Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.44 KB, 7 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong số các nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân,
khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nguyên tắc tranh tụng trong
xét xử được đảm bảo”. Đây là một trong những đổi mới đáng chú ý vì lần đầu
tiên Hiến pháp đã ghi nhận nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử. Nó
không chỉ là phương tiện, là cách thức để tìm ra chân lý, làm sáng tỏ sự thật
khách quan mà còn là cách thức nâng cao nhận thức, nâng cao chất lượng tranh
tụng tại tất cả các phiên tòa xét xử được coi là một trong những khâu đột phá
của hoạt động tư pháp. Tạo ra môi trường dân chủ bình đẳng trong quan hệ tố
tụng, buộc các chủ thể có thẩm quyền từ điều tra, truy tố, xét xử nâng cao năng
lực, trình độ, hạn chế được chủ quan, duy ý chí trong đấu tranh phòng chống tội
phạm.
Từ những nhận định trên, em xin chọn đề tài: Phân tích nội dung và ý nghĩa
“nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”.

NỘI DUNG
NỘI DUNG “NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ

I.
1.
-

ĐƯỢC BẢO ĐẢM” (KHOẢN 5 ĐIỀU 103 HIẾN PHÁP 2013)
Định nghĩa “tranh tụng”
Theo từ điển tiếng Việt, tranh tụng có nghĩa là sự kiện cáo lẫn nhau. Còn
theo Hán Việt, thì thuật ngữ tranh tụng được ghép từ hai từ “tranh luận”
và “tố tụng”. Tranh tụng là tranh luận trong tố tụng.

-

Quy định của Hiến pháp sửa đổi năm 2013 về nguyên tắc “Bảo đảm


tranh tụng trong xét xử” thì tranh tụng là hoạt động của các bên tham gia


xét xử đưa ra các quan điểm của mình và tranh luận lại để bác bỏ một
phần hoặc toàn bộ quan điểm của phía bên kia. Tranh tụng là cơ sở để
Tòa án đánh giá toàn bộ nội dung vụ án và đưa ra phán quyết cuối cùng
đảm bảo tính khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
2. Nội dung nguyên tắc


Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử
được bảo đảm” (khoản 5 Điều 103). Cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013,
Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2014 quy định: “Nguyên tắc tranh
tụng trong xét xử được bảo đảm. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho
những người tham gia tố tụng thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử.
Việc thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử theo quy định của
luật tố tụng” (Điều 13).

Thứ nhất, tranh tụng thực chất là hình thức tố tụng mà trong đó các bên tham
gia tố tụng thực hiện việc chứng minh các tình tiết của vụ án, cho phép các bên
tham gia tố tụng thực hiện việc chứng minh, đặc biệt là chứng minh tại phiên
tòa. Việc đổi mới thủ tục tranh tụng tại phiên tòa được TAND coi là khâu đột
phá để nâng cao công tác xét xử, đảm bảo những phán quyết của Tòa án đúng
luật, mang lại công lý, niềm tin cho nhân dân và xã hội. Việc đổi mới thủ tục xét
hỏi và tranh luận không chỉ ở các phiên tòa xét xử hình sự mà được áp dụng đối
với cả các phiên tòa xét xử hình sự, dân sự, hành chính.
Trước đây, nguyên tắc tố tụng của Nhà nước ta chỉ là xét hỏi. Khi chủ tọa phiên
tòa chủ động hỏi và bị cáo trả lời tạo ra một sự bất bình đẳng giữa một bên là
Nhà nước, là tòa án và các cơ quan có thẩm quyền còn bên kia là bị cáo, đương
sự hoặc là những người có liên quan, không tạo ra được bầu không khí thật sự

dân chủ. Để khắc phục tình trạng trên, Hiến pháp 2013 đã quy định “nguyên tắc
tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Việc xét xử sơ thẩm của TAND có hội
thẩm nhân dân tham gia, trừ trường hợp theo thủ tục rút gọn. Đây là cơ sở phù


hợp để tạo điều kiện cho cải cách tư pháp theo Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị,
là cách thức để tìm ra chân lý, làm sáng tỏ sự thật khách quan. Đặc biệt, tranh
tụng sẽ là cách nâng cao nhận thức, tạo ra môi trường dân chủ bình đẳng trong
quan hệ tố tụng, buộc các chủ thể có thẩm quyền từ điều tra, truy tố, xét xử phải
nâng cao năng lực trình độ, hạn chế được chủ quan, duy ý chí trong đấu tranh
phòng chống tội phạm. Nguyên tắc này góp phần rất quan trọng để Tòa án xét
xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế tình trạng oan sai, bảo đảm
cho nền tư pháp nước ta là một nền tư pháp dân chủ, công bằng và công lý.
Thứ hai, tranh tụng là một trong những bảo đảm pháp lý để người tham gia
tố tụng thực hiện đầy đủ các quyền tố tụng của mình. Trong quá trình tố tụng
cũng như tại phiên tòa, người tham gia tố tụng có các quyền và nghĩa vụ tố tụng
tương ứng. thực hiện tốt việc tranh tụng thực chất là bảo đảm cho người tham
gia tố tụng thực hiện các quyền tố tụng của mình. Chỉ trong quá trình tố tụng có
sự tranh tụng, người tham gia tố tụng mới có các điều kiện pháp lý để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình liên quan đến vụ án. Tính tranh tụng càng
cao thì điều kiện cho người xem xét để ra quyết định đúng đắn, khách quan và
đúng pháp luật, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố
tụng.
Thứ ba, tranh tụng có vai trò giáo dục quan trọng. Nhiệm vụ của hoạt động
tố tụng không chỉ là giải quyết đúng đắn, khách quan vụ án, bảo vệ lợi ích xã
hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, mà còn giáo dục công dân tuân thủ
pháp luật, ngăn ngừa vi phạm pháp luật.
Tranh tụng tại phiên tòa đòi hỏi sự có mặt của những người tham gia tố tụng.
Việc tranh luận trực tiếp, công khai tại phiên tòa không hạn chế về thời gian,
nơi những người tiến hành tố tụng đánh giá các hành vi vi phám pháp luật cần

được áp dụng, giúp cho những người tham gia tố tụng và những người tham dự
phiên tòa nâng cao nhận thức về pháp luật, xác định định hướng giá trị trong


hành vi, giúp cho việc tuân thủ pháp luật được thực hiện có hiệu quả và đúng
đắn hơn. Bằng phiên tòa công khai, dân chủ, những người tham gia tố tụng
được tạo mọi điều kiện để thực hiện quyền tố tụng của mình, được xét hỏi, tranh
luận công khai, quyết định của Tòa án được đưa ra trên cơ sở chứng cứ được
xem xét công khai tại phiên tòa, việc phán quyết của Tòa án tạo ra trong quá
trình xét xử làm cho người tham dự phiên tòa và người tham gia tố tụng có long
tin vào pháp luật. Lòng tin đó là cơ sở để công dân tự giác tuân thủ pháp luật,
tích cực tham gia vào hoạt động phòng ngừa vi phạm pháp luật.

II.

Ý NGHĨA
 Thứ nhất, quy định nguyên tắc tranh tụng trong Hiến pháp đã thể chế

hóa chủ trương của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp.
Từ trước tới nay vấn đề tranh tụng và nâng cao chất lượng tranh tụng được
quan tâm và đề cập tới nhiều. Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương về
vấn đề này, cụ thể: tranh tụng là một trong những nội dung quan trọng, mang
tính đột phá trong cải cách tư pháp hiện nay ở nước ta đã được xác định trong
Nghị quyết 08/NQ/TW của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trong tâm công tác
tư pháp trong thời gian tới : “Việc phán quyết của tòa án phải căn cứ vào kết
quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét toàn diện các chứng cứ, ý kiến
của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn
và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án đúng pháp luật,
có sức thuyết phục và trong thời hạn quy định” và Nghị quyết của Bộ chính trị
số 49/TW ngày 02/06/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020: “đổi

mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách
nhiệm của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng
bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng


tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”. Nghị
quyết 37/NQ-QH13 ngày 23/11/2012 yêu cầu: “Kiểm sát viên phải chủ động,
tích cực tranh luận, đối đáp tại phiên tòa xét xử các vụ án hình sự… Tòa án
nhân dân tối cao chỉ đạo các Tòa án tiếp tục đẩy mạnh việc tranh tụng tại phiên
tòa”.
Mặc dù đã được quy định như vậy nhưng các quy định ở trên còn thiếu tính cụ
thể, nhất là chưa có văn bản pháp lý nào chính thức ghi nhận nguyên tắc bảo
đảm và cơ chế bảo đảm tranh tụng nên thực tiễn hoạt động chưa phát huy hiệu
quả. Do vậy, việc Hiến pháp năm 2013 quy định cụ thể, rõ ràng nguyên tắc bảo
đảm tranh tụng trong xét xử là một bước tiến lớn và rất phù hợp với tinh thần
cải cách tư pháp của Nhà nước ta.
 Thứ hai, quy định nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm

trong Hiến pháp 2013 tạo sự chuyển biến mạnh mẽ cả về nhận thức
lẫn hoạt động thực tiễn trong việc xét xử.
Những quy định pháp luật tố tụng hình sự hiện hành đã và đang phát huy
hiệu lực trên thực tiễn của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Công tác
điều tra, truy tố, xét xử ngày càng hiệu quả, việc tranh luận tại phiên tòa bảo
đảm tính dân chủ, khách quan. Tuy nhiên so với tình hình đặt ra thì hoạt động
tranh tụng chưa đáp ứng yêu cầu. Có phiên tòa chưa thực sự bảo đảm quyền bào
chữa của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, số lượng án hủy, sửa còn
nhiều. Về mặt nhận thức vẫn tồn tại quan niệm“án bỏ túi”, “án tại hồ sơ” dẫn
đến tâm lý xem nhẹ hoạt động tranh tụng tại phiên tòa. Nguyên nhân của tình
hình trên có nhiều, trong đó có nguyên nhân từ những quy định của pháp luật về
tranh tụng và bảo đảm tranh tụng chưa rõ ràng, cụ thể nên hiệu lực chưa cao.

Hiến pháp sửa đổi năm 2013 quy định chính thức về nguyên tắc bảo đảm tranh
tụng như vậy sẽ tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức của cán bộ tư pháp,


của công dân trong quá trình thực hiện các quyền năng khi tham gia tranh tụng.
Đồng thời thực tiễn xét xử sẽ thay đổi, với bước tiến mới trọng tâm là hoạt động
tranh tụng được bảo đảm, phát huy tối đa tính công bằng, dân chủ.
 Thứ ba, việc quy định nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo

đảm trong Hiến pháp 2013 là tiền đề để xây dựng và hoàn thiện các
quy định về bảo đảm tranh tụng trong các văn bản pháp luật tố tụng.
Hiến pháp là đạo luật gốc, văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất. Do vậy, khi
Hiến pháp quy định về nguyên tắc bảo đảm tranh tụng như vậy thì những quy
định trong bộ luật, luật, các văn bản dưới luật chưa rõ ràng, không thống nhất
phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, tạo sự thống nhất trong việc vận dụng pháp
luật, đặc biệt đòi hỏi cần xây dựng quy định cụ thể về phương thức bảo đảm
nguyên tắc tranh tụng trong xét xử.

KẾT LUẬN
Như vậy, tranh tụng có nội dung, vai trò và ý nghĩa rất quan trọng trong quá
trình tố tụng. Lần đầu tiên Hiến pháp ghi nhận nguyên tắc tranh tụng trong xét
xử được bảo đảm, đó là một đổi mới mang tính lịch sử và là cơ sở pháp lý cho
Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính cụ thể
hóa, chi tiết hóa nhằm đảm bảo sự khách quan, công khai, minh bạch trong hoạt
động xét xử của tòa án, giúp tòa án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, khắc
phục hạn chế oan sai đối với các vụ án hình sự hoặc giải quyết đúng đắn đối với
các vụ án khác theo quy định của pháp luật.



Mục lục



×