Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử vụ án hành chính (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (964.24 KB, 96 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO
BỘ TƢ PHÁP
TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THANH HẢI
NGUYỄN THANH HẢI

ĐỀ TÀI
Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử vụ án hành chính

ĐỀ TÀI
NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG
TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
LUẬN VĂN THẠC SỸ

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

HÀ NỘI-2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI



NGUYỄN THANH HẢI

ĐỀ TÀI
NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG
TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật Hiến Pháp và Luật Hành Chính
Mã số: 60.38.01.02

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thủy

HÀ NỘI-2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ
ràng, được trích dẫn theo đúng quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn
này.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thanh Hải



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
- KSV

: Kiểm sát viên

- QĐHC – HVHC

: Quyết định hành chính, hành vi hành chính

- TA

: Tòa án

- TTHC

: Tố tụng hành chính

- VAHC

: vụ án hành chính

- VKS

: Viện kiểm sát


MỤC LỤC
1.Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................... 1
2.Tình hình nghiên cứu đề tài .................................................................... 1
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.......................................................... 4

4. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn............... 4
5. Phƣơng pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn................... 5
6.Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ............................................... 6
7. Kết cấu của luận văn ............................................................................... 6
Chương 1 .......................................................................................................... 7
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH
CHÍNH.............................................................................................................. 7
1.1 Xét xử vụ án hành chính và tranh tụng trong xét xử vụ án hành chính 7
1.1.1 Xét xử vụ án hành chính.................................................................... 7
1.1.2 Tranh tụng trong xét xử vụ án hành chính ................................... 10
1.1.2.1 Khái niệm tranh tụng trong xét xử vụ án hành chính ................. 10
1.1.2.2 Đặc điểm, phạm vi tranh tụng trong xét xử vụ án hành chính .... 15
1.2 Tranh tụng - nguyên tắc cơ bản trong xét xử vụ án hành chính .......... 19
1.2.1 Khái niệm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử vụ án hành chính
..................................................................................................................... 19
1.2.2 Cơ sở khoa học quy định nguyên tắc tranh tụng trong xét xử vụ
án hành chính ............................................................................................ 23
1.2.2.1 Cơ sở lý luận ............................................................................... 23
1.2.2.2 Cơ sở thực tiễn. ........................................................................... 25
1.2.3 Nội dung nguyên tắc tranh tụng trong xét xử vụ án hành chính 26
1.2.4 Mối quan hệ giữa nguyên tắc tranh tụng với các nguyên tắc khác
trong xét xử vụ án hành chính ................................................................. 29
1.2.5 Ý nghĩa của nguyên tắc tranh tụng trong xét xử vụ án hành chính
..................................................................................................................... 32
Chương 2 ........................................................................................................ 36
THỰC TRẠNG VỀ NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ VỤ
ÁN HÀNH CHÍNH ........................................................................................ 36
2.1. Nguyên tắc tranh tụng trong giai đoạn khởi kiện, thụ lý vụ án ........... 36



2.2 Giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án hành chính ......................................... 39
2.3 Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ........................................... 46
2.4 Xét xử phúc thẩm vụ án hành chính....................................................... 57
2.5 Thủ tục tái thẩm, giám đốc thẩm và thủ tục đặc biệt ............................. 63
Chương 3 ........................................................................................................ 69
CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC
TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH ........................ 69
3.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc tranh tụng
trong xét xử vụ án hành chính. .................................................................... 69
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc tranh tụng
trong xét xử vụ án hành chính. .................................................................... 71
3.2.1 Hoàn thiện về mặt pháp lý trong việc thực hiện nguyên tắc tranh
tụng trong xét xử vụ án hành chính trong một số quy định còn bất cập 71
3.2.2 Đẩy mạnh công tác tuyên truyền cho người dân hiểu về nguyên tắc
tranh tụng và luật tố tụng hành chính năm 2015. ................................... 73
3.2.3 Kiện toàn đội ngũ thẩm phán, hội thẩm nhân dân, kiểm sát viên,
luật sư ......................................................................................................... 74
3.2.4 Đảm bảo cơ sở vật chất và chế độ đãi ngộ phù hợp với những người
tiến hành tố tụng ........................................................................................ 78
3.2.5 Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan trong quá
trình xét xử VAHC ..................................................................................... 81
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 83


1

A- Phần mở đầu
1.Tính cấp thiết của đề tài
Tranh tụng lần đầu tiên được nhắc đến trong nghị quyết số 08-NQ/TW
ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng "về một

số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới", sau đó là nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị "về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020". Đặc biệt, Hiến pháp năm 2013 quy định cụ thể
“ nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” đã đặt nền móng định
hướng cho việc xây dựng các quy định của pháp luật tố tụng. Từ đây, nguyên
tắc tranh tụng được quy định cụ thể đầy đủ ở các bộ luật tố tụng hình sự, tố
tụng dân sự và tố tụng hành chính. Nguyên tắc tranh tụng được các nhà
nghiên cứu và hoạt động thực tiễn nghiên cứu tìm hiểu ở nhiều khía cạnh và
góc độ khác nhau, cùng với án hình sự, dân sự thì hành chính cũng không
nằm ngoài xu thế đó. Xét xử vụ án hành chính có vai trò đảm bảo quyền con
người, quyền công dân và tạo ra cơ chế kiểm tra, giám sát thực hiện rõ nét
nhất, khi xét xử vụ án hành chính toà án có quyền và nghĩa vụ kiểm tra và ra
phán quyết về tính hợp pháp của quyết định hành chính hoặc hành vi hành
chính bị khởi kiện.Việc nghiên cứu, tìm hiểu về vụ án hành chính trên nhiều
phương diện, góc nhìn khác nhau là nhu cầu thiết thực, quan trọng nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức trước những khả
năng có thể bị xâm phạm bởi các quyết định hành chính, hành vi hành chính
của cơ quan công quyền và buộc các cơ quan hành chính nhà nước, cán bộ,
công chức nhà nước phải tự nâng cao năng lực quản lý, trình độ chuyên môn
và ý thức trách nhiệm có những thay đổi phù hợp trong thủ tục cũng như
phương thức điều hành, quản lý xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân
thực hiện đầy đủ các quyền tự do, dân chủ của mình và buộc những người có
thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước phải chú ý cân nhắc thận
trọng khi ra một quyết định hành chính hay khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ.


2

Đặc biệt, nghiên cứu nguyên tắc tranh tụng trong xét xử vụ án hành chính góp
phần nâng cao, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia trong

vụ án, tìm ra sự thật khách quan, bảo đảm tính dân chủ, công khai, công bằng
trong quá trình xét xử vụ án hành chính và nâng cao chất lượng nền hành
chính công.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài
Tranh tụng là vấn đề thu hút được rất nhiều người nghiên cứu và tìm
hiểu. Đặc biệt, những năm gần đây đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về
tranh tụng ở những khía cạnh và góc nhìn khác nhau bao gồm luận án, luận
văn, các bài nghiên cứu trên các tạp chí khoa học, trên các website:
Luận văn thạc sỹ luật học với đề tài“Nguyên tắc tranh tụng trong tố
tụng dân sự Việt Nam”, tác giả Trịnh Văn Chung bảo vệ năm 2016 tại khoa
luật, trường đại học quốc gia Hà Nội. Luận văn đã làm rõ những vấn đế lý
luận về tranh tụng, nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam, nội
dung các quy định của pháp luật liên quan đến tranh tụng và nguyên tắc tranh
tụng trong tố tụng dân sự. Luận văn đã phát hiện những bất cập vướng mắc
trong các quy định này và thực tiễn thực hiện để đưa ra những kiến nghị nhằm
nâng cao vai trò của tranh tụng trong tố tụng dân sự theo tinh thần cải cách tư
pháp của Đảng và nhà nước ta.
Luận văn thạc sỹ luật học với đề tài“ Tranh tụng trong tố tụng hành
chính ở Việt Nam- lý luận và thực tiễn”, tác giả Nguyễn Việt Nam bảo vệ
năm 2013 tại trường đại học luật Hà Nội.Tác giả đã phân tích và đưa ra những
nhận định về tranh tụng trong xét xử vụ án hành chính, đưa ra được khái
niệm, đặc điểm, phạm vi tranh tụng trong tố tụng hành chính và đưa ra các
giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng và đưa ra các lý do để đưa tranh
tụng trở thành nguyên tắc của luật tố tụng hành chính.
Bài viết khoa học“Tranh tụng tại phiên tòa” của PGS-TS Trần Văn Độ
đăng trên tạp chí khoa học pháp lý số 4 năm 2004. Bài viết của phó giáo sưtiến sỹ Trần Văn Độ nêu rõ phạm vi và nội dung tranh tụng có khác nhau


3


trong các hệ thống pháp luật và các loại án. Thực hiện tranh tụng tại phiên tòa
và tòa án ra phán quyết trên cơ sở kết quả tranh tụng tại phiên tòa là đảm bảo
quan trọng cho việc xác định sự thật khách quan của vụ án, giải quyết vụ án
khách quan, đúng pháp luật. Tranh tụng tồn tại trong tất cả các thủ tục tố tụng
hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính. Tuy nhiên, ở mỗi loại án có những đặc
trưng khác nhau về yếu tố tranh tụng. Tranh tụng được thực hiện trong giai
đoạn điều tra và tại phiên tòa, nhưng tại phiên tòa là quan trọng nhất. Nội
dung tranh tụng tại phiên tòa được thực hiện cả trong giai đoạn bắt đầu, trong
xét hỏi và trong tranh luận. Tùy theo địa vị tố tụng mà người tham gia tố tụng
thực hiện nội dung tranh luận khác nhau. Để thực hiện việc tranh tụng, cần
thiết phải có một hệ thống các bảo đảm về mặt pháp lý, về mặt tổ chức phù
hợp, khả thi trong điều kiện kinh tế, xã hội nước ta hiện nay.
Bài viết “ Hiểu đúng nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hành chính”
của thạc sỹ Phạm Công Minh, Viện kiểm sát cấp cao 3, đăng trên website
Kiemsat.vn ngày 10 tháng 8 năm 2016, đã chỉ ra được chủ thể, phạm vi, nội
dung, phương pháp và biểu hiện của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hành
chính để cho các cán bộ kiểm sát hiểu rõ và áp dụng thực hiện trong công tác
kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính tại Toà án.
Tuy nhiên, do mục đích nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu các công
trình luận văn, bài viết nói trên chỉ mới đề cập đến một số nội dung của đề tài
dưới dạng riêng biệt, chưa nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ thống các vấn
đề liên quan đến nguyên tắc tranh tụng trong xét xử vụ án hành chính. Đặc
biệt, khi luật tố tụng hành chính năm 2015 có hiệu lực đã nhiều nội dung mới
liên quan đến vấn đề này mà đòi hỏi phải có sự nghiên cứu kịp thời và đầy đủ
về nguyên tắc tranh tụng trong xét xử vụ án hành chính.
Trong bài luận văn, tác giả xin tìm hiểu rõ về đề tài " nguyên tắc tranh
tụng trong xét xử vụ án hành chính" với mong muốn có những hiểu biết sâu
hơn về nguyên tắc tranh tụng trong xét xử vụ án hành chính và thực trạng
thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử vụ án hành chính, từ đó đưa ra



4

một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét
xử vụ án hành chính.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề về nguyên tắc tranh
tụng trong xét xử án hành chính bao gồm khái niệm, nội dung, ý nghĩa và mối
liên hệ với những nguyên tắc khác và nêu ra thực trạng thực hiện nguyên tắc
tranh tụng trong xét xử vụ án hành chính để từ đó tìm ra các biện pháp nâng
cao hiệu quả áp dụng nguyên tắc tranh tụng trong xét xử vụ án hành chính.
- Phạm vi nghiên cứu : Tranh tụng – nguyên tắc cơ bản trong xét xử, nên
có nhiều nội dung thể hiện ở nhiều loại hình xét xử án khác nhau như án hình
sự, dân sự, hành chính ... Trong phạm vi luận văn thạc sỹ chỉ xem xét ở khía
cạnh nguyên tắc tranh tụng trong xét xử vụ án hành chính. Với phạm vi
nghiên cứu, luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận về tranh tụng trong xét xử vụ
án hành chính, đánh giá thực trạng thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét
xử vụ án hành chính trong các quy định của luật tố tụng hành chính 2015 và
phân tích số liệu án hành chính năm 2015, 2016. Từ đó đưa ra những giải
pháp nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử vụ án
hành chính.
4. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là làm rõ cơ sở lý luận về tranh tụng
- nguyên tắc cơ bản trong xét xử vụ àn hành chính và phân tích thực trạng
thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử vụ án hành chính từ đó đưa ra
những giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử vụ án hành chính, bảo đảm quyền
và lợi ích hợp pháp cho cá nhân, cơ quan, tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt
động nền hành chính.
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn được đặt ra là:



5

Nghiên cứu cơ sở lý luận của nguyên tắc tranh tụng trong xét xử vụ án
hành chính như khái niệm, nội dung, cơ sở hình thành, ý nghĩa và mối liên hệ
với những nguyên tắc khác.
Phân tích đánh giá thực trang thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét
xử vụ án hành chính trong quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng.
Trên cơ sở nghiên cứu và đánh giá thực trạng thực hiện nguyên tắc
tranh tụng, luận văn nêu ra những giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện
nguyên tắc tranh tụng trong xét xử vụ án hành chính, nâng cao chất lượng nền
hành chính công.
5. Phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Để đạt được mục tiêu và hoàn thành các nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
nguyên tắc tranh tụng trong xét xử vụ án hành chính, tác giả đã dựa trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin (chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về pháp luật, cải cách tư pháp. Đồng thời, luận văn đã
sử dụng các phương pháp nghiên cứu thông thường của khoa học xã hội và
luật học như :
- Phương pháp lịch sử : tìm hiểu những quy định của pháp luật thể hiện
nguyên tắc tranh tụng trong lịch sử thế giới và Việt Nam để nắm rõ sự hình
thành và phát triển của nguyên tắc trong tố tụng và đặc biệt trong việc xét xử
vụ án hành chính.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: luận văn phân tích và tổng kết lại
những kết quả của các công trình nghiên cứu về nguyên tắc tranh tụng và đưa
ra những nhận xét, đánh giá của bản thân để đưa ra những kiến nghị nhằm
hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc
trên thực tế.
- Phương pháp khảo sát thực tiễn tranh tụng tại những phiên tòa hành

chính để xem xét, đánh giá việc áp dụng nguyên tắc tranh tụng tại phiên xét
xử án hành chính có đảm bảo quy định và đạt hiệu quả.


6

Nguồn tài liệu nghiên cứu để hoàn thành luận văn là các văn bản pháp luật
quốc gia liên quan đến nguyên tắc tranh tụng và vụ án hành chính, báo cáo,
các nghiên cứu, đánh giá của các cơ quan nhà nước cũng như các chuyên gia
pháp luật. Bên cạnh đó, luận văn còn được hoàn thành trên cơ sở nghiên cứu,
tham khảo một số bài viết về vấn đề này trên các tạp chí khoa học, các trang
Web điện tử...
6.Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Luận văn nhằm đóng góp vào việc hiểu rõ hơn những vấn đề lý luận và
thực trạng thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử vụ án hành chính.
Đồng thời, luận văn đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy việc thực hiện
nguyên tắc được sâu rộng, nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc tranh tụng,
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên đương sự trong vụ án hành
chính và đảm bảo công bằng và công lý được thực hiện, phù hợp với yêu cầu
thực tiễn trong bối cảnh tại Việt Nam và thế giới, với xu thế quyền con người
ngày càng được quan tâm và bảo vệ.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì luận
văn gồm các phần chính sau:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về tranh tụng trong xét xử vụ án hành chính
Chƣơng 2: Thực trạng thực hiện nguyên trắc tranh tụng trong xét xử vụ án
hành chính
Chƣơng 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc tranh tụng
trong xét xử vụ án hành chính.



7

Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH
CHÍNH
1.1 Xét xử vụ án hành chính và tranh tụng trong xét xử vụ án hành chính
1.1.1 Xét xử vụ án hành chính
Các chủ thể quản lý hành chính được trao quyền lực nhà nước trong
lĩnh vực hành pháp để thực hiện những hoạt động quản lý mang tính chấp
hành - điều hành. Trong quá trình thực hiện hoạt động quản lý, các chủ thể
quản lý có quyền ban hành các quyết định hành chính hoặc thực hiện các
hành vi hành chính mang tính quyền lực nhà nước, có tính đơn phương và bắt
buộc thi hành đối với các đối tượng quản lý. Có nhiều lý do khác nhau, các
quyết định hành chính, hành vi hành chính thực hiện có thể trái luật, xâm hại
đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức là đối tượng bị quản lý, hoặc
cũng có thể các đối tượng bị quản lý chủ quan cho rằng mình bị xâm hại bởi
các quyết định hành chính, hành vi hành chính. Những tranh chấp hành chính
giữa một bên là nhà nước mà đại diện là các chủ thể thực hiện quyền hành
pháp để ban hành các QĐHC, HVHC mang tính mệnh lệnh đơn phương với
các cá nhân, tổ chức là đối tượng bị quản lý có nghĩa vụ phải phục tùng các
QĐHC, HVHC đó. Để giải quyết tranh chấp này cần có một bên thứ ba, trung
lập giải quyết vụ án một cách công tâm, khách quan và công bằng nhằm bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp giữa các bên và mang quyền lực ngang bằng
với quyền hành pháp đó chính là quyền tư pháp.
Hoạt động xét xử của Toà án là lĩnh vực thể hiện tập trung nhất của
quyền tư pháp, đây là hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước nhằm xét xử,
đánh giá và ra phán quyết về tính hợp pháp, tính đúng đắn của hành vi pháp
luật hay quyết định pháp luật có sự tranh chấp và mâu thuẫn giữa các bên có
lợi ích khác nhau trong các tranh chấp hay mâu thuẫn đó. Tòa án xét xử các

vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao


8

động, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật;
xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập
trong quá trình tố tụng; căn cứ vào kết quả tranh tụng ra bản án, quyết định
việc có tội hoặc không có tội, áp dụng hoặc không áp dụng hình phạt, biện
pháp tư pháp, quyết định về quyền và nghĩa vụ về tài sản, quyền nhân thân.
Xét xử vụ án hành chính thuộc thẩm quyền của Toà án, toà án không
chỉ được xử dân khi có các hành vi vi phạm pháp luật mà toà án còn được xử
“quan”, đó là, toà án được xem xét tính hợp pháp của các QĐHC, HVHC do
các cơ quan hành chính nhà nước hay người có thẩm quyền trong các cơ quan
hành chính nhà nước ban hành khi thực hiện việc quản lý nhà nước. Tại Việt
Nam, trong luật tổ chức Toà án nhân năm 2014 có quy định “Tòa án nhân dân
là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện
quyền tư pháp”1 và “tòa án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định
của pháp luật.”2
Tính đặc thù của xét xử vụ án hành chính đó là xem xét tính hợp pháp
của QĐHC, HVHC, danh sách cử tri, quyết định buộc thôi việc, quyết định
giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh bị khởi kiện.
Khác với các hoạt động xét xử vụ án hình sự, dân sự ... Đương sự trong xét xử
vụ án hành chính luôn có một bên là chủ thể quản lý hành chính nhà nước,
một bên là đối tượng quản lý nhà nước. Người bị kiện luôn là chủ thể quản lý
hành chính nhà nước trong quá trình quản lý hành chính nhà nước tác động
tới đối tượng quản lý của mình. Mối quan hệ giữa chủ thể quản lý và đối
tượng quản lý là “quyền lực – phục tùng” và xét xử hành chính là giải quyết

tranh chấp giữa hai đối tượng trên. Do vậy, đây chính là một hoạt động nhà
nước đặc biệt, trong đó, Toà án là cơ quan xem xét, đánh giá và ra phán quyết

1
2

Khoản 1 Điều 2 Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2014
Khoản 2 Điều 2 Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2014


9

về tính hợp của hoạt động quản lý nhà nước nói trên. “Thẩm phán, Hội thẩm
xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá
nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm"3
Cũng như xét xử các vụ án hình sự hay dân sự tại Toà án, xét xử vụ án
hành chính được tiến hành theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật tố tụng
hành chính quy định. Xét về phương diện lý luận, thủ tục tố tụng hành chính
là một dạng cụ thể của thủ tục tư pháp, cho nên thủ tục tố tụng hành chính
cũng được xác lập trên cơ sở những nguyên tắc chung của thủ tục tố tụng tư
pháp như nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật khi xét xử; nguyên tắc khi xét xử hội thẩm nhân dân ngang
quyền với thẩm phán; nguyên tắc khi xét xử công khai; Các đương sự bình
đẳng trong tố tụng; các đương sự được quyền tự mình hoặc nhờ người khác
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình và nguyên tắc bảo đảm tranh tụng
trong xét xử… Tuy nhiên, bên cạnh đó xét xử vụ án hành chính phải được
tiến hành theo trình tự thủ tục chặt chẽ do luật tố tụng hành chính quy định
bao gồm các giai đoạn: khởi kiện và thụ lý vụ án, chuẩn bị xét xử, phiên tòa
xét xử sở thẩm vụ án hành chính, xét xử phúc thẩm vụ hành chính, thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm và thủ tục đặc biệt.

Mục đích của xét xử vụ án hành chính là nhằm bảo vệ lợi ích của cá
nhân, tổ chức khi có tranh chấp với cơ quan công quyền. Xét xử vụ án hành
chính là một phương thức hữu hiệu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân trước cơ quan nhà nước và nâng cao hoạt động của cơ quan hành
chính nhà nước
Từ những phân tích nêu trên, có thể đưa ra quan niệm về xét xử vụ án
hành chính như sau:
" Xét xử vụ án hành chính là hoat động tố tụng của Tòa án thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của Tòa án. Tòa án xét xử tranh chấp hành chính phát
sinh do cá nhân, tổ chức, cơ quan khởi kiện tại tòa án nhằm bảo vệ quyền, lợi
3

Khoản 2 Điều 103 Hiến pháp 2013


10

ích hợp pháp của họ khi bị xâm hại bởi các quyết định hành chính, hành vi
hành chính, quyết định buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về
quyết định xử lý vụ việc canh tranh và danh sách cử tri theo trình tự, thủ tục
do luật tố tụng hành chính quy định.”
1.1.2 Tranh tụng trong xét xử vụ án hành chính
1.1.2.1 Khái niệm tranh tụng trong xét xử vụ án hành chính
Tranh tụng ra đời cùng với sự xuất hiện của Toà án, là sản phẩm của
nền tư pháp dân chủ. Theo nhiều nhà nghiên cứu, loại hình tố tụng tranh tụng
xuất hiện rất sớm ở Châu Âu cùng với sự xuất hiện của Toà án nhà nước. Đầu
tiên được áp dụng tại Hy Lạp cổ đại sau đó được đưa vào La Mã với tên gọi
“thủ tục hỏi đáp liên tục” 4. Nguồn gốc ra đời tranh tụng là “ từ thực tiễn giải
quyết tranh chấp trong xã hội du mục, theo đó, thay cho việc sử dụng sức
mạnh để tranh giành quyền lợi, thay vì sử dụng vũ lực, các bên sử dụng biện

hộ, biện lý, trạng sư, luật sư để đưa ra lý lẽ nhằm giành quyền lợi cho mình”5.
Phát triển với thời gian, tranh tụng được kế thừa phát triển và từng bước
khẳng định, đến nay tranh tụng đã được áp dụng ở hầu hết các nước trên thế
giới.
Sự ra đời và phát triển của tranh trụng trong tố tụng gắn liền với sự
hình thành và phát triển của các tư tưởng dân chủ tiến bộ trong lịch sử tư
tưởng nhân loại. Tranh tụng không chỉ là thành tựu lớn của pháp lý đơn thuần
mà cao hơn nó là thành tựu của sự phát triển tư tưởng, của nền văn minh nhân
loại. Trong xã hội hiện đại, các nước dù có tổ chức hệ thống tư pháp khác
nhau, dù là hệ thống án lệ ( Common law), hệ thống lục địa ( legal law) hay
hệ thống pha trộn (mixed law) thì ít hay nhiều và bằng các thể hiện khác
4

Nhà pháp luật Việt – Pháp (2020), một số nội dung nguyên tắc trong tố tụng xét hỏi và
tranh tụng. Kinh nghiệm của Pháp trong việc tuyển chọn, bồi dưỡng, bổ nhiệm, quản lý
Thẩm phán, Hà Nội, tr.2
5
Phạm Hồng Phong (2015) thực trạng và giải pháp nâng cao hiểu quả thực hện nguyên tắc
tranh tụng trong hoạ động xét xử , Tạp chí nghiên cứu lập pháp (số 8/2015), tr.14


11

nhau, trong hệ thống tố tụng đều có yếu tố tranh tụng. Đây là cơ chế tố tụng
có hiệu quả đảm bảo cho Tòa án xác định sự thật khách quan trong vụ án, giải
quyết đúng đắn vụ việc, bảo đảm sự công bằng và bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của các bên tham gia tố tụng.
Về mặt ngôn ngữ, “tranh tụng có nghĩa là kiện tụng”6 và theo hán- việt
từ điển giải thích “tranh tụng có nghĩa là cãi lẽ, cãi nhau để tranh lấy phải”7.
Từ điển luật học năm 2006 giải thích “tranh tụng là hoạt động tố tụng được

thực hiện bởi các bên tham gia tố tụng, có quyền bình đẳng với nhau trong
việc thu thập, đưa ra chứng cứ để bảo vệ các quan điểm và lợi ích của mình,
phản bác lại các quan điểm và lợi ích của phía đối lập”8. Theo những cách
giải thích trên, tranh tụng chính là quá trình giải quyết tranh chấp tại toà án,
theo đó, các bên tranh chấp tham gia vào quá trình giải quyết tranh luận về
các yêu cầu, đưa ra những chứng cứ, tài liệu chứng minh nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình. Các quan niệm trên mặc dù đã thể hiện một số
đặc trưng cơ bản của tranh tụng nhưng chỉ cho thấy tranh tụng là những hoạt
động riêng lẻ của các chủ thể là các bên tham gia xét xử mà không nhìn nhận
tranh tụng là một hoạt động được thực hiện bởi các bên tham gia xét xử, thiếu
đi một chủ thể quan trọng là Toà án.
Tranh tụng bao giờ cũng gắn liền với hoạt động tài phán của Tòa án,
xét xử là hoạt động phân xử vụ kiện giữa các bên có quyền và lợi ích khác
nhau. Tại phiên tòa, Tòa án tiến hành xác định sự thật khách quan của vụ án
bằng cách điều tra công khai, chính thức về vụ việc, nghe các bên tranh luận
về giải quyết vụ án từ góc độ nội dung cũng như pháp luật áp dụng để ra phán
quyết. Hoặc tùy theo tính chất vụ án mà chức năng tranh tụng, địa vị pháp lý
của các bên cũng khác nhau. Trong khoa học pháp lý, tranh tụng được phân
thành tranh tụng hình sự, tranh tụng dân sự, tranh tụng hành chính...tuy nhiên
6

Đại từ điển tiếng việt (1998), tr.1686
Việt- hán từ điển, tr.621
8
Viện khoa học pháp lý- Bộ tư pháp (2006), từ điển luật học, Nxb Tư pháp, Hà Nội,
tr.807,808.
7


12


mỗi hệ thống tranh tụng lại có phương thức xác định sự thật khách quan khác
nhau, cơ sở pháp lý khác nhau nên phạm vi, tính chất và mức độ tranh tụng
cũng có nhiều điểm khác nhau. Cùng với sự phát triển lâu đời của hệ thống tố
tụng hình sự và dân sự, tranh tụng trong hai loại hình tố tụng này được nghiên
cứu sâu rộng. Trong tố tụng dân sự, cho rằng:
Tranh tụng trong TTDS là quá trình hoạt động của các chủ thể tranh
tụng trong TTDS được bắt đầu từ khi có yêu cầu khởi kiện và kết thúc khi bản
án, quyết định có hiệu lực pháp luật, theo đó các chủ thể tranh tụng dưới sự
điều khiển của Thẩm phán được đưa ra, trao đổi chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp
lý để chứng minh, biện luận cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước toà
án theo những trình tự , thủ tục quy định trong luật tố tụng hành chính và
Thẩm phán ra quyết định giải quyết vụ án dân sự căn cứ vào kết quả tranh
tụng do các chủ thể tranh tụng đã thực hiện 9.
Quan điểm thứ hai cho rằng “tranh tụng là quá trình từ khi tố quyền được
hành xử cho đến khi có một phán quyết của Toà án” 10. Quan điểm thứ ba cho
rằng “ tranh tụng là việc các bên đương sự đưa ra các chứng cứ, các căn cứ
pháp lý, lập luận, tranh luận, đối đáp với nhau nhằm bảo vệ quyền lợi của
mình và Toà án chủ yếu dựa vào kết quả tranh tụng giữa các bên để ra phán
quyết giải quyết vụ án, vụ việc dân sự” 11.
Các nhà khoa học tham gia đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường của
trường đại học Luật Hà Nội đã nêu khái niệm tranh tụng trong tố tụng dân sự
“theo nghĩa rộng, tranh tụng là một quá trình được bắt đầu từ khi có yêu cầu
khởi kiện và kết thúc khi bản án, quyết định của toà án có hiệu lực pháp luật.
Quá trình tranh tụng này không chỉ bao gồm các giai đoạn khởi kiện, chuẩn bị
xét xử, thu thập, trao đổi chứng cứ, tài liệu, quan điểm về việc giải quyết vụ
9

Trịnh Văn Chung(2016), Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam, luận văn
thạc sỹ luật học, Hà Nội, tr7

10
Nguyễn Mạnh Bách (1996) Luật tố tụng dân sự Việt Nam giải lược, nhà xuất bản Đồng
Nai, tr.63.
11
Viện khoa học pháp lý- Bộ tư pháp (2004), một số vấn đề tranh tụng trong tố tụng dân
sự(2), thông tin khoa học pháp lý, Hà Nội, tr.19.


13

án, đối chất giữa các bên đương sự, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm và cả giai đoạn
xét xử theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm. Thậm chí tranh tụng có thể được
tiến hành lại từ giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm trong trường hợp khi bản
án, quyết định về vụ án bị toà án cấp trên huỷ để tiến hành xét xử lại. Theo
nghĩa hẹp, quá trình tranh tụng được tiến hành tại các phiên toà xét xử sơ
thẩm, phúc thẩm, theo đó các bên đương sự dưới sự điều khiển của hội đồng
xét xử trực tiếp trình bày yêu cầu, chứng cứ, tranh luận và đối đáp với nhau về
chứng cứ, căn cứ pháp lý, lý lẽ, lập luận để chứng minh rằng yêu cầu, phản
yêu cầu, phản đối yêu cầu của mình đối với đương sự phía bên kia là có căn
cứ và hợp pháp. Trên cơ sở kết quả tranh tụng của các bên đương sự, Hội
đồng xét xử ra phán quyết giải quyết vụ án dân sự ”12.
Trong tố tụng hình sự cho rằng, “tranh tụng có thể được hiểu một cách
ngắn gọn và đơn giản là sự tranh luận trong quá trình tố tụng tại toà án ”13.
Quan điểm khác lại cho rằng "tranh tụng là hoạt động tố tụng được thực hiện
với các bên tham gia tố tụng ( bên buộc tội và bên gỡ tội) có quyền bình đẳng
với nhau trong việc thu thập, đưa ra chứng cứ để bảo vệ cho quan điểm và lợi
ích của mình, phản bác lại quan điểm và lợi ích của các bên đối lập ”14.
Như vậy, tranh tụng trong tố tụng dân sự hay hình sự thì chủ thể của tranh
tụng đề là các bên tham gia tố tụng và tranh tụng là quá trình kéo dài xuyên
suốt từ khi xuất hiện vụ án đến khi kết thúc. Thực hiện tranh luận tại phiên toà

chỉ là một phần của tranh tụng và những người tham gia tố tụng có quyền
tranh tụng bằng việc đưa ra các chứng cứ, lý lẽ, lập luận để bảo vệ cho quan
điểm của mình trước toà án, toà án đưa ra các phán quyết dựa trên kết quả
tranh tụng.

12

Trường đại học Luật Hà Nội(2011), Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường: Tranh tụng
trong tố tụng dân sự ở Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp, Hà Nội, tr.6.
13
TSKH, Lê Cảm(2003), Nguyên tắc tranh tụng trong hệ thống các nguyên tắc cơ bản của
Luật tố tụng hình sự, tạp chí luật học, Đặc san về Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, tr 4-5.
14
Viện khoa học pháp lý- Bộ tư pháp (2006), từ điển luật học, Nxb từ điển bách khoa- nhà
xuất bản tư pháp, tr 807-808.


14

Tranh tụng không phải là bước hay giai đoạn tố tụng mà tranh tụng cần
phải được hiểu là một quá trình đi tìm sự thật khách quan của vụ án. Trong đó
các bên đương sự chủ động thực hiện việc cung cấp, thu thập tài liệu, chứng
cứ, thông báo cho nhau, đưa ra các lập luận nhằm chứng minh và bảo vệ
quyền lợi của mình, đồng thời bác bỏ yêu cầu của bên kia. Tranh tụng chỉ có
kết quả khi toà án dựa trên kết quả tranh tụng để ra phán quyết và phán quyết
đó phản ánh đúng thực tế nội dung vụ án, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
các bên tham gia tố tụng. Hiện nay, vấn đề tranh tụng trong tố tụng hành
chính hay trong xét xử vụ án hành chính chưa nhận được nhiều sự quan tâm
của các nhà nghiên cứu. Có một quan niệm về tranh tụng trong tố tụng hành
chính “ tranh tụng trong tố tụng hành chính là quá trình hoạt động của các chủ

thể tranh tụng trong tố tụng hành chính đước bắt đầu khi có yêu cầu khởi kiện
và kết thúc khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, theo đó, các chủ thể
tranh tụng dưới sự điều khiển của Toà án được đưa ra, trao đổi chứng cứ, lý
lẽ, căn cứ pháp lý để chứng minh, biện luận cho quyền, lợi ích hợp pháp của
mình trước Toà án theo những trình tự thủ tục do pháp luật tố tụng hành chính
quy định và Toà án ra phán quyết giải quyết vụ án hành chính căn cứ vào kết
quả tranh tụng do các chủ thể tranh tụng đã thực hiện”15. Khái niệm của tác
giả Nguyễn Việt Nam đã nêu đầy đủ các nội dung về tranh tụng trong tố tụng
hành chính cũng như trong xét xử vụ án hành chính. Khái niệm đã nói rõ
được phạm vi tranh trụng, nội dung của tranh tụng và vai trò của Toà án trong
quá trình giải quyết vụ án hành chính.
Trong vụ án hành chính, người khởi kiện là cá nhân, cơ quan, tổ chức
chịu sự tác động của QĐHC, HVHC và người bị kiện là cá nhân, cơ quan, tổ
chức ban hành QĐHC và thực hiện HVHC bị khởi kiện. Đây chính là chủ thể
tranh tụng trong quá trình xét xử vụ án hành chính, họ là người thực hiện
quyền tranh tụng từ đó giúp cho thẩm phán và hội đồng xét xử nhận định

15

Nguyễn Việt Nam (2013), Tranh tụng trong tố tụng hành chính ở Việt Nam – Lý luận và
thực tiễn, luận văn thạc sỹ, Hà Nội, tr.15.


15

được cách giải quyết vụ án một cách công bằng và khách quan nhất vì xét xử
vụ án hành chính chỉ xoay quanh vấn đề tính hợp pháp của QĐHC hay HVHC
bị kiện.
1.1.2.2 Đặc điểm, phạm vi tranh tụng trong xét xử vụ án hành chính
Với những đặc điểm riêng biệt của VAHC về đương sự, nội dung xem xét

giải quyết, đối tượng khởi kiện nên tranh trụng trong VAHC mang trong mình
những đặc điểm riêng, khác biệt với tranh tụng trong những vụ án hình sự
hay dân sự. Cụ thể:
-

Chủ thể tranh tụng là các bên đương sự - người giữ vai trò chủ động,

quyết định kết quả tranh tụng. Toà án với vai trò là người điểu khiển tranh
tụng và trọng tài trong quá trình xét xử vụ VAHC:
+ Đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự - chủ thể tranh tụng
Đương sự trong vụ án hành chính gồm: người khởi kiện và người bị kiện,
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Các đương sự bình đẳng trước tòa
án trong việc đưa ra chứng cứ và thể hiện sự đánh giá của mình về các chứng
cứ có trong VAHC cũng như quan điểm giải quyết vụ án. Vì các bên tham gia
tranh tụng trong xét xử án hành chính có sự chênh lệch về hiểu biết quy định
pháp luật, người khởi kiện luôn là người yếu thế hơn so với bên bị kiện do
người bị kiện ở đây là người có thẩm quyền- cơ quan nhà nước hiểu rõ các
quy định của pháp luật, có điều kiện thu thập, bổ sung chứng cứ để bảo vệ
quyết định, hành vi hành chính của mình chính vì vậy người bị kiện có nhiều
lợi thế khi thực hiện tranh tụng. Người khởi kiện chỉ có thể sử dụng những
chứng cứ, những nguồn thông tin công khai hoặc do chính cơ quan nhà nước
bị kiện cung cấp. Chất lượng tranh tụng chỉ đạt hiệu quả cao nhất khi người
khởi kiện và người bị kiện bình đẳng về mặt pháp lý.
Trong xét xử VAHC, các chủ thể tranh tụng đều được bình đẳng, chủ động
và công khai đưa ra chứng cứ, căn cứ pháp lý, lập luận và đối đáp để chứng
minh, biện luận nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước tòa án


16


theo những trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hành chính quy định. Tòa án
là cơ quan tiến hành tố tụng điều hành, giám sát quá trình tranh tụng mà
không tham gia tranh tụng với các bên đương sự, tòa án dựa vào kết quả tranh
tụng để giải quyết vụ án hành chính một cách khách quan, công bằng, đúng
pháp luật.
Xét xử VAHC về bản chất là quá trình nhận thức và tư duy của các chủ thể
tham gia vào quá trình xét xử trên cơ sở xem xét, đánh giá khách quan, toàn
diện, đầy đủ các chứng cứ tài liệu, các tình tiết khác nhau của vụ án và các
quy định của luật tố tụng hành chính quy định.
Các chủ thể tham gia tố tụng trong xét xử VAHC phải chủ động, tích cực
trong việc cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá các chứng cứ, căn cứ
pháp lý, đưa ra các lập luận, các quan điểm về việc giải quyết vụ án. Tất cả
các hoạt động như đưa ra các yêu cầu, phản đối các yêu cầu, trao đổi chứng
cứ, tài liệu, căn cứ pháp lý, quan điểm biện hộ của đối phương, đối thoại giữa
các bên… trong giai đoạn trước phiên toà xét xử vụ án hành chính hay tại
phiên toà xét xử vụ án hành chính đều thuộc quá trình tranh tụng trong xét xử
vụ án hành chính.
Đương sự là những chủ thể giữ vị trí và vai trò trung tâm trong quá trình
tranh tụng. Tuy nhiên trên thực tế có những đương sự không có hoặc khó có
khả năng để tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình như người chưa
thành niên, người mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó
khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi của mình nên việc tranh tụng của
các đương sự này sẽ do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện.
Trong tranh tụng thì không thể thiếu một chủ thể quan trọng đó là người
đại diện và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Họ là
người giúp đỡ đương sự về mặt pháp lý, đồng thời tham gia tranh tụng để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp có vị trí pháp lý độc lập với đương sự, có các quyền và nghĩa vụ do
pháp luật quy định chứ không bị rằng buộc với quyền và nghĩa vụ của đương



17

sự như người đại diện. Trong quá trình tranh tụng, do người bảo vệ là người
có kiến thức pháp luật, kinh nghiệm tham gia tố tụng và kỹ năng tranh tụng
nên có thể giúp cho các bên đương sự bảo vệ tốt quyền và lợi ích hợp pháp
của mình, nhất là trong việc đưa ra chứng cứ, căn cứ pháp lý và các lập luận.
Không những thế, ý kiến tham gia tranh tụng của người bảo vệ còn giúp cho
Toà án xác định được sự thật khách quan của vụ án.
+ Toà án- người điều khiển tranh tụng, trọng tài trong việc giải quyết vụ
án hành chính.
Để bảo đảm sự công bằng, cán cân công lý và bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự trong xét xử vụ án hành chính đòi hỏi Toà án phải khách
quan, công mình, vô tư. Toà án có vai trò quyết định trong quá trình tranh
tụng tại phiên toà. Thẩm phán thay mặt cho toà án và nhà nước là người cầm
cân công lý, thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Toà án giữ vai trò trung gian, điều khiển quá trình tranh tụng của các bên
nhằm đảm bảo quyền tranh tụng của các bên đương sự cũng như đảm bảo cho
quá trình tranh tụng được thực hiện đúng theo quy định của luật tố tụng hành
chính. Toà án chủ động thu thập chứng cứ trong các trường hợp luật quy định,
do yêu cầu của đương sự, của VKS, ngoài ra, toà án không được tự mình thu
thập chứng cứ để bảo đảm sự khách quan, vô tư và công minh trong việc phân
xử vụ án, tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự cũng như phát huy tính
tích cực, chủ động cho các bên đương sự. Toà án giữ vài trò là người đánh
giá, đối chiếu và kiểm tra chứng cứ, lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp đối
với vụ án cần phải giải quyết và ra bản án, quyết định phải dựa trên kết quả
tranh tụng.
- Phạm vi tranh tụng trong xét xử vụ án hành chính là giới hạn những vấn
đề mà chủ thể tranh tụng phải làm rõ bằng các chứng cứ, căn cứ pháp lý và

các lý lẽ, lập luận.
Các vấn đề cần làm rõ có thể là chứng cứ, tình tiết của vụ án, quan hệ pháp
luật tranh chấp và pháp luật áp dụng để giải quyết yêu cầu của đương sự trong


18

vụ án hoặc những vấn đề mâu thuẫn, chưa thống nhất giữa các đương sự cần
được tòa án phân xử. Tranh tụng bắt đầu từ khi có khởi kiện, thụ lý vụ án, các
bên đương sự có quyền thu thập, giao nộp, cung cấp tài liệu, chứng cứ và
nghĩa vụ thông báo cho nhau các tài liệu, chứng cứ đã giao nộp. Tranh tụng
kết thúc khi vụ án đã được giải quyết. Như vậy, phạm vi tranh tụng là giới hạn
tất cả các vấn đề mà các bên tham gia tranh tụng cần làm rõ bằng các chứng
cứ, tài liệu, căn cứ pháp lý, lập luận để thẩm phán, hội đồng xét xử có thể
nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, chính xác nhất tính hợp pháp của
đối tượng bị khởi kiện trong vụ án hành chính.
- Nội dung tranh tụng trong xét xử vụ án hành chính
+ Cung cấp chứng cứ và yêu cầu Toà án thu thập chứng cứ mới bằng cách:
chủ động cung cấp cho toà án tài liệu, chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình; đề nghị toà án xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ của vụ
án mà tự mình không thể thu thập được, triệu tập người làm chứng, trưng cầu
giám định, định giá tài sản, thẩm định giá.
+ Đánh giá chứng cứ và thể hiện quan điểm về việc giải quyết vụ án hành
chính tại phiên đối thoại do Toà án thực hiện trước khi mở phiên toà
+ Thực hiện việc xét hỏi tại phiên toà. Xét hỏi tại phiên toà thực chất là
cuộc điều tra chính thức, công khai tại phiên toà để xác định sự thật khách
quan của vụ án. Vì vậy các bên tham gia tố tụng trong xét xử vụ án hành
chính đều có quyền điều tra dưới sự điều khiển của chủ toạ phiên toà, xem xét
chứng cứ, tài liệu. Việc xét hỏi này chỉ kết thúc khi Toàa án thấy rằng thông
qua xét hỏi một cách khách quan, các tình tiết liên quan đến việc giải quyết vụ

án được làm rõ.
+ Phát biểu ý kiến về đánh giá chứng cứ. Quá việc điều tra chính thức,
công khai tại phiên toà, mỗi bên tham gia tố tụng đều có cách nhìn nhận, đánh
giá của mình về kết quả chứng minh. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình, các bên tham gia tố tụng phải công khai đưa ra ý kiến đánh giá của
mình về sự thật khách quan của vụ án dể giúp cho Toà án cân nhắc khi ra


19

phán quyết. Các đánh giá khác nhau, phản biện lẫn nhau của các bên tham gia
tố tụng tại phiên toà giúp cho thẩm phán, hội đồng xét xử có những nhận
định khách quan hơn, toàn diện hơn, thận trọng hơn khi đánh giá để đưa ra
phán quyết giải quyết vụ án hành chính.
+ Phát biểu ý kiến về việc áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án. Nội dung
của tranh tụng trong giai đoạn tranh luận tại phiên toà bao gồm các bên tham
gia tố tụng đề nghị áp dụng pháp luật để giải. Chính vì vậy mà các bên đương
sự tham gia tố tụng cần hiểu rõ những văn bản pháp luật, để đưa ra những ý
kiến về việc áp dụng pháp luật trong giải quyết vụ án của mình tham gia.
+ Đề nghị biện pháp giải quyết vụ án, đây là, nội dung không thể thiếu
trong tranh tụng, các bên đề xuất ý kiến và lập luận trên cơ sở chứng cứ, quy
định của pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp đó. Tuỳ theo tư cách
tố tụng tham gia xét xử vụ án hành mà phạm vi xét hỏi, tranh luận, đề xuất ý
kiến của mỗi người tham gia tố tụng cũng có khác nhau như người khởi kiện
đòi bồi thường, người bị kiện bác bỏ hoặc xin giảm mức bồi thường.
1.2 Tranh tụng - nguyên tắc cơ bản trong xét xử vụ án hành chính
1.2.1 Khái niệm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử vụ án hành chính
Nguyên tắc cơ bản của bất kỳ ngành luật hay lĩnh vực pháp luật nào luôn
là hiện thân của những quy luật khách quan tồn tại trong lĩnh vực đó không
phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của chúng ta.

Từ cổ xưa đến nay, hoạt động tố tụng trong bất kỳ lĩnh vực nào ( hình sự,
dân sự, hành chính...) xuất hiện khi có xung đột lợi ích giữa hai bên chủ thể
trong quan hệ pháp lý nhất định mà bản thân họ không thể tự giải quyết được
phải cần đến người thứ ba là trọng tài. Cuộc đấu tranh pháp lý giữa hai bên
chủ thể có cơ hội ngang nhau trong việc bảo vệ lợi ích của mình trong quan
hệ pháp luật đang có tranh chấp trước chủ thể thứ ba- trọng tài vô tư không
thiên vị- chính là yếu tố làm cho hoạt động tố tụng có tính tranh tụng. Lẽ tự
nhiên là vậy, có tranh tụng thì hoạt động tố tụng- hoạt động giải quyết tranh


×