thiệt hại đã gây ra bởi
hành vi vi phạm pháp luật đó.
1.2. Đặc điểm pháp lý của yêu cầu bồi thường thiệt hại trong vụ án
hành chính.
Thứ nhất, yêu cầu bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính phát
sinh giữa bên bị thiệt hại là người dân và bên gây thiệt hại là cơ quan, tổ
chức, cá nhân có quyết định hành chính, hành vi hành trái pháp luật.
Trong vụ án hành chính người khởi kiện là cơ quan, tổ chức, cá nhân
khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành
chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về


9

quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc
hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, danh sách cử tri
trưng cầu ý dân và người bị kiện là cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyết định
hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định
giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri
bị khởi kiện. Theo ngôn ngữ dân gian, đây là việc “dân kiện quan” do “quan”
đã làm nhiệm vụ quản lý hành chính trái với quy định của pháp luật và Tòa án
là cơ quan trung gian phân xử đúng, sai.
Việc bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính phát sinh từ việc người

khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đồng thời yêu cầu bồi
thường thiệt hại do quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ
luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ
việc cạnh tranh, danh sách cử tri (sau đây gọi tắt là quyết định hành chính,
hành vi hành chính) gây ra. Như vậy, bên được bồi thường thiệt hại trong vụ
án hành chính luôn là người phải chịu thiệt hại do do quyết định hành chính,
hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết
khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri gây ra gây
ra và bên phải bồi thường luôn là người thi hành công vụ có hành vi vi phạm
pháp luật.
Thứ hai, việc yêu cầu bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính làm
phát sinh trách nhiệm bồi thường Nhà nước
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính phát sinh khi
Tòa án đưa ra kết luận có quyết định hành chính, hành vi hành chính trái pháp
luật. Lúc này, chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường là người đã đưa ra
quyết định hành chính, hành vi hành chính đó. Chủ thể này nhân danh Nhà
nước để thi hành công vụ và gây thiệt hại do đó, trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước được phát sinh.


10

Trong bồi thường dân sự thông thường, bên có nghĩa vụ BTTH là bất cứ
chủ thể nào do vô ý hoặc cố ý có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại (hoặc
trong trường hợp người gây thiệt hại là người chưa thành niên thì người bồi
thường là cha mẹ, giám hộ của người chưa thành niên đó). Nhưng đối với
trách nhiệm BTTH của Nhà nước trong lĩnh vực hành chính chủ thể gây thiệt
hại luôn luôn là những người thi hành công vụ theo sự chỉ đạo, phân công của
Nhà nước nhưng do chịu sự tác động của các nguyên nhân chủ quan, khách
quan khác nhau đã có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho nhân dân

dẫn đến hậu quả Nhà nước phải đứng ra bồi thường cho những hành vi vi
phạm đó.
Như vậy, chủ thể phải bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính là Nhà
nước, còn chủ thể được bồi thường là các cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do các
hành vi trái pháp luật của các cán bộ, công chức Nhà nước gây ra.
Thứ ba, việc yêu cầu bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính phát
sinh do quyết định hành chính, hành vi hành chính xâm phạm các quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân.
Trong quá trình thi hành công vụ, các cán bộ, công chức đã gây thiệt hại
trực tiếp hoặc gián tiếp đến những khách thể là các quyền cơ bản của công
dân như quyền được tự do, được tự do, được bảo vệ tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản. Do đó, thiệt hại xảy ra cũng có tính chất
giống như thiệt hại về nhân thân, tài sản thông thường khác nhưng hậu quả
gây ra lại nặng nề hơn về nhiều phương diện. Nó không chỉ gây ra những tổn
thất đối vơi bản thân người bị thiệt hại và gia đình của họ mà còn đem đến
những tác động tiêu cực đối với cơ quan, cán bộ, công chức gây thiệt hại.
Nghiêm trọng hơn, nó còn làm xói mòn và giảm sút niềm tin của công dân
vào pháp luật, vào cơ quan công quyền. Việc giải quyết BTTH do cán bộ,
công chức gây ra trong thi hành công vụ cần phải được giải quyết một cách


11

thận trọng, triệt để chứ không thể xem xét giải quyết như những BTTH thông
thường khác.
1.3.

Các căn cứ giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại trong vụ án

hành chính.

Để yêu cầu bồi thương thiệt hại được giải quyết đồng thời trong vụ án
hành chính, cần phải có các căn cứ sau:
1.3.1. Có yêu cầu bồi thường thiệt hại của người khởi kiện, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Có yêu cầu bồi thường thiệt hại của người người khởi kiện, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là căn cứ tiên quyết để Tòa án giải quyết yêu
cầu bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính. Giải quyết yêu cầu bồi
thường là hệ quả sau khi Tòa án làm rõ tính trái pháp luật của quyết định hành
chính, hành vi hành chính quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải
quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri, tuy
nhiên, nó không phải là hệ quả đương nhiên. Nghĩa là Tòa án chỉ giải quyết
yêu cầu bồi thường thiệt hại khi người bị thiệt hại có yêu cầu giải quyết, nếu
người bị thiệt hại không yêu cầu thì dù đã làm rõ hành vi vi phạm pháp luật
của người bị kiện Tòa án cũng không tự động đưa ra và giải quyết bồi thường
thiệt hại.
Trên thực tế, có rất nhiều vụ án hành chính người khởi kiện, người có
quyền, nghĩa vụ liên quan không đưa ra vấn đề bồi thường thiệt hại. Điều này
xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Có thể do tâm lý của người bị
thiệt hại chỉ mong muốn được “làm rõ trắng đen”, được minh oan mà không
cần những yếu tố vật chất, không cần được đền cho tổn thất đã mất đi. Cũng
có thể trong quá trình khiếu nại, khiếu kiện, người thi hành công vụ đã nhận
ra hành vi trái pháp luật của mình nên đã tự nguyện thỏa thuận, bồi thường
cho người bị thiệt hại. Ở một khía cạnh khác, nguyên nhân người khởi kiện,


12

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bồi thường do lo sợ
những thủ tục pháp luật rắc rối phát sinh từ việc yêu cầu giải quyết bồi
thường, do đã quá mệt mỏi khi theo đuổi việc khiếu nại, khiếu kiện hành

chính kéo dài người bị thiệt hại không còn muốn tiếp tục giành thời gian,
công sức cho việc giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại.
1.3.2. Có thiệt hại thực tế xảy ra.
Thiệt hại ở đây lại những tổn thất thực tế mà người bị thiệt hại phải gánh
chịu. Theo từ điển giải thích thuật ngữ luật học của Trường Đại học Luật Hà
Nội thì thiệt hại là: “tổn thất về tính mạng, sức khỏe, danh sự, uy tín, tài sản
của cá nhân, tổ chức được pháp luật bảo vệ” 3. Theo BLDS 2015, Luật
TNBTCNN và TTLT số 18 thì thiệt hại bao gồm hai nhóm chính: thiệt hại về
vật chất và thiệt hại về tinh thần.
*Thiệt hại về vật chất:
Thiệt hại vật chất là những thiệt hại về tài sản phát sinh khi: sản bị mất
mát, bị hư hỏng, bị hủy hoại, các lợi ích gắn liền với tài sản và chi phí để
khắc phục và hạn chế thiệt hại. Tài sản bị thiệt hại bao gồm cả động sản và
bất động sản, tài sản vô hình và hữu hình, trong một số trường hợp còn là
quyền về tài sản, thu nhập bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại do
nguyên nhân bị thiệt hại về tài sản gây ra. Ví dụ thu nhập bị mất do quyết
định kỷ luật buộc thôi việc dẫn đến người bị thôi việc mất nguồn thu nhập.
*Thiệt hại về tinh thần:
Là những tổn thất tinh thần được quy định cho những người bị thiệt hại
về sức khỏe và những người thân thích gần gũi nhất của người bị thiệt hại bị
xâm phạm về tính mạng nói chung, loại thiệt hại này do Tòa án quy định từng
trường hợp. Tổn thất tinh thần chỉ được tính đến khi các quyền nhân thân của
3 Từ điển giải thích thuật ngữ luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội , NXB Công an
nhân dân năm 1999, Tr. 118.


13

cá nhân bị xâm phạm (tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín,…).
Tổn thất về tinh thần không được tính cho trường hợp tài sản bị xâm phạm.

Thiệt hại về sức khỏe bị xâm phạm: các chi phí hợp lý cho việc nghiên
cứu, bồi thường phục hồi các chức năng bị mất bị giảm sút. Thu nhập bị mất,
bị giảm sút nếu thu nhập của người bị thiệt hại không ổn định và không xác
định trước thì được áp dụng mức thu nhập bình quân của người lao động cùng
loại. Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc
người bị thiệt hại trong thời gian điều trị. Nếu người bị thiệt hại mất khả năng
lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi
phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại và khoản tiền cấp dưỡng cho
những người mà người bị hại có nghĩa vụ cấp dưỡng.
Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm: bao gồm chi phí hợp lý cho
việc cứu chữa, bồi dưỡng chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết, chi phí
hợp lý cho việc mai táng, tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt
hại có nghĩa vụ cấp dưỡng.
Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm uy tín của cá nhân bị xâm phạm: chi
phí hợp lý cho việc khắc phục thiệt hại, thu nhập bị mất hoặc bị giảm sút do
danh dự uy tín bị xâm hại.
Các thiệt hại này là hậu quả của hành vi vi phạm pháp luật của các cán
bộ, công chức trong hoạt động QLHC, do đó, tùy vào tính chất đặc thù của
mội loại thiệt hại mà sẽ có biện pháp khắc phục riêng. Mỗi hành vi vi phạm
pháp luật của cán bộ, công chức có thể gây ra một hoặc đồng thời cả hai loại
thiệt hại về vật chất và tinh thần.
Về nguyên tắc, những thiệt hại về tinh thần rất khó có thể định lượng và
không thể bù đắp ngang bằng được. Việc bồi thường thiệt hại về tinh thần chỉ
mang ý nghĩa xoa dịu bớt những tổn thất mà thôi. Việc xác định mức bù đắp
về tinh thần trước hết dựa trên sự thỏa thuận của các bên. Tuy nhiên, pháp


14

luật cũng đưa ra quy định mức tối đa tổn thất tinh thần khi các quyền nhân

thân bị xâm phạm.
1.3.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa quyết định hành chính, hành vi
hành chính bị kiện và hậu quả thiệt hại xảy ra.
Mối quan hệ nhân quả ở đây phải thể hiện rõ thiệt hại xảy ra phải là kết
quả tất yếu của hành vi trái pháp luật và ngược lại hành vi trái pháp luật là
nguyên nhân gây ra thiệt hại. Quyết định hành chính, hành vi hành chính bị
kiện phải là nguyên nhân trực tiếp hoặc là nguyên nhân có ý nghĩa quyết định
gây ra thiệt hại cho người bị thiệt hại. Trên thực tế, có những quyết định hành
chính, hành vi hành chính bị kiện được người bị thiệt hại cho rằng nó là
nguyên nhân gây thiệt hại nhưng khi xem xét trong mối quan hệ nhân quả trực
tiếp lại không được công nhận. Ví dụ: Một người nhận quyết định thôi việc
trái pháp luật dẫn đến tâm lý hoang mang, buồn bã. Khi lái xe, do mải nghĩ về
quyết định thôi việc này, người đó đã bị tai nạn giao thông dẫn đến bị thương
nặng. Việc tai nạn giao thông đã gây tổn hại về sức khỏe gây thiệt hại nhưng
nguyên nhân bị quyết định cho thôi việc trái pháp luật không được coi là
nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tai nạn này. Do đó, người ban hành quyết định
cho thôi việc trái pháp luật không có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại sức khỏe
phát sinh từ việc người bị thiệt hại bị tai nạn giao thông.
Một thiệt hại xảy ra có thể do một hoặc nhiều nguyên nhân (VD: một
người bị cưỡng chế thu hồi đất trái pháp luật có thể là hậu quả của một loạt
hành vi vi phạm pháp luật từ khi thu hồi đất, bồi thường hỗ trợ thu hồi đất,
cưỡng chế thu hồi đất,…). Ngược lại, một hành vi trái pháp luật trong QLHC
có thể gây ra nhiều thiệt hại khác nhau (VD: một quyết đinh buộc thôi việc
trái pháp luật cho một công chức vừa có thể gây thiệt hại về tổn thất tinh thần
cho người bị thôi việc, vừa gây tổn thất về tinh thần cho người đó). Vì vậy,
khi xem xét trách nhiệm BTTH, cần phải xác định rõ hành vi trái pháp luật là


15


hành vi độc lập hay nằm trong chuỗi các hành vi gây thiệt hại để xác định rõ
chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường cũng như các thiệt hại mà người bị thiệt
hại được bồi thường.
1.5.

Ý nghĩa của bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính.

1.5.1. Nhanh chóng đảm bảo quyền lợi cho người bị thiệt hại.
Việc giải quyết yêu cầu bồi thường do hành vi trái pháp luật của người
thi hành công vụ thông qua hình thức khiếu kiện có thể được tiến hành bằng
hai cách: giải quyết đồng thời trong vụ án hành chính hoặc tách vấn đề bồi
thường để giải quyết bằng một vụ án dân sự độc lập. Dễ dàng nhận thấy việc
giải quyết yêu cầu bồi thường đồng thời vụ án hành chính là phương án mang
lại rất nhiều lợi ích cho người bị thiệt hại.
Thứ nhất, là vấn đề thời gian, giải quyết yêu cầu bồi thường đồng thời
trong vụ án hành chính giúp người có yêu cầu bồi thường chỉ phải tham gia
một vụ án thay vì hai vụ án như cách thứ hai được nêu trên. Qua đó, thời gian
khiếu kiện được rút ngắn, người bị thiệt hai nhanh chóng được giải quyết vấn
đề bồi thường.
Thứ hai, là vấn đề chi phí, để tham gia một vụ kiện, người khởi kiện
không chỉ phải chịu án phí cho cơ quan Nhà nước theo quy định của pháp luật
mà còn rất nhiều chi phí phát sinh khác như: phí thuê luật sư tham gia bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, chi phí đi lại, chi phí cho ngày công không làm
việc do phải tham gia các phiên đối thoại, phiên tòa hành chính,… Việc giải
quyết đồng thời vụ án hành chính và yêu cầu bồi thường trong một phiên tòa
giúp hạn chế các chi phí.
Thứ ba, việc giải quyết đồng thời khiến cho hành vi trái pháp luật của
người thi hành công vụ vừa được Tòa án làm rõ, còn mang tính “thời sự”.
Quyền đòi bồi thường sẽ được giải quyết dễ dàng, thuận lợi hơn so với việc
để lại giải quyết bằng một phiên tòa dân sự khác. Phiên tòa dân sự đòi bồi



16

thường có thể phải chịu nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan khác nhau
mà trở nên khó thực hiện, gây mệt mỏi kéo dài, ảnh hưởng đến quyền lợi của
người bị thiệt hại.
1.5.2. Việc đưa ra vấn đề bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính
thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đến quyền lợi của nhân dân, đặt quyền lợi
của nhân dân lên trên quyền lợi chính quyền.
Ngoài những ý nghĩa thông thường của bồi thường thiệt hại, bồi thường
thiệt hại trong vụ án hành chính còn mang ý nghĩa riêng do việc bồi thường
phát sinh từ trách nhiệm của Nhà nước, mà cụ thể là của các cơ quan, tổ chức
và các cá nhân nhân danh Nhà nước tiến hành. Bồi thường thiệt hại trong vụ
án hành chính là trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ
gây ra. Chế định này góp phần răn đe, giáo dục, phòng ngừa các hành vi vi
phạm pháp luật nói chung, gây thiệt hại trái pháp luật nói riêng.
Ngoài mục đích buộc người thi hành công vụ phải chịu trách nhiệm do
hành vi vi phạm của mình gây ra chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại
này còn thể hiện tính dân chủ, ý nghĩa nhân đạo, ý nghĩa xã hội sâu sắc. Chế
định này buộc các cá nhân, tổ chức thuộc cơ quan Nhà nước phải bồi thường
thiệt hại cho những chủ thể bị thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật của mình
gây ra chứng tỏ Nhà nước đã coi trọng lợi ích của nhân dân, thừa nhận việc
mình có thể mắc sai lầm trong quá trình quản lý hành chính và sẵn sàng nhận
lỗi, khắc phục hậu quả sau những sai lầm đó. Hơn nữa, việc buộc các cá nhân,
tổ chức bồi thường thiệt hại trong tố tụng hành chính cũng có ý nghĩa răn đe,
giáo dục đến những người thi hành công vụ, buộc họ phải cẩn trọng, nêu cao
trách nhiệm trong công việc để tránh những sai lầm, vi phạm xảy ra dẫn đến
việc phải bồi thường. Đồng thời, chế định này góp phần tạo niềm tin trong
quần chúng nhân dân vào sự đúng đắn, công bằng của Nhà nước, tạo niềm tin



17

công lý rằng họ sẽ được bồi thường nếu quá trình quản lý hành chính gây oan
sai, thiệt hại cho họ.
1.5.3. Quy định về bồi thường thiệt hại khiến cho hoạt động của Nhà
nước nghiêm túc, hiệu quả hơn.
Hoạt động quản lý hành chính được tạo thành bởi các hoạt động cụ thể
của các cá nhân có thẩm quyền trong từng bộ phận của cơ quan hành chính
Nhà nước. Các cá nhân có thẩm quyền này đều là những con người cụ thể,
trong quá trình làm việc chịu tác động của các nguyên nhân chủ quan, khách
quan khác nhau nên không thể tránh khỏi những sai lầm. Việc đưa cơ quan, tổ
chức, cá nhân có quyết định hành chính, hành vi hành chính trái pháp luật ra
xét xử và yêu cầu bồi thường thiệt hại buộc họ phải làm việc nghiêm túc, cẩn
trọng hơn, tránh việc lạm quyền, lợi dụng chức vụ để mưu lợi cho mình, cho
tổ chức gây thiệt hại đến người khác.
Bên cạnh đó, xác định trách nhiệm bồi thường của cơ quan, tổ chức, cá
nhân có quyết định hành chính, hành vi hành chính trái pháp luật cũng củng
cố được niềm tin trong nhân dân, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan công
quyền trước dân, thúc đẩy cơ chế làm việc hiệu quả tránh làm mất niềm tin,
gây bức xúc trong dân chúng.
1.5.4. Góp phần bù đắp tổn thất, khôi phục quyền lợi chính đáng của
cá nhân, tổ chức.
Đúng như tên gọi của nó, việc bồi thường thiệt hại trước hết là để bù đắp
lại những tổn thất, mất mát về tài sản, tinh thần, khôi phục quyền và lợi ích
hợp pháp cho người bị thiệt hại. Tuy không phải lúc nào việc bồi thường cũng
là phương pháp “chữa lành vết thương” sau tổn thất, mất mát nhưng cũng
phần nào xoa dịu, bù đắp cho những thiệt hại mà người bị thiệt hại phải gánh
chịu. Hơn nữa, việc giải quyết bồi thường thiệt hại không chỉ đơn thuần là trả

lại lợi ích vật chất mà còn khôi phục danh dự, uy tín cho công dân, giúp cho


18

người bị thiệt hại quay trở lại với tình trạng trước khi xảy ra thiệt hại với các
quyền, lợi ích chính đáng mà họ được hưởng.
1.5.5. Góp phần giảm thiểu các vụ kiện đòi bồi thường thiệt hại dân sự.
Khi quyền lợi hợp pháp của người bị thiệt hại đã được giải quyết thỏa
đáng ngay trong vụ án hành chính, người bị thiệt hại sẽ không phải tiếp tục
đưa ra vấn đề yêu cầu bồi thường thiệt hại bằng vụ án dân sự. Từ đó, ngành
Tòa án cũng giảm bớt được áp lực về số lượng các vụ án, nhân lực, vật lực
được tiết kiệm và giảm thiểu đáng kể.
Với tình trạng thiếu nhân lực, cơ sở vật chất ngành Tòa án hiện nay thì
điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Theo Tòa án nhân dân tối cao, đến
nay, toàn ngành tòa án đã có 4.957 thẩm phán song so với chỉ tiêu của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội phân bổ, đội ngũ thẩm phán toàn ngành còn thiếu 1.198
người. Tòa án cấp huyện dù là nơi giải quyết xét xử theo thủ tục sơ thẩm trên
80% các loại vụ án thuộc thẩm quyền của ngành tòa án nhân dân nhưng lại
thiếu tới 1.030 thẩm phán. ( 4) Do đó, Tòa án ở tất cả các cấp, đặc biệt là cấp
huyện rơi vào tình trạng quá tải. Việc giảm thiểu các vụ án góp phần giải
quyết bài toán khó về cân đối giữa số lượng vụ kiện và cơ sở vật chất đáp ứng
yêu cầu về chất lượng xét xử của ngành Tòa án.
Kết luận chƣơng 1:
Cùng với sự phát triển của xã hội, quy định pháp luật về bồi thường
thiệt hại trong vụ án hành chính đang được Nhà nước quan tâm, chú trọng
đúng với vai trò của nó. Điều này không chỉ mang lại lợi ích trực tiếp cho
người bị thiệt hại mà đồng thời còn đem tới nhiều ý nghĩa to lớn cho ngành
Tòa án nói riêng và xã hội nói chung. Giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại


4 Tham khảo website: />Truy cập ngày 05/7/2017


×