Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự theo quy định của bộ luật tố tụng dân sự hiện hành (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (872.6 KB, 88 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LÊ THỊ MINH NGUYỆT

ĐỀ TÀI
PHIÊN TÒA PHÚC THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ THEO QUY
ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ HIỆN HÀNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LÊ THỊ MINH NGUYỆT

ĐỀ TÀI
PHIÊN TÒA PHÚC THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ THEO QUY
ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ HIỆN HÀNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số:

60380103

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Triều Dƣơng

Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ
ràng, được trích dẫn đúng quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận
văn này.
Tác giả luận văn

Lê Thị Minh Nguyệt


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin được gửi lời cảm ơn trân trọng tới TS. Nguyễn Triều Dương,
người đã hướng dẫn tận tình và đầy trách nhiệm giúp tôi hoàn thành luận văn
thạc sĩ luật học này.
Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn tới Ban giám hiệu trường Đại học
Luật Hà Nội, Khoa Sau đại học cùng toàn thể các thầy cô, gia đình, bạn bè đã
nhiệt tình tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành nhiệm vụ học tập, nghiên cứu

của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2017

Tác giả luận văn

Lê Thị Minh Nguyệt


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng dân sự

BPKCTT

Biện pháp khẩn cấp tạm thời

HĐXX

Hội đồng xét xử

LTCTAND

Luật tổ chức Tòa án nhân dân


PTPTVADS

Phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự

TA

Tòa án

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

TTDS

Tố tụng dân sự

TTRG

Thủ tục rút gọn

VADS

Vụ án dân sự

VKS


Viện kiểm sát

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHIÊN TÒA PHÚC THẨM
VỤ ÁN DÂN SỰ................................................................................................... 5
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự .......... 5
1.1.1. Khái niệm phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự .................................. 5
1.1.2. Đặc điểm của phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự ............................. 8
1.1.3. Ý nghĩa của phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự .............................. 14
1.2. Cơ sở xây dựng quy định pháp luật về phiên tòa phúc thẩm vụ án
dân sự .......................................................................................................... 16
1.2.1. Cơ sở lý luận ................................................................................... 16
1.2.2. Cơ sở thực tiễn ................................................................................ 18
1.3. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật tố tụng dân
sự Việt Nam về phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự. ........................................ 18
1.3.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 8/1945 ............................. 18
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959 ........................................... 19
1.3.3. Giai đoạn từ 1960 đến năm 1989 ................................................... 20
1.3.4. Giai đoạn từ năm 1989 đến 2005 ................................................... 22
1.3.5. Giai đoạn từ năm 2005 đến 2015 ................................................... 23
1.3.6. Giai đoạn từ năm 2016 đến nay...................................................... 24
1.4. Pháp luật một số nƣớc về phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự................ 25
1.4.1. Pháp luật tố tụng dân sự của Cộng hòa Pháp ................................ 25

1.4.2. Pháp luật tố tụng dân sự Liên Bang Nga ....................................... 26
1.4.3. Pháp luật tố tụng dân sự Hoa Kỳ ................................................... 27
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 30
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT
NAM HIỆN HÀNH VỀ PHIÊN TÒA PHÚC THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ . 31
2.1. Những quy định chung về phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự .............. 31
2.1.1. Phạm vi xét xử tại phiên tòa phúc thẩm dân sự.............................. 31
2.1.2. Hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án dân sự ....................................... 33
2.1.3. Những người tham gia phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự ............ 34


2.1.4. Hoãn phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự ........................................ 37
2.2. Thủ tục tiến hành phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự ............................. 39
2.2.1. Chuẩn bị khai mạc phiên tòa và thủ tục bắt đầu phiên tòa phúc
thẩm........................................................................................................... 40
2.2.2. Tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm ............................................... 41
2.2.3. Nghị án và tuyên án ........................................................................ 48
2.3. Quyền hạn của Hội đồng xét xử phúc thẩm .............................................. 51
2.3.1. Giữ nguyên bản án sơ thẩm ............................................................ 51
2.3.2. Sửa bản án sơ thẩm......................................................................... 52
2.3.3. Hủy bản án sơ thẩm, hủy một phần bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ
vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm 54
2.3.4. Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án .......................... 55
2.3.5. Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời57
2.3.6. Đình chỉ xét xử phúc thẩm .............................................................. 59
2.3.7. Tạm đình chỉ giải quyết vụ án......................................................... 60
Kết luận Chƣơng 2 ........................................................................................ 61
Chƣơng 3. THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VÀ KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHIÊN TÒA PHÚC THẨM VỤ ÁN
DÂN SỰ .......................................................................................................... 62

3.1. Thực tiễn thực hiện pháp luật về phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự .. 62
3.2. Một số kiến nghị về phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự .......................... 70
3.2.1. Kiến nghị về xây dựng pháp luật .................................................... 70
3.2.2. Kiến nghị về thực hiện pháp luật .................................................... 73
Kết luận chƣơng 3 ......................................................................................... 76
KẾT LUẬN .................................................................................................... 78


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nguyên tắc hai cấp xét xử là một trong những nguyên tắc cơ bản của
pháp luật tố tụng dân sự (TTDS), được quy định cụ thể trong pháp luật TTDS.
Việc quy định và thực hiện nguyên tắc này là một tất yếu khách quan phù hợp
với quy luật của nhận thức và thực tiễn xét xử, nhằm đảm bảo cho các vụ án
dân sự được xem xét, giải quyết một cách chính xác, khách quan, giúp Tòa án
đưa ra được những bản án, quyết định đúng đắn nhất. Thực hiện nguyên tắc
hai cấp xét xử, phúc thẩm trong TTDS là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử
lại vụ án dân sự mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu
lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị.
Để phúc thẩm vụ án dân sự thực sự có hiệu quả, đảm bảo quyền và lợi
ích hợp pháp của các bên đương sự thì quy định về phiên tòa phúc thẩm vụ án
dân sự là rất quan trọng. Trên cơ sở đường lối đổi mới của Đảng về xây dựng
nhà nước pháp quyền, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XI nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam đã thông qua Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 (BLTTDS) (có
hiệu lực từ ngày 01/01/2005). BLTTDS 2004 là kết quả của sự pháp điển hóa
quan trọng các quy định pháp luật tố tụng dân sự (TTDS), trong đó có những
quy định về phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự (PTPTVADS). Các quy định
về PTPTVADS trong BLTTDS 2004 đã khắc phục được nhiều điểm bất cập,
chưa hợp lý của các Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự

(PLTTGQCVADS), Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
(PLGQCVAKT), Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động
(PLTTGQCTCLĐ). Đồng thời, thể hiện việc đổi mới hoạt động xét xử của
Tòa án theo tinh thần cải cách tư pháp đã được đề ra trong Nghị quyết số 08NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính Trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của
công tác tư pháp trong thời gian tới... Tuy nhiên, những quy định của


2
BLTTDS 2004 về phúc thẩm qua thực tiễn thi hành vẫn còn nhiều vướng
mắc, bất cập cần được tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ. Do đó, ngày 29 tháng
03 năm 2011 Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
BLTTDS có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2012. Mặc dù vậy, việc sửa
đổi, bổ sung này mới chỉ giải quyết được một phần vướng mắc trong việc áp
dụng các quy định của BLTTDS về phúc thẩm mà vẫn còn có một số quy
định chưa rõ ràng, minh bạch dẫn đến có nhiều cách hiểu và áp dụng không
thống nhất. Đứng trước yêu cầu của thực tiễn về cải cách tư pháp và hội nhập
kinh tế quốc tế, Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 ra đời với nhiều điểm mới tiến
bộ về phúc thẩm trong đó có các quy định về phiên tòa phúc thẩm vụ án dân
sự, đảm bảo hơn nữa nguyên tắc tranh tụng của các bên đương sự nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ, bên cạnh đó BLTTDS năm 2015 còn
quy định về thủ tục rút gọn trong TTDS nhằm giải quyết các vụ án dân sự
nhanh chóng, hiệu quả. Kế thừa BLTTDS 2004 (đã được sửa đổi, bổ sung
2011), BLTTDS năm 2015 dành riêng một chương – Chương XVII quy định
về thủ tục xét xử phúc thẩm. Để tìm hiểu rõ hơn những quy định cũng như
những điểm mới tiến bộ của BLTTDS năm 2015 về phiên tòa phúc thẩm vụ
án dân sự, tác giả chọn “Phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự theo quy định của
BLTTDS hiện hành” làm đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Phúc thẩm trong tố tụng dân sự luôn nhận được sự quan tâm, đóng góp ý
kiến của rất nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu... Xét đến thời điểm hiện tại

đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học pháp lý được công bố đề cập
đến các khía cạnh và ở mức độ khác nhau của phúc thẩm, có thể kể đến như:
Luận án tiến sỹ luật học “Phúc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam” năm
2011 của tác giả Nguyễn Thị Thu Hà; Khóa luận tốt nghiệp “Phiên tòa phúc
thẩm vụ án dân sự” năm 2012 của tác giả Hoàng Tuấn Anh; Khóa luận tốt


3
nghiệp “Phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự - Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn” năm 2010 của tác giả Vũ Thị Oanh; Th.s Nguyễn Thị Thu Hà (2010):
“Đình chỉ xét xử phúc thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở tòa án cấp
phúc thẩm”, Tạp chí Luật học 07/2010...
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận về phiên tòa
phúc thẩm vụ án dân sự, nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam qua
các thời kỳ cũng như quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam và pháp luật
của một số nước trên thế giới về phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự; thực tiễn
thi hành các quy định của pháp luật TTDS về phiên tòa phúc thẩm vụ án dân
sự tại các Tòa án Việt Nam trong những năm gần đây.
Phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự là một vấn đề phức tạp và có nhiều nội
dung khác nhau. Tuy nhiên, trong khuôn khổ một luận văn thạc sỹ luật học
tác giả chỉ tập trung nghiên cứu để làm rõ những nội dung về lý luận, các quy
định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về phiên tòa phúc thẩm
vụ án dân sự và thực tiễn thực hiện các quy định đó tại các Tòa án Việt Nam
hiện nay để từ đó đề xuất các kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
4. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài.
Việc nghiên cứu đề tài với mục đích làm rõ những vấn đề lý luận về
phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự; nội dung những quy định của pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam hiện hành về phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự và thực
tiễn thi hành tại Tòa án đồng thời tìm ra những điểm bất cập, hạn chế trong

quá trình thi hành để đưa ra một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện nhằm nâng
cao hiệu quả giải quyết vụ án dân sự.
Để thực hiện được mục đích trên, việc nghiên cứu đề tài có nhiệm vụ
làm rõ khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự,
nghiên cứu sự phát triển của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam qua các thời


4
kỳ; phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam
hiện hành về phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự, tìm hiểu thực tiễn thi hành và
tìm ra các hạn chế, bất cập, nguyên nhân để đưa ra những kiến nghị hoàn
thiện pháp luật
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác – Lenin về nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng Cộng Sản
Việt Nam về cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
XHCN. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu đề tài luận văn còn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu khoa học như phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, lịch
sử, suy luận logic...
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia làm ba phần:
phần mở đầu, nội dung và kết luận.
Phần nội dung của luận văn bao gồm ba chương:
Chương1: Một số vấn đề lý luận về phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự
Chương 2: Thực trạng pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về
phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự
Chương 3: Thực tiễn thực hiện pháp luật và kiến nghị hoàn thiện pháp
luật về phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự



5
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHIÊN TÒA PHÚC THẨM
VỤ ÁN DÂN SỰ

1.1.

Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự

1.1.1. Khái niệm phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự
Để làm rõ khái niệm phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự (PTPTVADS) thì
trước hết cần phải làm rõ các khái niệm phúc thẩm và phiên tòa phúc thẩm.
Phúc thẩm là một thủ tục có tính truyền thống lâu đời của TTDS, nó
được áp dụng ngay từ thời La Mã cổ đại. “Theo trình tự tố tụng đặc biệt
(cognitio extraordinaria), các quyết định do các quan tòa cấp dưới đưa ra
không phải lúc nào cũng có hiệu lực, do vậy nếu các bên không thỏa mãn thì
được quyền kháng cáo lên TA cấp trên”1. Cùng với thời gian, thủ tục phúc
thẩm tiếp tục được kế thừa, phát triển và từng bước được khẳng định. Thủ tục
phúc thẩm được áp dụng tương đối phổ biến với nội dung và mức độ khác
nhau trong khoa học luật TTDS ở các nước thuộc hệ thống pháp luật dân sự
cũng như hệ thống pháp luật án lệ.
Ở Việt Nam, về khái niệm phúc thẩm, dưới góc độ ngôn ngữ học, theo
Hán – Việt từ điển thì phúc thẩm không có trong từ điển mà phải ghép nghĩa
của hai từ: “phúc” có nghĩa là “lật lại, úp lại, xét kỹ”2; “thẩm” có nghĩa là
“xử đoán”. Còn trong Từ điển Tiếng Việt thì phúc thẩm là “Tòa án cấp trên
xét xử lại một vụ án do cấp dưới đã xét xử sơ thẩm mà có chống án”3. Theo
cách giải thích này thì phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án mà
bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án cấp dưới chưa có hiệu lực pháp luật
khi có sự chống án.


1

Nguyễn Ngọc Đào (2000), Luật La Mã, Nxb tổng hợp Đồng Nai, Đồng Nai, tr. 254 - 258
Đào Duy Anh (1957), Hán Việt từ điển, Nxb Trường Thi, Sài gòn, tr. 136
3
Viện ngôn ngữ học (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Hà Nội – Đà Nẵng, tr. 790
2


6
Theo từ điển Thuật ngữ Luật học của Trường đại học Luật Hà Nội thì
“phúc thẩm là xét xử lại vụ án mà bản án quyết định dân sự sơ thẩm chưa có
hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị”4
Theo Điều 270 BLTTDS 2015: “phúc thẩm dân sự là việc Tòa án cấp
phúc thẩm trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ
thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị”.
Trong lĩnh vực khoa học pháp lý, khái niệm phúc thẩm trong TTDS
được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau. Đó là, phúc thẩm là một giai
đoạn của quá trình TTDS, phúc thẩm là một thủ tục tố tụng và phúc thẩm là
một cấp xét xử.
Dưới góc độ là giai đoạn phúc thẩm, phúc thẩm được hiểu là giai đoạn
của quá trình TTDS, trong đó TA cấp phúc thẩm xét xử lại VADS mà bản án,
quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo
quy định của pháp luật nhằm mục đích kiểm tra tính hợp pháp, tính có căn cứ
của các bản án, quyết định sơ thẩm, khắc phục kịp thời sai lầm của TA cấp sơ
thẩm, đảm bảo việc xét xử đúng đắn, thống nhất, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng và lợi ích Nhà nước.
Dưới góc độ là thủ tục xét xử phúc thẩm, thủ tục phúc thẩm trong TTDS
là cách thức tiến hành các hoạt động TTDS để TA cấp phúc thẩm xét xử lại
VADS mà một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của TA cấp sơ thẩm

chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp
luật nhằm khắc phục kịp thời sai lầm của TA cấp dưới, đảm bảo xét xử đúng
đắn, thống nhất, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ
chức, lợi ích công cộng và lợi ích Nhà nước.
Dưới góc độ là cấp xét xử, phúc thẩm là cấp xét xử thứ hai, theo đó TA
có thẩm quyền xét xử lại VADS mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu
4

Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa, Nxb Tư pháp, Hà
Nội


7
lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm
khắc phục kịp thời sai lầm của TA cấp sơ thẩm, đảm bảo việc xét xử đúng
đắn, thống nhất, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ
chức, lợi ích công cộng và lợi ích Nhà nước.5
Như vậy, phúc thẩm dân sự là việc tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ
việc dân sự đã được tòa án cấp sơ thẩm giải quyết bằng bản án, quyết định
chưa có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng cáo, kháng nghị nhằm xác định
tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định đó theo những nguyên
tắc và thủ tục nhất định. Sau khi bản án, quyết định sơ thẩm được tuyên thì
bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực ngay mà còn một thời gian để
các đương sự có thể kháng cáo, Viện kiểm sát có thể kháng nghị. Nếu có
kháng cáo hoặc kháng nghị đối với bản án, quyết định sơ thẩm thì Tòa án cấp
phúc thẩm trực tiếp tiến hành xét xử lại vụ án. Thủ tục xét xử lại vụ án được
gọi là thủ tục phúc thẩm dân sự. Thủ tục phúc thẩm được bắt đầu khi có căn
cứ là kháng cáo của đương sự, kháng nghị của Viện kiểm sát về bản án, quyết
định sơ thẩm trong thời hạn luật định. Về bản chất, phúc thẩm không phải là
lần xét xử đầu tiên đối với một vụ án mà là lần xét xử thứ hai. Thủ tục phúc

thẩm được tiến hành sau thủ tục sơ thẩm, mục đích của phúc thẩm dân sự là
kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm chưa
có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo kháng nghị. Thông qua đó, đảm bảo các
quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước và công dân, đảm bảo cho bản án,
quyết định đưa ra thi hành là những bản án, quyết định đúng pháp luật và có
căn cứ, căn cứ tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm là kháng cáo,
kháng nghị hợp pháp.
Còn khái niệm “phiên tòa”? Về mặt thuật ngữ, theo từ điển tiếng Việt
thì phiên tòa là “lần họp để xét xử của Tòa án”6. Dưới góc độ pháp lý “phiên
5

Nguyễn Thị Thu Hà (2011), Phúc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Luật học, Đại học
Luật Hà Nội, Hà Nội, tr. 17 - 26
6
Trung tâm từ điển học (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr. 779


8
tòa” đã được giải thích trong Từ điển Luật học, “phiên tòa” được hiểu “là
hình thức hoạt động xét xử của Tòa án”7. Do đó, có thể định nghĩa “phiên tòa
là phiên họp của Tòa án để tiến hành hoạt động xét xử của Tòa án”.
Như vậy, có thể thấy rằng “PTPTVADS là phiên họp của Tòa án cấp
phúc thẩm trực tiếp xét xử lại vụ án dân sự (VADS) đã được Tòa án cấp sơ
thẩm giải quyết bằng bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật
nhưng bị kháng cáo, kháng nghị với sự tham gia của những người tham gia tố
tụng nhằm xác định tính hợp pháp và có căn cứ của bản án, quyết định đó
theo những nguyên tắc và thủ tục nhất định”.
1.1.2. Đặc điểm của phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự
PTPTVADS có những đặc điểm riêng để phân biệt với phiên tòa sơ
thẩm, phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự, đồng thời có những đặc điểm

đặc thù khác biệt với phúc thẩm trong tố tụng hình sự và phúc thẩm trong tố
tụng hành chính, thể hiện ở các đặc điểm cụ thể như sau:
Thứ nhất, cơ sở tiến hành PTPTVADS là dựa trên kháng cáo kháng nghị
đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật.
Theo quy định của pháp luật TTDS, khi có kháng cáo, kháng nghị đối
với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật và kháng cáo,
kháng nghị tuân thủ đầy đủ các điều kiện luật định thì VADS được đưa ra xét
xử theo thủ tục phúc thẩm. Như vậy, cơ sở để tiến hành PTPTVADS là dựa
trên kháng cáo, kháng nghị hợp lệ đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có
hiệu lực pháp luật.
Đặc điểm này cho thấy sự khác biệt giữa cơ sở tiến hành PTPTVADS
với phiên tòa sơ thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án dân sự. Cơ sở tiến hành
phiên tòa sơ thẩm xuất phát từ việc khởi kiện của đương sự; cơ sở của xét xử
giám đốc thẩm, tái thẩm là kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
7

Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa, Nxb Tư pháp, Hà
Nội, tr. 620


9
luật của những người có thẩm quyền. Còn đối với việc tiến hành xét xử phúc
thẩm được dựa trên cơ sơ là những kháng cáo của đương sự, kháng nghị của
Viện kiểm sát cùng cấp hoặc cấp trên cấp Tòa án đã tiến hành xét xử sơ thẩm
đối với bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật.
Thứ hai, PTPTVADS là phiên họp của Tòa án để xét xử lại một VADS
mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc
kháng nghị.
Đây là đặc điểm rất quan trọng để phân biệt phiên tòa phúc thẩm với
phiên tòa sơ thẩm, phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án dân sự. Nếu như

phiên tòa sơ thẩm là lần xét xử thứ nhất VADS, có nghĩa “sự việc chưa được
giải quyết bằng một bản án hay quyết định của Tòa án hoặc quyết định của
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật, trừ trường hợp có
quy định khác của pháp luật”8; phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm không phải
là phiên tòa xét xử lần thứ ba mà là phiên họp xét xử lại bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật của Tòa án bị người có thẩm quyền kháng nghị vì có
những vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong quá trình giải quyết vụ án hoặc
phát hiện có những tình tiết mới, còn PTPTVADS là phiên họp xét xử lại
VADS mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng
cáo hoặc kháng nghị. Nếu VADS mà đã được giải quyết trong một bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì không thể được xem xét theo thủ tục
phúc thẩm và đương nhiên không có PTPTVADS.
Thứ ba, PTPTVADS được tiến hành công khai với sự có mặt của những
người tham gia tố tụng có liên quan đến giải quyết kháng cáo, kháng nghị.
Phúc thẩm là thủ tục tố tụng nhằm mục đích để cho đương sự, người đại
diện của đương sự thực hiện quyền kháng cáo, VKS thực hiện quyền kháng
nghị đối với những bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật và yêu cầu
8

Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội,
tr.244


10
Tòa án cấp phúc thẩm trực tiếp xét xử lại vụ án dù bản án, quyết định sơ thẩm
được coi là đúng pháp luật và có căn cứ. Nếu có kháng cáo, kháng nghị hợp
pháp thì Tòa án cấp phúc thẩm phải tiến hành thủ tục phúc thẩm để kiểm tra
lại tính có căn cứ và tính hợp pháp của bản án, quyết định sơ thẩm.
PTPTVADS là phiên họp cần thiết để đảm bảo công bằng, dân chủ, bảo đảm
kịp thời các quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Do đó, PTPTVADS

phải được tiến hành công khai với sự góp mặt của những người liên quan đến
kháng cáo, kháng nghị như: Người tham gia tố tụng bao gồm các đương sự,
người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch và sự tham
gia của đại diện VKS. Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm triệu tập người kháng cáo
và những người tham gia tố tụng khác có liên quan đến việc giải quyết kháng
cáo, kháng nghị. Nếu vắng mặt những người đã được triệu tập thì tùy từng
trường hợp, Tòa án cấp phúc thẩm sẽ ra quyết định hoãn, đình chỉ hoặc tiếp
tục xét xử vắng mặt. Đặc điểm này của PTPTVADS cho thấy sự khác biệt của
PTPTVADS với phiên tòa sơ thẩm VADS và phiên tòa giám đốc thẩm, tái
thẩm (thực chất là phiên họp giám đốc thẩm, phiên họp tái thẩm). Phiên tòa sơ
thẩm VADS phải có sự có mặt của tất cả những người tham gia tố tụng; giám
đốc thẩm, tái thẩm là thủ tục tố tụng đặc biệt nên đương sự và những người
tham gia tố tụng khác chỉ được triệu tập khi cần thiết, nếu họ vắng mặt thì
phiên tòa vẫn được tiến hành bình thường.
Thứ tư, thẩm quyền xét xử phúc thẩm VADS do Tòa án cấp phúc thẩm
trực tiếp của Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử sơ thẩm VADS tiến hành.
Pháp luật của một số nước như Cộng hòa Pháp, Liên Bang Nga cũng quy
định về phiên tòa phúc thẩm, theo đó: Điều 538 Bộ luật Tố tụng dân sự mới
của Cộng hòa Pháp quy định: “Các bên đương sự có quyền kháng cáo bản án
chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu tòa án cấp


11
phúc thẩm xem xét lại theo thủ tục phúc thẩm”9; Điều 366 Bộ luật tố tụng
dân sự Liên Bang Nga quy định: “Các đương sự, những người tham gia tố
tụng khác có quyền kháng cáo, VKS tham gia tố tụng có quyền kháng nghị
bản án chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm trừ bản án sơ
thẩm của thẩm phán hòa giải để yêu cầu tòa án cấp trên xem xét lại theo thủ
tục phúc thẩm”10 thì thẩm quyền xét xử phúc thẩm đều do tòa án cấp trên của

tòa án đã xét xử sơ thẩm tiến hành.
Ở nước ta hiện nay, theo quy định của Hiến pháp 2013, Luật tổ chức tòa
án nhân dân (LTCTAND) 2014 thì hiện nay có bốn cấp Tòa án gồm: Tòa án
cấp huyện, Tòa án cấp tỉnh, Tòa án cấp cao, Tòa án nhân dân tối cao
(TANDTC). Nếu Tòa án cấp huyện thực hiện xét xử sơ thẩm VADS thì Tòa
án cấp tỉnh (cụ thể là Tòa dân sự, Tòa hôn nhân gia đình và vị thành niên, Tòa
kinh tế, Tòa lao động) sẽ thực hiện xét xử phúc thẩm vụ án đó và nếu Tòa án
cấp tỉnh thực hiện xét xử sơ thẩm thì Tòa án cấp cao sẽ thực hiện phúc thẩm
vụ án đó, còn Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm bản án,
quyết định của các Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự. Như vậy, Tòa án thực hiện xét xử phúc thẩm
là Tòa án cấp tỉnh và Tòa án cấp cao.
Thứ năm, mục đích của PTPTVADS là kiểm tra tính hợp pháp và tính có
căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm trên cơ sở đánh giá chứng cứ đã thu
thập được ở cấp sơ thẩm và xem xét những chứng cứ mới thu thập được trong
quá trình phúc thẩm để xác định tính có căn cứ và tính hợp pháp của bản án,
quyết định sơ thẩm. Đây là đặc điểm khác biệt của PTPTVADS với phiên tòa
sơ thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Nội dung của phiên tòa sơ thẩm là giải
quyết yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn và yêu
9

Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội,
tr.476
10
Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội,
tr.483


12
cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và ra bản án, quyết

định sơ thẩm hợp pháp và có căn cứ; nội dung của việc xét xử tại phiên tòa
giám đốc thẩm, tái thẩm là xét lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị.
Thứ sáu, xét xử phúc thẩm dựa trên kháng cáo, kháng nghị nên phạm vi
xét xử của phiên tòa phúc thẩm là bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo,
kháng nghị hoặc những phần bản án, quyết định sơ thẩm có liên quan đến
kháng cáo, kháng nghị.
Khác với phiên tòa sơ thẩm có phạm vi xét xử rất rộng dựa trên yêu cầu
của đương sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; giám đốc thẩm, tái
thẩm có thể xem xét phần nội dung vụ án có kháng nghị và có quyền xem xét
phần nội dung vụ án không bị kháng nghị do phần quyết định đó xâm phạm
đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích của người thứ ba không phải là đương sự
trong vụ án, còn phạm vi xét xử của PTPTVADS chỉ trong phạm vi kháng
cáo, kháng nghị mà không xét xử đối với yêu cầu mới, có nghĩa rằng chủ thể
chỉ được kháng cáo, kháng nghị về những nội dung đã được giải quyết trong
bản án, quyết định sơ thẩm hoặc những phần của bản án, quyết định sơ thẩm
không bị kháng cáo, kháng nghị nhưng có liên quan đến kháng cáo, kháng
nghị chứ không được kháng cáo, kháng nghị về những vấn đề chưa được giải
quyết ở sơ thẩm. Bởi vì, nếu cho phép TA cấp phúc thẩm xét xử cả những yêu
cầu mới chưa được giải quyết ở TA cấp sơ thẩm thì có nghĩa là đã vi phạm
đến nguyên tắc hai cấp xét xử, không tôn trọng quyền được kháng cáo, kháng
nghị phúc thẩm.
Thứ bảy, bản án, quyết định là kết quả của phiên tòa phúc thẩm được
tuyên sẽ có hiệu lực pháp luật ngay.
Khác với bản án, quyết định sơ thẩm được HĐXX tuyên nhưng chỉ phát
sinh hiệu lực sau một khoảng thời gian nhất định (Theo BLTTDS 2015 thì hết


13
thời hạn quy định tại Điều 273 và Điều 280 nếu không có kháng cáo, kháng

nghị), bản án, quyết định phúc thẩm được tuyên sẽ có hiệu lực pháp luật ngay.
hực chất cấp Tòa án xét xử sơ thẩm chỉ là cấp xét xử thứ nhất nên việc bản án,
quyết định sơ thẩm có hiệu lực ngay sẽ ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của đương
sự nhất là trong trường hợp vụ án được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét không chính
xác, đánh giá phiến diện hay có sự tiêu cực trong quá trình giải quyết. Quá trình
phúc thẩm lại vụ án là lần xét xử lại vụ án đã sơ thẩm nếu đương sự hoặc VKS
có yêu cầu, việc phúc thẩm sẽ đảm bảo vụ án được xem xét kĩ càng hơn, chuyên
nghiệp hơn (với việc các Tòa chuyên trách thụ lý nên sẽ tránh được những hạn
chế, sai sót và bản án, quyết định phúc thẩm với tư cách là kết quả của quá trình
tiến hành PTPTVADS sẽ mang tính chung thẩm và sẽ có hiệu lực pháp luật ngay
sau khi HĐXX tuyên án. Sau khi bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực và vụ
án dân sự được giải quyết và chuyển sang giai đoạn thi hành án dân sự, nếu phát
hiện vụ án được giải quyết sai quy định pháp luật thì vụ án sẽ được xem xét lại
thông qua việc xem xét các bản án, quyết định đã được tuyên và nếu phát hiện có
sự vi phạm thì vụ án dân sự sẽ được xem xét theo những thủ tục đặc biệt là thủ
tục giám đốc thẩm và tái thẩm.
PTPTVADS có những điểm khác biệt so với phiên tòa phúc thẩm vụ án
hành chính và vụ án hình sự.
Việc xét xử của Tòa án là một trong những biện pháp mà Nhà nước thực
hiện để bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể trong xã hội. Tại PTPTVADS,
phạm vi và diễn biến của PTPTVADS phụ thuộc và quyền tự quyết định và tự
định đoạt của đương sự theo phương châm “việc dân sự cốt ở hai bên”, các
bên đương sự có quyền bình đẳng trong việc cung cấp chứng cứ và chứng minh
yêu cầu. Do đó, tại TA cấp phúc thẩm, nếu các đương sự thỏa thuận được với
nhau và việc thỏa thuận của các đương sự là tự nguyện, không vi phạm điều
cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội thì TA sẽ công nhận. Còn tại phiên


14
tòa phúc thẩm vụ án hình sự, hai bên buộc tội và gỡ tội không thể thỏa thuận

với nhau về việc họ phạm tội gì, mức hình phạt là như thế nào mà tất cả những
vấn đề này đều được các cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ quy định của pháp
luật để giải quyết. Việc giải quyết vụ án hình sự là việc giải quyết mối quan hệ
giữa Nhà nước và người thực hiện tội phạm, và bên bị buộc tội (bị can, bị cáo)
có quyền nhưng không có nghĩa vụ chứng minh sự vô tội của mình, trách
nhiệm chứng minh tội phạm trong tố tụng hình sự thuộc về phía các cơ quan
công quyền tiến hành tố tụng đại diện cho quyền lực Nhà nước.
So với phiên tòa phúc thẩm vụ án hành chính, về cơ bản, PTPTVADS có
những điểm giống với phiên tòa phúc thẩm vụ án hành chính. Tuy nhiên, do
bản chất của phiên tòa phúc thẩm vụ án hành chính là giải quyết tranh chấp
giữa cá nhân, cơ quan, tổ chức, với các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước
về các quyết định hành chính và hành vi hành chính của các cơ quan này nên
giữa các đương sự trong quan hệ pháp luật hành chính luôn tồn tại mối quan hệ
bất bình đẳng. Do đó, các đương sự tại phiên tòa phúc thẩm vụ án hành chính
cũng không có quyền thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án hành chính.
1.1.3. Ý nghĩa của phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự
Về mặt pháp lý: Việc tiến hành phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự có ý
nghĩa quan trọng trong việc kiểm tra, đánh giá được chất lượng hoạt động xét
xử của TA cấp sơ thẩm. Bằng các quyền hạn của mình, TA cấp phúc thẩm có
thể phát hiện và khắc phục kịp thời những sai lầm, vi phạm pháp luật có thể
có trong các bản án, quyết định của TA cấp sơ thẩm. Qua đó có thể chỉ đạo
một cách kịp thời và thống nhất việc áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử
của các tòa án ở địa phương, mặt khác có thể rút kinh nghiệm, hướng dẫn
công tác xét xử, bảo đảm việc áp dụng pháp luật thống nhất trong hoạt động
xét xử tại tòa án; đồng thời ngăn chặn việc đưa ra thi hành những bản án,
quyết định có sai lầm, vi phạm pháp luật; đảm bảo cho quyền và lợi ích hợp


15
pháp của cá nhân cũng như lợi ích công cộng được thực hiện trong thực tế,

góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Mặt khác, trong quá trình TA cấp phúc thẩm áp dụng pháp luật để xét xử
lại vụ án thì TA cấp phúc thẩm có điều kiện để phát hiện các thiếu sót, bất cập
của pháp luật hiện hành, qua đó đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy định
của pháp luật như sửa đổi, hủy bỏ các điều luật, bổ sung các điều luật mới
hoặc ban hành các văn bản pháp luật mới thay thế.
Về mặt xã hội: PTPTVADS nhằm khắc phục những sai sót của Tòa án
cấp sơ thẩm trong việc giải quyết vụ án làm cho các quyền, lợi ích chính đáng
của đương sự được bảo đảm một cách đúng đắn, đầy đủ. Việc xét xử tốt tại
PTPTVADS sẽ góp phần bảo vệ tốt quyền lợi hợp pháp của người dân, đảm
bảo công bằng và ổn định xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân vào hoạt
động xét xử của Tòa án, nâng cao uy tín của cơ quan tư pháp nói chung và
Tòa án nói riêng đồng thời đảm bảo cho một nền công lí trong sạch, trung
thực và công bằng. Tại PTPTVADS, các yêu cầu kháng cáo, kháng nghị được
TA giải quyết, các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án, các chứng cứ bổ sung,
bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị được đưa ra xem xét,
phân tích, đánh giá. Trong quá trình giải quyết này, TA cấp phúc thẩm phổ
biến, giải thích cho đương sự biết các quy định của pháp luật TTDS về phúc
thẩm đặc biệt là quyền và nghĩa vụ của họ, giúp những người tham dự phiên
tòa, người tham gia tố tụng hiểu biết thêm về pháp luật, nhận thức đầy đủ hơn
về đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, nâng cao ý
thức pháp luật cho nhân dân, củng cố niềm tin của nhân dân vào đường lối
lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
Về mặt chính trị: Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là một
nội dung cơ bản và quan trọng của Nhà nước pháp quyền. Việc tiến hành
PTPTVADS dựa trên kháng cáo, kháng nghị đối với các bản án, quyết định sơ


16
thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, do đó trong mối quan hệ giữa Nhà nước và

công dân thì TA cấp phúc thẩm có trách nhiệm giải quyết lại VADS theo thủ
tục phúc thẩm để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân khi việc
kháng cáo, kháng nghị đáp ứng đầy đủ các điều kiện mà pháp luật quy định.
TA cấp phúc thẩm tạo điều kiện cho đương sự được bình đẳng trong việc thực
hiện các quyền và nghĩa vụ TTDS, thực hiện các biện pháp do pháp luật quy
định để đảm bảo cho mọi người tôn trọng các quyền tố tụng của đương sự.
Với việc xét xử lại vụ án, phiên tòa phúc thẩm góp phần khắc phục thiếu sót
của bản án, quyết định sơ thẩm hoặc khẳng định lại một lần nữa tính đúng đắn
của bản án, quyết định sơ thẩm trên cơ sở những quy định của pháp luật. Đảm
bảo xét xử đúng pháp luật không những giúp bản thân đương sự nhận thức
được những việc mà họ đã thực hiện là phù hợp với quy định pháp luật hay
không mà còn đảm bảo bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, thể hiện sự quan
tâm của Nhà nước đến quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể, khẳng định
bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân, góp phần nâng cao địa vị chính trị của Nhà nước ta.
1.2.

Cơ sở xây dựng quy định pháp luật về phiên tòa phúc thẩm vụ án

dân sự
1.2.1. Cơ sở lý luận
Hiện nay, xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước, hệ thống pháp luật
để góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân là một trong
những nhiệm vụ quan trọng mà Đảng và Nhà nước ta đang thực hiện. Khoản
6 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định, cụ thể hóa chiến lược của
Nghị quyết số 48/NQ-TW về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam định hướng đến năm 2020: “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được
bảo đảm”11. Trên cơ sở đó, Điều 17 BLTTDS năm 2015 quy định về bảo đảm
11


Hiến pháp năm 2013


17
chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm như sau: “1.Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc
thẩm được bảo đảm. Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng
cáo, kháng nghị theo quy định của Bộ luật này. Bản án, quyết định sơ thẩm
của Tòa án không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong thời
hạn do Bộ luật này quy định thì có hiệu lực pháp luật. Bản án, quyết định sơ
thẩm của Tòa án bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc
thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật”. Có thể thấy rằng,
khi một vụ án dân sự được đưa ra xét xử tại phiên tòa sơ thẩm, nếu HĐXX sơ
thẩm xét xử sai thì khi đó quyền và lợi ích của các đương sự và những người
tham gia tố tụng khác sẽ ra sao? Khi đó họ phải làm thế nào để bảo vệ được
quyền và lợi ích chính đáng của mình? Để trả lời cho câu hỏi đó, căn cứ theo
quy định về nguyên tắc hai cấp xét xử trong BLTTDS năm 2015, khi bản án,
quyết định dân sự sơ thẩm chưa có hiệu lực bị kháng cáo, kháng nghị sẽ là cơ
sở để tiến hành thủ tục phúc thẩm, và Tòa án cấp phúc thẩm sẽ mở phiên tòa
phúc thẩm vụ án dân sự để tiến hành xét xử trong phạm vi kháng cáo, kháng
nghị. Phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự được tiến hành vừa bảo đảm cho Tòa
án xét xử đúng vụ án dân sự, vừa bảo đảm cho đương sự bảo vệ được quyền,
lợi ích hợp pháp của mình.
Việc quy định phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự là một đảm bảo pháp lý
cần thiết cho việc xét xử của Tòa án được chính xác và đúng đắn. Bởi lẽ, tại
phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự, những vấn đề thuộc về nội dung vụ án sẽ
một lần nữa được xem xét, phân tích và đánh giá kỹ càng, đầy đủ hơn. Trên
cơ sở đó, các phán quyết của Tòa án đưa ra sẽ bảo đảm độ chính xác cao hơn.
Việc quy định về phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự tạo cơ sở pháp lý quan
trọng để các chủ thể có quyền và lợi ích liên quan thể hiện thái độ không đồng
tình với việc xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm tại phiên tòa sơ thẩm bằng việc

kháng cáo, kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án theo quy định
của pháp luật tố tụng dân sự để vụ án được xét xử lại tại cấp phúc thẩm.


18
1.2.2. Cơ sở thực tiễn
Trong điều kiện kinh tế - xã hội phát triển và hội nhập quốc tế đã khiến
xã hội Việt Nam có những thay đổi nhất định, một trong số đó là sự gia tăng
các tranh chấp dân sự dẫn đến yêu cầu giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án có
xu hướng tăng và phức tạp. Do đó, việc xét xử các vụ án dân sự tại phiên tòa
sơ thẩm không thể tránh khỏi những sai sót. Khi đó, nếu vụ án dân sự không
được tiến hành xét xử lại tại phiên tòa phúc thẩm thì quyền lợi của các đương
sự sẽ không được đảm bảo.
Việc quy định một vụ án dân sự có thể được xét xử tại phiên tòa phúc
thẩm cũng như quy định về việc bản án sơ thẩm có thể bị sửa, bị hủy, quyết
định ở cấp phúc thẩm sẽ kịp thời sửa chữa những sai lầm hoặc các vi phạm
pháp luật mà cấp sơ thẩm đã mắc phải, góp phần nâng cao trách nhiệm của
Hội đồng xét xử sơ thẩm, giúp họ có thái độ thận trọng và trách nhiệm hơn
trước khi đưa ra những phán quyết của mình. Tại phiên tòa phúc thẩm vụ án
dân sự, thông qua Hội đồng xét xử phúc thẩm, Tòa án phúc thẩm kịp thời chỉ
ra những sai lầm, thiếu sót mà Tòa án cấp sơ thẩm đã mắc phải, tự mình sửa
chữa hoặc đề nghị Tòa án sơ thẩm sửa chữa sai lầm của mình. Thông qua việc
xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp trên có điều kiện để tổng kết, đúc rút kinh
nghiệm và hướng dẫn kịp thời Tòa án cấp dưới thực hiện thống nhất pháp luật
nhằm nâng cao chất lượng xét xử, bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp cho
các đương sự.
1.3.

Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật tố tụng


dân sự Việt Nam về phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự.
1.3.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 8/1945
Trước Cách mạng tháng Tám 8/1945, xã hội Việt Nam là một xã hội
thuộc địa nửa phong kiến dưới ách thống trị của thực dân Pháp, chế độ hai


×