Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Năng lực của thẩm phán trong xét xử vụ án hành chính qua thực tiễn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 102 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐẶNG THỊ THANH

NĂNG LỰC CỦA THẨM PHÁN
TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH –
QUA THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐẶNG THỊ THANH
NĂNG LỰC CỦA THẨM PHÁN
TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH –
QUA THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật
Mã số

: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học : GS.TS.NGƢT Phạm Hồng Thái

Hà Nội - 2016




MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU…………………………………………………………………...1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CỦA THẨM
PHÁN………………………………………………………………………8
1.1. Khái niệm, vai trò và nhiệm vụ của Thẩm phán……………..…..…8
1.1.1. Khái niệm Thẩm phán…………………………………………..……8
1.1.2. Vai trò và nhiệm vụ của Thẩm phán……………………………..…11
1.2. Năng lực của Thẩm phán và các tiêu chí đánh giá năng lực của
Thẩm phán………………………………………………………………..15
1.2.1. Khái niệm năng lực của Thẩm phán………………………….…….15
1.2.2. Các tiêu chí đánh giá năng lực của Thẩm phán…………………….17
1.3. Sự hình thành của pháp luật tố tụng hành chính Việt Nam về
Thẩm phán từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay………..25
Kết luận chƣơng 1………………………………………………………..35
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ VÀ THỰC TRẠNG
NĂNG LỰC CỦA THẨM PHÁN TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH
CHÍNH QUA THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI…………………..36
2.1. Thực trạng các quy định pháp luật về năng lực của Thẩm phán...36
2.1.1. Về trình độ đào tạo, điều kiện về bằng cấp của Thẩm phán………..36
2.1.2. Về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của Thẩm phán……………….38
2.1.3. Về trình độ lý luận chính trị của Thẩm phán……………………….41



2.1.4. Về phẩm chất đạo đức của Thẩm phán……………………………..43
2.1.5. Về văn hóa ứng xử của Thẩm phán………………………………...46
2.1.6. Về chất lượng xét xử của Thẩm phán………………………...…….49
2.2. Thực trạng năng lực của Thẩm phán trong xét xử vụ án hành
chính qua thực tiễn thành phố Hà Nội …………………………………51
2.2.1. Về trình độ đào tạo, điều kiện về bằng cấp…………………….…...52
2.2.2. Về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ………………………….……..52
2.2.3. Về trình độ lý luận chính trị………………………………………...53
2.2.4. Về phẩm chất đạo đức………………………………………………53
2.2.5. Về văn hóa ứng xử……………………………………………….…53
2.2.6. Kết quả và chất lượng xét xử các vụ án hành chính ở thành phố Hà
Nội…………………………………………………………………………54
2.3. Đánh giá chung về thực trạng năng lực của Thẩm phán trong xét
xử vụ án hành chính qua thực tiễn thành phố Hà Nội ………………..57
2.3.1. Những ưu điểm……………………………………………………..58
2.3.2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân…………………………….59
Kết luận chƣơng 2……………………………………………….……….64
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM NĂNG LỰC CỦA
THẨM PHÁN TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH …………...65
3.1. Quan điểm về sự cần thiết bảo đảm năng lực của Thẩm phán
trong xét xử vụ án hành chính…………………………………………..65
3.2. Những giải pháp chung………………………………………….….67
3.3. Những giải pháp cụ thể ………………………………………….…69
3.3.1. Các giải pháp xây dựng và hoàn thiện những quy định của pháp luật
về Thẩm phán…………………………………………………………..….70
3.3.2. Các giải pháp bảo đảm chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi
dưỡng Thẩm phán ………………………………………………………...74



3.3.3. Các giải pháp bảo đảm trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của Thẩm
phán ……………………………………………………………………….75
3.3.4. Các giải pháp bảo đảm trình độ lý luận chính trị của Thẩm phán….77
3.3.5. Các giải pháp bảo đảm phẩm chất đạo đức của Thẩm phán ……….78
3.3.6. Các giải pháp bảo đảm văn hóa ứng xử của Thẩm phán ……….......79
3.3.7.Các

giải

pháp

bảo

đảm chất

lượng

xét

xử của

Thẩm

phán……......................................................................................................80
3.3.8. Các giải pháp khác………………………………………………….81
Kết luận chƣơng 3………………………………………………………..84
KẾT LUẬN……………………………………………………………….85
DANH MỤC TÀ I LIỆU THAM KHẢO…….……………....…..……...88



LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lời biế t ơn sâu sắ c đế n các Thầ y, Cô giáo Khoa Luâ ̣t Đa ̣i ho ̣c
Quố c gia Hà Nô ̣i đã trang bi ̣cho tôi những kiế n thức quý báu , giúp tôi tiếp cận
tư duy khoa ho ̣c phu ̣c vu ̣ cho nghiên cứu, công tác và cuô ̣c số ng.
Xin chân thành cảm ơn GS.TS. NGƯT Phạm Hồng Thái đã tâ ̣n tiǹ h hướng
dẫn tôi hoàn thành luâ ̣n văn này . Trong quá triǹ h nghiên cứu hoàn thiê ̣n luâ ̣n
văn, dưới sự hướng dẫn rấ t bài bản và khoa ho ̣c của Thầ y , tôi đã ho ̣c hỏi đươ ̣c
những kiế n thức và phương pháp nghiên cứu khoa ho ̣c thực sự bổ ích.
Xin cảm ơn gia đình , bạn bè, các đồng nghiệp , Tòa án nhân dân thành phố
Hà Nội đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi trong suố t quá trình học tập,
nghiên cứu để tôi hoàn thiện Luận văn này.
Để hoàn thiê ̣n đươ ̣c luâ ̣n văn , mă ̣c dù đã cố gắ ng hế t mình trong nghiên cứu
cũng như tham khảo , đánh giá thực tiễn song vẫn không tránh khỏi những sai
sót. Tôi rấ t mong nhâ ̣n đươ ̣c những ý kiến gó p ý, giúp đỡ để tôi hoàn thiện Luận
văn của mình.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 19 tháng 05 năm 2016
Ngƣời viế t

Đặng Thị Thanh


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác.Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin
cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo

vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Đặng Thị Thanh


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Viết đầy đủ

HĐXX

Hội đồng xét xử

LTTHC

Luật tố tụng hành chính

Nxb

Nhà xuất bản

TAND

Tòa án nhân dân


TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

TAQS

Tòa án quân sự

TTLT

Thông tư liên tịch

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC BẢNG

Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang

Bảng so sánh tỷ lệ án hành chính bị hủy, bị sửa
Bảng 2.1:

do lỗi chủ quan của Thẩm phán so với các loại án
khác của toàn ngành TAND thành phố Hà Nội

năm 2015

57


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020 đã “xác định Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử
là hoạt động trọng tâm”. Theo tinh thần đó, xét xử vụ án nói chung, vụ án hành
chính nói riêng đóng vai trò quan trọng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân, tổ chức, cơ quan trước những khả năng có thể bị xâm phạm bởi
các quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan công quyền. Việc xét
xử vụ án hành chính chính xác, khách quan, công bằng một mặt bảo đảm quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, cơ quan sẽ góp phần lớn bảo vệ pháp
chế xã hội chủ nghĩa và tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước. Để làm tốt nhiệm
vụ này, không thể thiếu sự tham gia của đội ngũ Thẩm phán.
Ở nước ta, nói đến Thẩm phán là người ta hay nói đến quyền được “Nhân
danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” khi tuyên án để nói lên niềm
vinh dự và trách nhiệm của Thẩm phán. Trong xét xử các vụ án nói chung, xét
xử vụ án hành chính nói riêng, phán quyết của của Thẩm phán ảnh hưởng trực
tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân. Với một công vụ đặc biệt như
vậy, làm thế nào để án xử đúng pháp luật, hạn chế tối đa tình trạng hủy án, sửa
án, mang lại công bằng cho nhân dân, thấu tình đạt lý là một áp lực không nhỏ.
Qua đó khẳng định Thẩm phán trong xét xử vụ án hành chính có vai trò
đặc biệt quan trọng, đòi hỏi phải có năng lực trình độ chuyên nghiệp trong công
tác xét xử, yêu nghề, phẩm chất đạo đức tốt…
Theo các văn bản pháp luật hiện hành cùng với thực tiễn áp dụng pháp
luật, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ… của Thẩm phán trong xét xử vụ án
hành chính về cơ bản là đảm bảo. Các quy định về chế độ bổ nhiệm, tuyển chọn,

công tác đào tạo, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức, văn hóa

1


xét xử của Thẩm phán phù hợp với các nguyên tắc tố tụng hành chính và nguyên
tắc tổ chức bộ máy nhà nước, đảm bảo cho hoạt động tố tụng hành chính ở Việt
Nam có hiệu quả. Song về phương diện lý luận năng lực của Thẩm phán chưa
được giới khoa học pháp lý làm sáng tỏ. Bên cạnh đó, về mặt thực trạng các quy
định của pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật đó vẫn còn một
số bất cập nhất định làm hạn chế năng lực của Thẩm phán, từ đó ảnh hưởng đến
kết quả xét xử, đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Nghiên cứu vấn đề
này cũng là áp ứng yêu cầu đòi hỏi từ thực tiễn đặt ra nhằm bảo đảm năng lực
của Thẩm phán trong xét xử vụ án hành chính ởViệt Nam hiện nay nói chung và
ở thành phố Hà Nội nói riêng.
Thực tiễn về năng lực của Thẩm phán trong xét xử vụ án hành chính ở
thành phố Hà Nội trong thời gian qua về cơ bản đã đáp ứng được nhiệm vụ bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đồng
thời bảo vệ pháp chế, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước. Tuy nhiên, qua
thực tiễn xét xử các vụ án hành chínhvẫn còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế như:
vẫn còn tình trạng tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, bị sửa do lỗi chủ quan của
Thẩm phán;án quá hạn…Những tồn tại trên cho thấy năng lực của đội ngũ Thẩm
phán trong xét xử vụ án hành chính ở thành phố Hà Nội còn bộc lộ những yếu
kém nhất định cần được khắc phục.
Trước tình hình đó, tác giả chọn đề tài: “Năng lực của Thẩm phán trong
xét xử vụ án hành chính - Qua thực tiễn thành phố Hà Nội” làm đề tài Luận
văn Thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tình hình nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về Thẩm phán nói
chung, về năng lực của Thẩm phán trong xét xử vụ án hành chính nói riêng đã

được giới khoa học pháp lý và nhất là những người trực tiếp làm công tác xét xử
quan tâm nghiên cứu. Liên quan đến đề tài của Luận văn có một số các công
trình nghiên cứu như:
2


- Sách “Chế định Thẩm Phán – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của
TS. Phạm Văn Lợi, Nxb Tư pháp, Hà Nội năm 2004 nghiên cứu một số vấn đề lí
luận về chế định thẩm phán, phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về chế định
Thẩm phán và đội ngũ thẩm phán ở Việt Nam, đưa ra một số giải pháp nhằm xây
dựng và hoàn thiện chế định Thẩm phán trong pháp luật Việt Nam.
- Luận án Tiến sỹ Luật học của tác giả Đỗ Gia Thư năm 2006“Cơ sở khoa
học của việc xây dựng đội ngũ Thẩm phán ở nước ta hiện nay” nghiên cứu về cơ
sở lý luận của việc xây dựng đội ngũ Thẩm phán ở Việt Nam cũng như kinh
nghiệm của một số nước trên thế giới nói chung, về thực trạng xây dựng đội ngũ
Thẩm phán ở nước ta và các quan điểm, giải pháp đẩy mạnh việc xây dựng đội
ngũ Thẩm phán trong giai đoạn hiện nay.
- Luận Văn Thạc sỹ Luật học của tác giải Nhữ Văn Tâm năm 2006 “Xây
dựng đội ngũ Thẩm phán theo hướng nâng cao năng lực chuyên môn và đạo đức
nghề nghiệp- liên hệ vào thực tiễn của ngành toà án tỉnh Thái Nguyên” nghiên
cứutiêu chuẩn đánh giá chất lượng của thẩm phán, tính tất yếu khách quan của
việc nâng cao năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ Thẩm
phán.
- Luận Văn Thạc sỹ Luật học của tác giả Vũ Thu Hiền năm 2008 “Xây
dựng đội ngũ Thẩm phán đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện
nay” đưa ra những cơ sở lý luận và thực tiễn về Thẩm phán và xây dựng đội ngũ
Thẩm phán đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.
- Luận văn Thạc sỹ Luật học của tác giả Hoàng Hồng Phươngnăm 2011
“Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”
nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về nguyên tắc "Thẩm phán, Hội thẩm

nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" trong hoạt động xét xử nhằm làm rõ
khái niệm, nội dung và ý nghĩa của nguyên tắc.
- Luận Văn Thạc sỹ Luật học của tác giả Cao Thị Nga năm 2014 “Văn hoá
pháp luật của Thẩm phán trong lĩnh vực tố tụng hành chính” đề cập khá toàn
3


diện các vấn đề lý luận và thực tiễn văn hoá pháp luật của Thẩm phán trong lĩnh
vực tố tụng hành chính trong bối cảnh Việt Nam nhằm đưa ra giải pháp hình
thành và phát triển các giá trị văn hoá của Thẩm phán trong tố tụng hành chính.
- Luận văn Thạc sỹLuật họccủa tác giả Nguyễn Thị Thu năm 2015 “Sự độc
lập của Thẩm phán- Yếu tố đảm bảo liêm chính trong hoạt động tư pháp ở Việt
Nam”nghiên cứu xác định các yếu tố đảm bảo cho sự độc lập của Thẩm phán
gắn với một nền tư pháp liêm chính, trên cơ sở đó phát hiện, tìm ra các giải pháp
nhằm tăng cường sự độc lập của thẩm phán theo yêu cầu liêm chính tư pháp ở
Việt Nam hiện nay.
Ngoài ra, còn có các bài viết được đăng tải trên các báo, tạp chí như:Một
số biện pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc: Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của TS. Phạm Hồng Hải, Chuyên san Kinh tế
- luật; Nâng cao kỹ năng nghề nghiệp của người Thẩm phán của Ths. Lê Xuân
Thân, Tạp chí Tòa án nhân dân số 01/2002; Kiến nghị nhằm nâng cao vị thế độc
lập của Thẩm phán trong hoạt động xét xử của tác giả Nguyễn Minh Sử, Tạp chí
Toà án nhân dân tháng 7/2011…
Tổng quan các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến vị trí, vai trò
của Thẩm phán, về phương hướng xây dựng đội ngũ Thẩm phán …Tuy nhiên,
chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào chuyên sâu, cụ thể về năng lực của
Thẩm phán trong xét xử vụ án hành chính để từ đó tìm ra những nguyên nhân,
giải pháp nhằm nâng cao năng lực của Thẩm phán trong xét xử vụ án hành
chính, góp phần đẩy mạnh quá trình cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân.

3. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
3.1. Mục tiêu tổng quát:
Làm sáng tỏ những vấn đềlý luận về Thẩm phán, năng lực của Thẩm phán;
pháp luật quy định về năng lực của Thẩm phán trong xét xử vụ án hành chính;
thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về năng lực của Thẩm phán trong
4


xét xử vụ án hành chính ở thành phố Hà Nội. Từ đó chỉ ra những yếu tố gây ra
sự hạn chế của những quy định pháp luật và việc áp dụng các quy định đó làm
hạn chế năng lực của Thẩm phán, làm ảnh hưởng đến kết quả xét xử vụ án hành
chính; đưa ra những quan điểm, giải pháp khắc phục những hạn chế đểbảo đảm
năng lực của Thẩm phán trong xét xử vụ án hành chính. Tất cả những công việc
này vì mục đích nâng cao năng lực giải quyết triệt để, chính xác, đúng pháp luật
vụ án hành chính của Thẩm phán.
3.2. Mục tiêu cụ thể:
Để đạt được mục đích nói trên, Luận văn có những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Làm sáng tỏ về mặt lý luận: Khái niệm, vị trí, vai trò, nhiệm vụ của
Thẩm phán; các tiêu chí đánh giá năng lực của Thẩm phán;sự hình thành các quy
định của pháp luật tố tụng hành chính về Thẩm phán từ sau Cách mạng tháng
Tám năm 1945 đến nay.
- Đánh giá làm rõ thực trạng các quy định của pháp luật về năng lực của
Thẩm phán trong xét xử vụ án hành chính qua thực tiễn thành phố Hà Nội; kết
quả xét xử các vụ án hành chính ở thành phố Hà Nội trong giai đoạn 05 năm
2011-2015. Từ đó đánh giá chung nhất về thực trạng năng lực của Thẩm phán
trong xét xử vụ án hành chính qua thực tiễn thành phố Hà Nội, chỉ ra những ưu
điểm và hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế đó.
- Đưa ra được quan điểm và đề xuất giải pháp bảo đảm năng lực của Thẩm
phán trong xét xử vụ án hành chính góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam công bằng, dân chủ, văn minh.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài bao gồm những vấn đề lý luận chung
năng lực của Thẩm phán, các tiêu chí đánh giá năng lực Thẩm phán, sự hình
thành các quy định của pháp luật tố tụng hành chính về Thẩm phán; Thực trạng
và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về năng lực của Thẩm phán
5


trong xét xử vụ án hành chính qua thực tiễn thành phố Hà Nội; Thực tiễn năng
lực của Thẩm phán trong xét xử vụ án hành chính qua kết quả công tác xét xử vụ
án hành chính trong giai đoạn 05 năm 2011-2015 ở thành phố Hà Nội. Quan
điểm và giải pháp bảo đảm năng lực của Thẩm phán trong xét xử vụ án hành
chính.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt nội dung, phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn ở việc nghiên
cứu lý luận về năng lực của Thẩm phán trong xét xử hành chính; phân tích các
quy định Hiến pháp, Luật tố tụng hành chính, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật
tổ chức Tòa án nhân dân… hiện hành và một số các văn bản pháp luật, văn kiện
Đại hội Đảng có liên quan đến chủ đề của Luận văn.
- Thực trạng năng lực của Thẩm phán trong xét xử vụ án hành chính theo
các tiêu chí đã được xác định.
- Luận văn cũng nghiên cứu thực trạng xét xử vụ án hành chính ở thành
phố Hà Nội trong giai đoạn 05 năm (2011, 2012, 2013, 2014, 2015), qua đó
đánh giá năng lực Thẩm phán.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và các quan điểm của Đảng ta về Nhà nước và pháp luật, về cán bộ,
công chức ngành tư pháp. Để giải quyết những vấn đề, thực hiện mục đích của
Luận văn, tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê…

Bên cạnh đó tham khảo nhiều văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà
nước, các tài liệu khoa học pháp lý, ý kiến của các chuyên gia, cán bộ thực tiễn.
6. Tính mới và những đóng góp của Luận văn
Luận văn đã làm rõ được những vấn đề lý luận về năng lực của Thẩm
phán, đưa ra các tiêu chí đánh giá năng lực Thẩm phán trong xét xử vụ án hành
chính; đánh giá được thực trạng pháp luật quy định về năng lực Thẩm phán,
đánh giá thực trạng năng lực của Thẩm phán trong xét xử vụ án hành chính
6


thông qua việc đánh giá thực tiễn xét xử các vụ án hành chính ở thành phố Hà
Nội; đưa ra được những quan điểm và giải pháp bảo đảm năng lực của Thẩm
phán trong xét xử hành chính.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
Với kết quả nghiên cứu nghiên cứu đề tài sẽ góp phần vào việc giải quyết
về mặt lý luận về năng lực của Thẩm phán trong xét xử hành chính.
Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên luật cũng
như cho những nghiên cứu về tố tụng hành chính. Các giải pháp đưa ra trong
Luận văn có thể sẽ được nghiên cứu, tham khảo để đưa vào thực tiễn, góp phần
hoàn thiện pháp luật về Thẩm phán, năng lực của Thẩm phán.
8. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính
của Luận văngồm 03 chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận về năng lực của Thẩm phán
Chương II: Thực trạng pháp luật và thực trạng năng lực của Thẩm phán
trong xét xử vụ án hành chính - qua thực tiễn thành phố Hà Nội.
Chương III: Quan điểm, giải pháp bảo đảm năng lực của Thẩm phán trong
xét xử vụ án hành chính.

7



Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CỦA THẨM PHÁN
1.1. Khái niệm, vai trò và nhiệm vụ của Thẩm phán
Trong hoạt động xét xử các vụ án nói chung, vụ án hành chính nói riêng,
Thẩm phán có vai trò hết sức quan trọng, là người có quyền và phải chịu trách
nhiệm về các phán quyết của mình. Các phán quyết của Thẩm phán có ảnh
hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; ảnh ưởng tới tính
công minh của pháp luật, uy tín và nền công lý quốc gia. Chính vì thế sự tham
gia của Thẩm phán trong xét xử vụ án hành chính có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
1.1.1. Khái niệm Thẩm phán
Thẩm phán ở bất kỳ các quốc gia nào, châu lục nào và thuộc hệ thống
pháp luật nào thì cũng đều có nhiệm vụ xét xử và làm việc trong một cơ quan
nhà nước là Tòa án. Vậy nên, nói đến Thẩm phán người ta hiểu đó là người
chuyên làm công tác xét xử các vụ án, là trọng tài viên phân xử tranh chấp giữa
các bên trong các vụ việc dân sự, phân xử hành vi của bị cáo có cấu thành tội
phạm như bản cáo trạng của bên buộc tội hay không trong vụ án hình sự.
Ở Việt Nam, xét xử vụ án hành chính được coi là giai đoạn trọng tâm
trong tố tụng hành chính nói chung, trong giải quyết vụ án hành chính nói riêng.
Thông qua giai đoạn này Tòa án xác định quyền lợi của công dân, tổ chức kinh
tế, tổ chức xã hội có bị xâm hại bởi các quyết định hành chính, hành vi hành
chính của cơ quan nhà nước hay không để từ đó đưa ra những bản án, quyết định
đúng với những quy định của pháp luật nhằm bảo vệ uy tín, quyền lợi của Nhà
nước cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Để đảm bảo cho việc xét xử đúng pháp luật, Thẩm phán phải có những
tiêu chuẩn nhất định về thể lực, trí lực, đạo đức và phải được tuyển chọn bổ
nhiệm theo thủ tục trình tự mà pháp luật đã quy định. Hiện nay, vẫn tồn tại nhiều
quan điểm khác nhau về khái niệm “Thẩm phán”. Cụ thể là:
8



Theo Từ điển tường giải và liên tưởng tiếng Việt, khái niệm “Thẩm phán”
được giải thích: “cán bộ Tòa án có nhiệm vụ tìm hiểu sự thật vụ án để giúp cho
chủ tọa phiên tòa có cơ sở luận án”[52, tr.554]. Theo cách hiểu này, Thẩm phán
đúng là cán bộ, công chức ngành tòa án, có nhiệm vụ tìm hiểu sự thật vụ án. Tuy
nhiên trên thực tế, Thẩm phán không chỉ có nhiệm vụ tìm hiểu sự thật vụ án, mà
còn có nhiệm vụ quan trọng hơn, trọng tâm hơn mà khái niệm trên chưa đề cập,
đó chính là nhiệm vụ xét xử vụ án. Hơn nữa, trong nhiều trường hợp Thẩm phán
tham gia giải quyết vụ án với tư cách là chủ tọa phiên tòa, cũng có trường hợp
tham gia với tư cách là thành viên của Hội đồng xét xử. Vì thế, khái niệm trên
chưa hoàn toàn cho cái nhìn chính xác, bao quát toàn bộ vấn đề.
Theo Đại từ điển tiếng Việt, khái niệm “Thẩm phán” được giải thích như
sau: “ Người của Tòa án có nhiệm vụ điều tra, hòa giải, truy tố hay xét xử các vụ
án”[1]. Trong các nhiệm vụ mà khái niệm này đưa ra, Thẩm phán chỉ làm nhiệm
vụ hòa giải trong các vụ việc dân sự, kinh tế, hôn nhân gia đình và xét xử các
loại vụ việc, các loại án. Như vây, độ chính xác của khái niệm này chưa được
đảm bảo.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, khái niệm “Thẩm phán” được hiểu là:
“người có chức vụ của cơ quan tòa án được bổ nhiệm theo trình tự luật định,
thực hiện chức năng xét xử các vụ án”[51, tr.637]. So với hai quan điểm trên,
quan điểm này đã thể hiện sự chính xác hơn. Trong cơ cấu tổ chức của Tòa án,
Thẩm phán là một chức danh tư pháp không thể thiếu. Thẩm phán được bổ
nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử và giải quyết những
công việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án. Vì vậy, Thẩm phán được coi là
người tiến hành tố tụng trong giai đoạn xét xử - đây là thiếu sót mà khái niệm
này chưa đề cập.
Theo Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của Khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội, “Thẩm phán là người tiến hành tố tụng được bổ nhiệm theo
quy định của pháp luật thực hiện nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền

9


của Tòa án” [19, tr.101]. Theo khái niệm này, nhiệm vụ chính của Thẩm phán là
chỉ xét xử vụ án, nhưng trên thực tế, khi công tác ở Tòa án Thẩm phán còn có
nhiệm vụ giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 1 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa
án nhân dân 2002 thì Thẩm phán được định nghĩa:“ là người được bổ nhiệm theo
quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những
việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án”.Ở định nghĩa này, nhiệm vụ của Thẩm
phán đã được xác lập đầy đủ hơn đó là không những Thẩm phán đóng vai trò là
người xét xử các vụ án mà còn làm các nhiệm vụ khác thuộc thẩm quyền của
Tòa án (khi Thẩm phán là Chánh án, Phó Chánh án…). Tuy nhiên, trong Bộ Luật
tố tụng hình sự, Luật tố tụng hành chính hay Bộ Luật tố tụng dân sự hiện hành
thì Thẩm phán còn được quy định là người tiến hành tố tụng như khái niệm tại
Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà
Nội nêu.
Hiện nay, Điều 65 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 có quy định
cụ thể hơn về thẩm phán “là người có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của
Luật này được Chủ tịch nước bổ nhiệm để làm nhiệm vụ xét xử”.Với định nghĩa
này, như đã phân tích ở các dẫn chứng trên, Thẩm phán trong định nghĩa tuy cụ
thể hơn nhưng nhiệm vụ vẫn chưa đầy đủ.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm “Thẩm phán là người
tiến hành tố tụng được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật thực hiện nhiệm vụ
xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa
án”.
Thẩm phán được chia thành 4 ngạch, bao gồm: Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao; Thẩm phán cao cấp; Thẩm phán trung cấp; Thẩm phán sơ cấp. Theo
đó, Tòa án nhân dân tối cao có Thẩm phán TANDTC; Tòa án nhân dân cấp cao,
Tòa án quân sự trung ương có Thẩm phán cao cấp; Tòa án nhân dân tỉnh, thành

phố trực thuộc trung ương, Tòa án quân sự quân khu và tương đương có Thẩm
10


phán cao cấp, trung cấp và sơ cấp; Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh và tương đương, Tòa án quân sự khu vực có Thẩm phán trung cấp
và sơ cấp. Nhiệm kỳ đầu của Thẩm phán là 05 năm kể từ ngày được bổ nhiệm,
trường hợp được bổ nhiệm lại hoặc được được bổ nhiệm vào ngạch Thẩm phán
khác thì nhiệm kỳ tiếp theo là 10 năm.
1.1.2. Vai trò và nhiệm vụ của Thẩm phán
a. Vai trò của Thẩm phán
Trong tố tụng hành chính nói chung, xét xử vụ án hành chính nói riêng,
Thẩm phán đóng một vai trò quan trọng.
Ở nước ta, bộ máy nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tập trung quyền
lực có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Thực hiện quyền tư pháp
mà chủ yếu là quyền xét xử là một trong những chức năng rất quan trọng của
Nhà nước Việt Nam và được giao cho Toà án nhân dân.
Hoạt động xét xử của Tòa án được thực hiện thông qua Hội đồng xét xử
(HĐXX), trong đó Thẩm phán là với tư cách là người đại diện cho nhà nước,
thực thi công lý, họ có vai trò là người trọng tài. Thẩm phán có thể được phân
công làm chủ tọa phiên tòa, cũng có thể chỉ là Thẩm phán tham gia phiên tòa thì
vẫn là người tiến hành các hoạt động tố tụng tại phiên tòa như xét hỏi, xem xét
vật chứng, ra các quyết định thuộc thẩm quyền của mình mà pháp luật tố tụng
hành chính quy định.
Khi làm chủ tọa phiên tòa, Thẩm phán là người tổ chức và điều khiển
phiên tòa; tham gia vào việc ra bản án, quyết định, thay mặt Hội đồng xét xử
tuyên bản án nhân danh nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Các phán
quyết của Hội đồng xét xử là biểu hiện tập trung và là kết quả cuối cùng không
chỉ của quá trình xét xử mà đồng thời là kết quả của quá trình điều tra, lập hồ sơ

vụ án... Chẳng hạn:

11


Đối với thủ tục bắt đầu phiên tòa, Thẩm phán với tư cách là chủ tọa phiên
tòa có vai trò quan trọng, là người điều khiển phiên tòa, tiến hành những thủ tục
cần thiết để các thủ tục xét hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án có được tiến hành
tiếp hay không và nếu được tiến hành thì các thủ tục đó được diễn ra một
cáchthuận lợi, đúng pháp luật, đảm bảo cho việc xét xử khách quan, công bằng.
Đối với việc tranh tụng diễn ra tại phiên tòa thì vai trò của Thẩm phán
được thể hiện một cách rõ nét đầy đủ nhất. Bởi vì cũng chính tại phiên tòa là nơi
sẽ diễn ra đỉnh điểm của sự tranh tụng, nó hàm chứa đầy đủ các dấu hiệu, đặc
điểm của việc tranh tụng và cũng tại giai đoạn này vai trò của thẩm phán trong
tranh tụng cũng được thể hiện một cách nổi bật. Thẩm phán là người điều khiển
việc tranh tụng để việc tranh tụng diễn ra một cách có trật tự, đi đúng trọng tâm
vào những vấn đề mấu chốt, những điểm còn mâu thuẫn, cần làm rõ của vụ án
hành chính.Thông qua kết quả tranh tụng, thẩm phán đánh giá nội dung thực chất
của vụ án, các chứng cứ, các lý lẽ, lập luận của mỗi bên, trên cơ sở đó căn cứ vào
quy định của pháp luật để ra quyết định đúng đắn.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, chỉ có Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân mới được quyền xét xử. Tuy nhiên, Hội thẩm chỉ tham gia xét xử ở cấp
xét xử sơ thẩm và trong trường hợp cần thiết tham gia xét xử phúc thẩm. Trong
khi đó, dù ở cấp xét xử nào sự có mặt của Thẩm phán vào việc xét xử là điều bắt
buộc, Thẩm phán luôn đóng vai trò nòng cốt giải quyết vụ án.
Thông qua vai trò xét xử các vụ án hành chính, Thẩm phán góp phần to
lớn vào việc duy trì sự công bằng, khách quan của pháp luật; một mặt bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức trước quyết định hành chính và
hành vi hành chính của cơ quan nhà nước; đồng thời cũng bảo vệ quyền lợi và
danh dự của cơ quan nhà nước.

Tòa án là nơi bảo vệ công lý, là công đường, trong đó Thẩm phán là trụ
cột, là trọng tài, là chỗ dựa vững chắc cho công dân, tổ chức và nhà nước; kìm
hãmsự lạm dụng quyền lực của cơ quan nhà nước (nếu có) đồng thời chống lại
12


sự nhũng nhiễu của một số cá nhân có hành vi lợi dụng khiếu kiện hành chính để
làm giảm đi uy tín của cơ quan nhà nước.
Ngoài ra, bằng việc xét xử tại phiên tòa, Thẩm phán góp phần vô cùng to
lớn, có hiệu quả trong công tác phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật. Bên
cạnh đó, thông qua công tác áp dụng pháp luật của Thẩm phán trong thực tiễn
xét xử, có thể đúc rút ra những kinh nghiệm quý báu, góp phần kiến nghị, sửa
đổi bổ sung và hoàn thiện pháp luật.
Từ những phân tích trên, một lần nữa khẳng định Thẩm phán đóng vai trò
vô cùng quan trọng, không thể thiếu trong quá trình giải quyết vụ án hành chính,
trong đó càng không thể thiếu trong xét xử vụ án hành chính. Qua đó, góp phần
bảo vệ các quyền con người, bảo vệ công lý…tạo môi trường ổn định cho sự
phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
b. Nhiệm vụ của Thẩm phán
Thẩm phán TAND là một chức danh tố tụng có nhiệm vụ quan trọng là
cùng với Hội thẩm nhân dân tham gia trực tiếp vào việc xét xử, trong đó có xét
xử các vụ án hành chính.Điều 65 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy
định cụ thể là quyền hạn, nhiệm vụ của Thẩm phán: “Thẩm phán là người có đủ
điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của Luật này được Chủ tịch nước bổ nhiệm
để làm nhiệm vụ xét xử; Thẩm phán thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại
Điều 2 của Luật này và các luật có liên quan”. Theo đó, Thẩm phán có nhiệm vụ
xét xử và thực hiện các nhiệm vụ được quy định tại Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án
nhân dân năm 2014 và các luật khác có liên quan. Trong đó, Điều 2 Luật Tổ
chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định cụ thể về chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của Tòa án. Như vậy, nhiệm vụ xét xử là nhiệm vụ đặc thù của Tòa án, thể

hiện rõ nét tính quyền lực nhà nước, đồng thời là chức năng chuyên biệt của
Thẩm phán, là nghề của Thẩm phán. Thông qua hoạt động của của mình, Thẩm
phán thực hiện nhiệm vụ của tòa án. Thẩm quyền xét xử của Thẩm phán phụ
thuộc vào thẩm quyền xét xử của Tòa án.
13


Trong tố tụng hành chính, Thẩm phán là người trực tiếp xét xử vụ án hành
chính. Thẩm phán có thể được phân công làm chủ tọa phiên tòa, có thể chỉ là
Thẩm phán tham gia phiên tòa thì vẫn là người tiến hành tố tụng tại phiên tòa
như nghiên cứu hồ sơ vụ án, xét hỏi, xem xét vật chứng, ra các quyết định thuộc
thẩm quyền của mình mà pháp luật tố tụng hành chính quy định. Tuy nhiên,
nhiệm vụ của Thẩm phán có sự khác nhau khi Thẩm phán ở vị trí khác nhau. Đối
với Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa có nhiệm vụ nặng nề và áp lực
hơn so với Thẩm phán tham gia phiên tòa.
Thực hiện nhiệm vụ xét xử của mình trong giải quyết các vụ án hành
chính, Thẩm phán cùng Hội đồng xét xử ra bản án, thay mặt Hội đồng xét xử
tuyên bản án, quyết định nhân danh Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Các phán quyết của Tòa án là kết quả cuối cùng của hoạt động xác minh,
thu thập tài liệu, chứng cứ của các cơ quan tiến hành tố tụng. Các phán quyết của
Thẩm phán có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chức.Chính vì vậy, Luật Tố tụng hành chính năm 2010 hiện hành, Luật Tố tụng
hành chính năm 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2016 đã quy định rõ
nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán được phân công giải quyết và xét xử vụ án
hành chính.
Thông qua việc thực hiện nhiệm vụ xét xử vụ án hành chính, Thẩm phán
thực hiện nhiệm vụ bảo vệ các quyền con người, quyền công dân; danh dự, uy
tín của cơ quan nhà nước và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Đồng thời cũng là thực hiện nhiệm vụ của Tòa án: bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; góp phần

giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật,
tôn trọng những nguyên tắc của cuộc sống xã hội và các vi phạm pháp luật khác.
Chính vì vậy, có thể khẳng định Thẩm phán có vai trò đặc biệt quan trọng
không chỉ trong hoạt động xét xử mà còn có vai trò quan trọng trong bảo vệ và
giáo dục pháp luật.
14


1.2. Năng lực của Thẩm phán và các tiêu chí đánh giá năng lực của Thẩm
phán.
1.2.1. Khái niệm năng lực của Thẩm phán
Năng lực của Thẩm phán là thuật ngữ được sử dụng phổ biến và thường
xuyên trong thực tiễn pháp luật, trên các bài viết được đăng trên các sách, báo,
tạp chí như: “ Năng lực của Thẩm phán tiếp tục là vấn đề quan ngại”, “Nâng cao
năng lực của đội ngũ Thẩm phán TAND các cấp”…Tuy nhiên, khái niệm năng
lực của Thẩm phán cụ thể là gì thì vẫn chưa được làm rõ để đảm bảo sự thống
nhất trong nhận thức và áp dụng.
Nghề của Thẩm phán là xét xử, chức năng chính của Thẩm phán là xét xử,
nhiệm vụ chính của Thẩm phán là thực hiện và hoàn thành tốt công việc xét xử.
Khi tất cả những điều trên được đáp ứng thì Thẩm phán được coi là một Thẩm
phán có năng lực. Để khái niệm “năng lực của Thẩm phán” một cách chính xác,
trước hết cần làm rõ về thuật ngữ năng lực.
Hiện nay, có rất nhiều cách hiểu khác nhau về thuật ngữ “năng lực”.
TheoTừ điển tường giải và liên tưởng tiếng Việt, “năng lực” được giải
thích là: “sức làm được việc, trình độ thành thạo” [52, tr.321].
Theo Đại từ điển tiếng Việt, “năng lực” được hiểu là: “những điều kiện đủ
hoặc vốn có thể để làm một việc gì: năng lực tư duy của con người; khả năng đủ
để thực hiện tốt một công việc: có năng lực chuyên môn và năng lực tổ chức”[1].
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, “năng lực” được hiểu là: “Đặc điểm
của cá nhân thể hiện mức độ thông thạo - tức là có thể thực hiện một cách thuần

thục và chắc chắn - một hay một số dạng hoạt động nào đó. Năng lực gắn liền
với những phẩm chất về trí nhớ, tính nhạy cảm, trí tuệ, tính cách của cá nhân.
Năng lực có thể phát triển trên cơ sở năng khiếu (đặc điểm sinh lí của con người,
trước hết là của hệ thần kinh trung ương), song không phải là bẩm sinh mà là kết
quả phát triển của xã hội và của con người (đời sống xã hội, sự giáo dục và rèn
luyện, hoạt động của cá nhân)” [51, tr.452].
15


Ngoài ra, còn một số các quan điểm khác nhau về năng lực như:“Năng lực
là sự tương ứng giữa một bên là những đặc điểm tâm sinh lý của một con người
với một bên là những yêu cầu của hoạt động nghề đối với con người đó”[66].
Hay, có quan điểm khác lại cho rằng: “trong lao động, những yêu cầu của một
công việc xác định; nếu những đặc điểm tâm lí và sinh lí của một người có quan
hệ tương xứng với những yêu cầu của công việc thì có thể giao việc cho họ: đó
chính là năng lực”[67].
Từ những cách hiểu trên, tác giả có thể rút ra khái niệm năng lực như sau:
“Năng lực là những khả năng cần thiết đủ để thực hiện thành thạo một công việc
nhất định và hoàn thành yêu cầu, nhiệm vụ của công việc đó”.
Theo đó, đối với một loại công việc, mỗi loại ngành nghề khác nhau đòi
hỏi phải có những khả năng cần thiết, đặc trưng khác nhau để đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ của công việc đó. Đối với nghề Thẩm phán – nghề xét xử cũng vậy, để
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xét xử các vụ án nhanh chóng, chính xác, đúng các
quy định của pháp luật, Thẩm phán phải có khả năng cần thiết đảm bảo thực hiện
thành thạo công việc xét xử. Những khả năng cần thiết đó bao gồm: trình độ đào
tạo, bằng cấp; trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; trình độ lý luận chính trị; phẩm
chất đạo đức tốt và phải có văn hóa ứng xử khéo léo, thông minh…Ngoài ra, yếu
tố quan trọng nhất để đánh giá năng lực của một Thẩm phán trong xét xử các vụ
án chính là chất lượng xét xử các vụ án hành chính. Bởi vì chất lượng xét xử là
thành quả cuối cùng của tất cả các quá trình hoạt động trước đó (trình độ đào tạo,

bằng cấp; trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; trình độ lý luận chính trị; phẩm chất
đạo đức tốt và văn hóa ứng xử) của Thẩm phán và là cơ sở để đánh giá năng lực
hoàn thành nhiệm vụcủa Thẩm phán.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm năng lực của Thẩm phán
và năng lực của Thẩm phán trong xét xử vụ án hành chính như sau:
“Năng lực của Thẩm phán là những khả năng cần thiết đủ để thực hiện
thành thạo và hoàn thành nhiệm vụ, chức năng xét xử”.
16


×