Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Thực hành quyền công tố đối với các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố hà nội (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.46 MB, 103 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ ĐOAN TRANG

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI CÁC VỤ ÁN VỀ
TỘI CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI KHÁC TRÊN
ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ ĐOAN TRANG

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI CÁC VỤ ÁN VỀ
TỘI CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI KHÁC TRÊN
ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số
: 60380104

Người hướng dẫn khoa học: TS. VŨ GIA LÂM

HÀ NỘI - NĂM 2017


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BLHS

:

Bộ luật Hình sự

BLTTHS

:

Bộ luật Tố tụng hình sự

VKSND

:

Viện kiểm sát nhân dân


VKSNDTC

:

Viện kiểm sát nhân dân Tối Cao

CQĐT

:

Cơ quan điều tra

KSV

:

Kiểm sát viên

ĐTV

:

Điều tra viên

TTHS

:

Tố tụng hình sự


HĐXX

:

Hội đồng xét xử

Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT- VKSTC- BCA - BQP :
Thông tư liên tịch của Viện kiểm sát nhân dân Tối cao, Bộ Công an và Bộ
quốc phòng ngày 07/09/2005 về quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và
Viện kiểm sát trong thực hiện một số quy định của BLTTHS năm 2003.
Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT - VKSTC- BCA - TANDTC : Thông tư
liên tịch của Viện kiểm sát nhân dân Tối cao, Bộ Công an và Tòa án nhân
dân Tối cao ngày 27/8/2010 hướng dẫn thi hành các quy định của BLTTHS
về trả hồ sơ để điều tra bổ sung.


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng số 1: Số lượng vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe người khác khởi tố từ năm 2012 - 2016
Bảng số 2: Số lượng vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hà Nội bị tạm đình
chỉ, đình chỉ điều tra trong giai đoạn điều tra từ năm 2012 - 2016
Bảng số 3: Số lượng vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hà Nội khi kết thúc
điều tra được Viện kiểm sát truy tố từ năm 2012- 2016
Bảng số 4: Số lượng các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hà Nội mà VKS
truy tố bị tạm đình chỉ, đình chỉ trong giai đoạn xét xử từ năm 2012 - 2016



MỤC LỤC
NỘI DUNG
MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1 : MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI CÁC VỤ ÁN VỀ TỘI CỐ Ý
GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC
KHỎE CỦA NGƢỜI KHÁC
1.1. Khái niệm chung
1.2. Phạm vi và nội dung thực hành quyền công tố
1.3. Đặc điểm thực hành quyền công tố đối với các vụ án về tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
1.4. Mối quan hệ giữa chức năng thực hành quyền công tố với chức
năng kiểm sát hoạt động tư pháp
CHƢƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HIỆN HÀNH VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hiện hành về thực hành quyền
công tố trong giai đoạn khởi tố vụ án
2.2. Quy định của Bộ luật tố tụng hiện hành về thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra vụ án
2.3. Quy định của Bộ luật tố tụng hiện hành về thực hành quyền
công tố trong giai đoạn truy tố
2.4. Quy định của Bộ luật tố tụng hiện hành về thực hành quyền
công tố trong giai đoạn xét xử
CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM
BẢO THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI CÁC VỤ ÁN
VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Thực tiễn thực hành quyền công tố đối với các vụ án về tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên

địa bàn Thành phố Hà Nội.
3.2. Những hạn chế, bất cập về lập pháp của BLTTHS hiện hành về
thực hành quyền công tố đã được BLTTHS năm 2015 khắc phục
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố nói chung
và đối với các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trên địa bàn Thành phố Hà Nội nói riêng
KẾT LUẬN CHUNG
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

TRANG
1

6
14
16
17

22
27
32
38

47

69
75

84



1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Cải cách tư pháp là yêu cầu mang tính cấp thiết của Đảng, nhà nước ta
hiện nay với mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Các Nghị quyết, Chỉ thị của
Đảng về cải cách tư pháp đã xác định: “VKS phải chịu trách nhiệm chính về
những oan, sai trong việc khởi tố, bắt, tạm giữ, tạm giam, điều tra, truy tố;
phải đảm bảo việc truy tố có căn cứ, đúng pháp luật, cùng với CQĐT khắc
phục những vi phạm, tồn tại trong quá trình điều tra, bảo đảm không để lọt
tội phạm, người phạm tội và không làm oan người vô tội”.
Hiến pháp Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi nhận chức năng
của VKSND trong giai đoạn hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp. “Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi
tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm
và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những sai
phạm của những người tiến hành tố tụng khi thi hành nhiệm vụ”.1
Với mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ,
nghiêm minh, Nghị quyết của Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa X đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế của cơ quan tư pháp, trong đó có
VKSND: “…đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu, trình độ
nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí có
một số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp. Vẫn
còn tình trạng oan, sai trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử…”.
Hà Nội - Thủ đô nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là trung
tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của cả nước. Bên cạnh giữ vững ổn định, phát
triển kinh tế, Hà Nội còn đối mặt với không ít những khó khăn về vấn đề đấu
tranh và phòng chống tội phạm, trong đó có tội phạm cố ý gây thương tích
1


Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020


2
và gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. So với các địa phương khác trên
toàn quốc, Hà Nội là khu vực luôn chiếm tỷ lệ lớn các tội phạm này và có
chiều hướng gia tăng và mức độ nguy hiểm ngày càng cao.
Công tác thực hành quyền công tố đối với các tội Cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác của Thành phố Hà Nội trong
những năm gần đây có nhiều chuyển biến tích cực. Với số lượng lớn các vụ
án hình sự được phát hiện, điều tra, truy tố và tiến hành xét xử nhanh chóng,
kịp thời, đảm bảo sự nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
không làm oan người vô tội đã góp phần quan trọng vào việc giữ vững an
ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, qua thực tiễn công tác
cũng cho chúng ta thấy được nhiều hạn chế, bất cập do nhiều nguyên nhân
khác nhau cần được khắc phục kịp thời.
Trước thực trạng nêu trên, việc làm rõ những vấn đề lý luận và thực
tiễn đối với hoạt động thực hành công tố đối với các vụ án về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành
phố Hà Nội là hết sức cần thiết.
Xuất phát từ những lý do trên, học viên đã chọn đề tài: “Thực hành
quyền công tố đối với các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Thành phố Hà Nội” làm
Luận văn Thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thực hành quyền công tố là chủ đề được khá nhiều học giả hiện nay
quan tâm, nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, có thể kể đến những
công trình điển hình như: Lê Hữu Thể (chủ biên) thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội;
Trịnh Duy Tám, áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố trong giai

đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam hiện nay, Luận văn
Thạc sỹ Luật học, Hà Nội; Nguyễn Mạnh Tùng; Thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động điều tra các vụ án về ma túy ở Thành phố Hà Nội, Luận


3
văn Thạc sỹ Luật học, Hà Nội; Phạm Anh Đức, Nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi
tố, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Hà Nội; Nguyễn Ngọc Ánh, Thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu trên địa bàn
thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Hà Nội; Cao Việt Cường,
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn thực hành quyền công tố và kiểm sát điều
tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội, Luận
văn Thạc sỹ Luật học, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội; Lê Thị Tuyết
Hoa; Quyền công tố ở Việt Nam, luận án Tiến sỹ Luật học…
Bên cạnh đó, còn có nhiều bài viết khác nhau của nhiều tác giả được
đăng lên các báo, tạp chí như: Tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của
Viện Kiểm sát trong tiến trình cải cách tư pháp của tác giả Lê Hữu Thể, Tạp
chí Kiểm sát số 14 - 16, 2008; Những chủ trương của Đảng và Nhà nước ta
về cải cách tư pháp và tổ chức hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong
thời kì đổi mới, đăng trên Tạp chí chuyên ngành của tác giả Khuất Duy Nga,
2005; Bàn về mô hình Viện kiểm sát theo yêu cầu cải cách tư pháp của tác
giả Lại Hợp Việt, tạp chí kiểm sát số 14-16, 2008; Tăng cường trách nhiệm
của công tố trong giai đoạn điều tra trong Bộ luật tố tụng hình sự của tác giả
Nguyễn Tiến Sơn đăng tạp chí kiểm sát số 09, 2015; Một số vấn đề rút ra từ
công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố của cơ quan điều tra trên địa bàn thành phố Hà Nội của tác giả Hà
Thái đăng trên tạp chí chuyên ngành, 2010; Nâng cao chất lượng thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố của tác giả Nguyễn Đình Trung đăng trên Tạp chí

chuyên ngành, 2012;...
Các công trình nghiên cứu các bài viết nêu trên đã đề cập các góc độ
khác nhau khi bàn về hoạt động thực hành quyền công tố. Tuy nhiên, chưa
có một công trình nghiên cứu khoa học nào về thực hành quyền công tố đối


4
với các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trên địa bàn thành phố Hà Nội.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các
quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về thực hành
quyền công tố các vụ án hình sự nói chung và đối với các vụ án về tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn
thành phố Hà Nội nói riêng.
Về phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận và
thực tiễn thực hành quyền công tố đối với các vụ án về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hà
Nội.
4. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố các
vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác, phân tích thực trạng và đưa ra các đề xuất, phương hướng để nâng cao
chất lượng trong công tác thực hành quyền công tố đối với các vụ án về tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng
và các vụ án hình sự nói chung. Qua đó, đề xuất một số giải pháp để hoàn
thiện hơn nữa các quy định của pháp luật hiện hành về thực hành quyền công
tố các vụ án hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp của Bộ chính trị đã đề ra,
góp phần đảm bảo an ninh trật tự và an toàn xã hội.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn của học viên đã dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về
Nhà nước và pháp luật, đặc biệt là quan điểm chỉ đạo của Đảng về chiến
lược cải cách tư pháp được đề ra ngày 02/01/2002 (Nghị quyết số 08 NQ/TW) và Nghị quyết số 49 - NQ/TW của Bộ chính trị ngày 02/06/2005 về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.


5
Trong quá trình triển khai nghiên cứu đề tài, học viên đã sử dụng kết
hợp nhiều phương pháp nghiên cứu, thể hiện tính đặc thù của khoa học tố
tụng hình sự như: Kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp thống kê, so sánh, phương pháp hệ thống,…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn: Luận văn góp phần làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận về hoạt động của VKSND khi Thực hành quyền công
tố các vụ án về tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác, góp phần xây dựng, hoàn thiện các tri thức của khoa học Luật
hình sự, Luật tố tụng hình sự. Bên cạnh đó, Luận văn sẽ là một tài liệu tham
khảo cần thiết và bổ ích dành cho không chỉ các nhà lập pháp mà còn cho
các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học
viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở
đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị
những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ đang công tác tại các Cơ quan
điều tra, VKS, Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự được khách
quan, có căn cứ và đúng pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo
nội dung của luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận về thực hành quyền công tố đối với
các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác .
Chương 2: Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về thực

hành quyền công tố
Chương 3: Thực tiễn thực hiện và giải pháp đảm bảo thực hành quyền
công tố đối với các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hà Nội .


6
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
ĐỐI VỚI CÁC VỤ ÁN VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC
GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI KHÁC
1.1. Khái niệm chung

- Khái niệm quyền công tố và thực hành quyền công tố : Để làm rõ
khái niệm thực hành quyền công tố, trước hết phải làm rõ khái niệm quyền
công tố. Vấn đề quyền công tố trong những năm gần đây trở thành một vấn
đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và đề cập tới. Tuy nhiên, hiện nay
vẫn tồn tại những quan điểm khác nhau về quyền công tố và thực hành
quyền công tố xoay quanh phạm vi về quyền công tố. Quyền công tố là một
khái niệm pháp lý gắn liền với bản chất Nhà nước và xuất hiện cùng với sự
ra đời của Nhà nước. Việc tổ chức bộ máy nhà nước để thực hiện quyền
công tố trong mỗi kiểu Nhà nước đều khác nhau và luôn gắn liền với quá
trình phát triển của Nhà nước, sự tổ chức quyền lực Nhà nước, sự hoàn thiện
và văn minh của hệ thống pháp luật. Bàn về vấn đề này có những quan điểm
nổi bật như sau 2:
Thứ nhất, quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho VKS truy tố
người phạm tội ra Tòa án và thực hiện sự buộc tội tại phiên tòa. Quan điểm
này nhấn mạnh chỉ có VKS có quyền này và việc thực hiện nó chỉ diễn ra
trong lĩnh vực tố tụng hình sự là giai đoạn xét xử sơ thẩm. Quan điểm này có
sự thu hẹp khái niệm, nội dung, phạm vi quyền công tố và không phản ánh

được bản chất của quyền này, bởi vì hoạt động truy tố và buộc tội của VKS
tại phiên tòa chỉ là một nội dung của việc thực hành quyền công tố. Hay nói
cách khác, quan điểm này đã có sự đồng nhất giữa quyền công tố và thực
hành quyền công tố.

2

Lê Thị Tuyết Hoa; Quyền công tố ở Việt Nam, luận án Tiến sỹ Luật học, Hà Nội, 2003.


7
Thứ hai, quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho cơ quan tiến
hành tố tụng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng các chế tài
hình sự đối với người phạm tội. Nói cách khác, quyền công tố do các cơ
quan tiến hành tố tụng thực hiện trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử các vụ án hình sự và thi hành án hình sự. Đó là hoạt động tố tụng của
người tiến hành tố tụng như Điều tra viên, KSV, Thẩm phán,…có trách
nhiệm xác định người phạm tội cũng như các căn cứ để kết tội và áp dụng
các hình phạt đối với người phạm tội. Tuy nhiên, quan điểm này đã có sự
nhầm lẫn giữa các chức năng buộc tội và xét xử trong tố tụng hình sự. Hiểu
theo quan điểm này thì không chỉ có cơ quan công tố, điều tra mà cả cơ quan
xét xử và cơ quan thi hành án hình sự đều là chủ thể thực hành quyền công
tố.
Thứ ba, quyền công tố là quyền mà Nhà nước giao cho VKS đưa vụ
án ra Tòa án để xét xử, bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và công dân
trong các lĩnh vực tố tụng tư pháp khác nhau. Thực hành quyền công tố
chính là quá trình truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với người phạm pháp nên
quá trình này bắt đầu từ lúc khởi tố vụ án và chấm dứt khi có quyết định
hoặc bản án có hiệu lực của Tòa án. Tuy nhiên, hiểu theo quan điểm này lại
có sự mâu thuẫn giữa các quy định của pháp luật với nhau. Bởi lẽ theo quy

định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì VKS không hề thực hiện chức
năng công tố mà chỉ thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tuân theo pháp
luật của các cơ quan tiến hành tố tụng mà trong trường hợp này thì VKS chỉ
đại diện cho quyền lực công nhằm bảo vệ các lợi ích chung được pháp luật
thừa nhận.3
Từ những quan điểm và lý giải nêu trên, có thể thấy rằng mỗi quan
điểm về quyền công tố có những hạt nhân hợp lý và cũng có những hạn chế
và bất cập trong cách đặt vấn đề khác nhau. Có quan điểm thì mở rộng quyền
3

Tạp chí Luật học số 3/2001 (3/2001), TS. Trần Văn
Độ


8
công tố, có quan điểm thì thu hẹp phạm vi quyền công tố, có quan điểm thì
gây sự nhầm lẫn giữa các chức năng khác nhau trong tố tụng hình sự. Theo
quan điểm của tác giả cho rằng quyền công tố là một khái niệm pháp lý gắn
liền với nhà nước, với việc nhân danh công quyền chống lại hành vi vi phạm
pháp luật nghiêm trọng nhất, đó là tội phạm, nó xuất hiện cùng với sự ra đời
của nhà nước và pháp luật. Tùy từng thời kỳ phát triển của các Nhà nước
khác nhau trong lịch sử, có thể giao cho cơ quan nhà nước chuyên trách và
không chuyên trách thực hiện. Từ đó, có thể khái quát quyền công tố như
sau: “Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho một cơ quan nhất định
thực hiện chức năng buộc tội và yêu cầu trừng phạt người phạm tội”. Quyền
này thuộc về Nhà nước và được Nhà nước giao cho một cơ quan chuyên
trách – cơ quan VKS. Để thực hiện quyền này, cơ quan công tố phải có trách
nhiệm đảm bảo việc thu thập các chứng cứ, tài liệu để xác định tội phạm và
người phạm tội, trên cơ sở đó quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án và
bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa. Những người theo quan điểm đó cho

rằng quyền công tố là quyền buộc tội (quyền truy cứu trách nhiệm hình sự)
nhân danh Nhà nước đối với người phạm tội. Do vậy, quyền công tố chỉ tồn
tại trong một lĩnh vực duy nhất là tố tụng hình sự mà không thể tồn tại trong
các lĩnh vực khác như tố tụng dân sự, tố tụng hành chính,… Mặt khác, theo
quy định của pháp luật hiện hành thì quyền công tố gắn liền với hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử cho nên có thể khẳng định quyền công tố chỉ được
thực hiện bởi một cơ quan duy nhất là VKS mà không có bất cứ cơ quan nhà
nước nào khác có thể thay thế được.4 Đây là một quan điểm rất hợp lý về
mặt khoa học, có căn cứ, vừa phù hợp về cả lý luận lẫn thực tiễn vì nó phản
ánh được đúng bản chất, đối tượng, nội dung và phạm vi của quyền công tố
cũng như chủ thể thực hiện quyền công tố.

4

đăng
20/06/2017


9
Về khái niệm thực hành quyền công tố. Như đã phân tích ở trên,
quyền công tố là quyền của Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự (buộc
tội) đối với người phạm tội. Quyền này phát sinh ngay từ khi có hành vi
phạm tội xảy ra và kết thúc khi phán quyết của Tòa án nhân danh công lý
tuyên phạt đối với người đã thực hiện tội phạm có hiệu lực pháp luật. Quyền
công tố thể hiện rõ mối quan hệ giữa Nhà nước với người phạm tội do chính
hành vi của họ làm phát sinh tội phạm. Để đảm bảo thực tế đấu tranh chống
tội phạm, nhà nước đã ban hành các văn bản pháp luật, trong đó quy định các
quyền năng pháp lý mà cơ quan có thẩm quyền được áp dụng để truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Các quyền năng đó được giao
cho cơ quan nhà nước nào thực hiện để phát hiện tội phạm và truy cứu trách

nhiệm hình sự đối với người phạm tội thì cơ quan ấy được coi là cơ quan
thực hành quyền công tố. Ở Nhà nước Việt Nam chỉ giao cho VKS thực hiện
chức năng này cho nên VKS là cơ quan duy nhất có chức năng thực hành
quyền công tố.
Quá trình giải quyết vụ án hình sự trải qua nhiều giai đoạn tố tụng
khác nhau, mỗi giai đoạn tuy có tính độc lập tương đối nhưng liên quan chặt
chẽ với nhau. Mỗi giai đoạn đều thể hiện nội dung nhất định của hoạt động
tố tụng và giai đoạn tố tụng trước là tiền đề cho giai đoạn tố tụng tiếp theo;
giai đoạn tố tụng sau kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động của giai đoạn
trước đó nhằm phát hiện và khắc phục kịp thời những thiếu sót, sai lầm của
giai đoạn trước và tạo thành một quá trình tố tụng thống nhất và hoàn chỉnh.
Theo pháp luật tố tụng hình sự nước ta, VKS thực hiện các hành vi tố tụng
thuộc nội dung của quyền công tố trong các giai đoạn tố tụng. Tùy thuộc vào
từng giai đoạn tố tụng cụ thể mà việc sử dụng các quyền năng pháp lý của
VKS cũng khác nhau. Như vậy, thực hành quyền công tố là quá trình hiện
thực hóa quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội bằng
các quyền năng tương ứng mà Nhà nước trao cho một cơ quan nhất định.


10
Vì vậy, về cơ bản tôi đồng tình với quan điểm cho rằng: thực hành
quyền công tố là việc Viện kiểm sát sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp
lý thuộc nội dung quyền công tố để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. 5 Tuy nhiên, theo
tôi phạm vi thực hành quyền công tố không chỉ giới hạn trong các giai đoạn
tố tụng đã nêu trong khái niệm này mà còn được thực hiện trong các thời
điểm sớm hơn, ngay từ trước khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự. Thực
hành quyền công tố là hoạt động được thực hiện trong suốt quá trình giải
quyết vụ án (từ thời điểm giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị
khởi tố nhằm xác định dấu hiệu tội phạm làm căn cứ để khởi tố vụ án hình sự

cho đến khi kết thúc hoạt động xét xử). Hoạt động này thực hiện trong tất cả
các giai đoạn của tố tụng hình sự như khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử chứ
không chỉ bó hẹp trong ba giai đoạn đã nêu trong khái niệm trên. Từ lập luận
đó, trên cơ sở khái niệm quyền công tố đã làm rõ ở trên tôi đưa ra khái niệm
về thực hành quyền công tố như sau:
Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát trong tố tụng
hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội,
được thực hiện trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình
sự.
- Khái niệm thực hành quyền công tố đối với các vụ án về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn
thành phố Hà Nội
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác là hành vi cố ý gây tổn hại cho sức khỏe của người khác dưới dạng
thương tích hoặc tổn thương khác, được quy định tại Điều 104 BLHS Việt
Nam năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.6
5

Xem: Đỗ Xuân Hưng, Luận văn Thạc sỹ luật học, trường Đại học Luật Hà Nội, Chức năng của Viện kiểm
sát trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, Hà Nội, 2016.
6
Trường Đại học Luật Hà Nội, giáo trình Luật hình sự Việt Nam (tập 1), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,
2013


11
Mặt khách quan của tội phạm trước hết được thể hiện thông qua hành
vi khách quan của tội phạm. hành vi của tội này là những hành vi có khả
năng gây ra thương tích hoặc gây tổn thương khác làm tổn hại đến sức khỏe
của con người. Những hành vi đó có thể được thực hiện với công cụ, phương

tiện phạm tội hoặc không có công cụ, phương tiện phạm tội hoặc có thể
thông qua súc vật hay cơ thể người khác…Hậu quả mà cấu thành tội phạm
này đòi hỏi là thương tích hoặc tổn thương khác cho sức khỏe ở mức độ có tỉ
lệ thương tật là 11% trở lên (đến 30%) hoặc dưới tỉ lệ đó nhưng thuộc một
trong các trường hợp quy định tại khoản 1, Điều 104 BLHS Việt Nam năm
1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) bao gồm: Dùng hung khí nguy hiểm hoặc
dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người; gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
thực hiện hành vi nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều
người; thực hiện hành vi đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu,
ốm đau hoặc người không có khả năng tự vệ; thực hiện hành vi đối với ông,
bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình; có tổ chức; thực
hiện hành vi trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng
biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; thuê người khác thực hiện hành vi hoặc
thực hiện hành vi do được thuê; có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy
hiểm; để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
Như vậy, những trường hợp gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác có tỉ lệ thương tật dưới 11% và không thuộc các trường hợp
nêu trên là những trường hợp chưa cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Quan hệ nhân quả giữa hành vi và
hậu quả thương tích hoặc tổn thương khác là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành
tội phạm. Khi đã xác định có hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe và có hậu quả thương tích hoặc hậu quả tổn thương khác, đòi hỏi
phải xác định hậu quả này là do chính hành vi đó gây ra.
Mặt chủ quan của tội phạm: Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý. Có thể
là lỗi cố ý trực tiếp hoặc là lỗi cố ý gián tiếp. Người phạm tội có thể mong


12
muốn hậu quả thương tích hoặc hậu quả tổn hại cho sức khỏe nhưng cũng có
thể chỉ chấp nhận hậu quả đó.

Chủ thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác có thể là bất kì người nào có năng lực TNHS và đạt độ tuổi
luật định.
Điều luật quy định 4 khung hình phạt khác nhau:
Khung cơ bản có mức phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc
phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm. Khung này được áp dụng cho trường hợp phạm
tội không có tình tiết định khung tăng nặng quy định tại các khoản 2, 3, 4
Điều 104 BLHS.
Khung tăng nặng thứ nhất có mức phạt tù từ 2 năm đến 7 năm được áp
dụng cho trường hợp phạm tội có một trong những tình tiết định khung tăng
nặng sau:
+ Gây thương tích hoặc tổn thương khác có tỉ lệ thương tật từ 31% đến
60%;
+ Gây thương tích hoặc tổn thương khác có tỉ lệ thương tật từ 11% đến
30% nhưng thuộc trường hợp cấu thành tội phạm mà không đòi hỏi tỉ lệ
thương tật phải đạt 11% (các trường hợp đã nêu ở dấu hiệu hậu quả của tội
phạm).
Khung tăng nặng thứ hai có mức phạt tù từ 5 năm đến 15 năm được áp
dụng cho những trường hợp phạm tội có một trong những tình tiết tăng nặng
sau đây:
+ Gây thương tích hoặc tổn thương khác có tỉ lệ thương tật từ 61% trở
lên;
+ Gây thương tích hoặc tổn thương khác có tỉ lệ thương tật từ 31% đến
60% nhưng thuộc trường hợp cấu thành tội phạm mà không đòi hỏi tỉ lệ
thương tật phải đạt 11% (các trường hợp đã nêu ở dấu hiệu hậu quả của tội
phạm);


13
+ Dẫn đến chết người. Trường hợp dẫn đến chết người là trường hợp

phạm tội đã gây ra hậu quả chết người. Trong đó người phạm tội chỉ cố ý đối
với việc gây thương tích hoặc gây tổn thương cho sức khỏe của nạn nhân còn
đối với hậu quả chết người do hành vi của họ gây ra, lỗi của người phạm tội
chỉ là lỗi vô ý.7
Khung tăng nặng thứ ba có mức phạt tù từ 10 năm đến 20 năm hoặc tù
chung thân. Khung này được áp dụng cho trường hợp phạm tội có một trong
những tình tiết tăng nặng sau:
+ Dẫn đến chết nhiều người;
+ Trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác (trường hợp này thường
được hiểu và áp dụng là trường hợp tập trung nhiều tình tiết của khung tăng
nặng thứ hai).8
Trên đây là những phân tích về cấu thành tội phạm cũng như chính
sách hình sự của Nhà nước đối với tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 104 BLHS năm 1999).
Từ việc nghiên cứu làm rõ một số khái niệm về quyền công tố, thực
hành quyền công tố ở trên, có thể đưa ra khái niệm thực hành quyền công tố
đối với các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác như sau:
Thực hành quyền công tố đối với các vụ án về tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được hiểu là hoạt động của
Viện kiểm sát sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung
quyền công tố để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong quá
trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử.
Thực hành quyền công tố đối với các vụ án về tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Thành phố Hà
7

Tham khảo thêm: Nghị quyết số 01/HĐTP ngày 19/4/1989 của Hội đồng thẩm phán TANDTC
Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, tập 1, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,

2014
8


14
Nội được hiểu là hoạt động của Viện kiểm sát các cấp tại Hà Nội sử dụng
tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác thuộc thẩm quyền khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử của các cấp tòa án trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
1.2. Phạm vi và nội dung thực hành quyền công tố
- Về phạm vi thực hành quyền công tố: Nhiệm vụ của tố tụng hình sự là
bảo đảm mọi tội phạm xảy ra đều phải được phát hiện và xử lý theo pháp
luật. Khi tội phạm xảy ra thì đồng thời làm xuất hiện quan hệ giữa Nhà nước
và người phạm tội. Điều đó có nghĩa là quyền công tố cũng xuất hiện. Vì
vậy, về nguyên tắc thì phạm vi quyền công tố và thực hành quyền công tố là
đồng nhất với nhau, tức là đều xuất hiện từ khi có tội phạm xảy ra cho đến
khi có bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, không phải tội
phạm nào xảy ra cũng đều được phát hiện kịp thời và tiến hành khởi tố hoặc
khi đã phát hiện tội phạm xảy ra nhưng cũng cần có những hoạt động xác
minh, thu thập tài liệu trước khi khởi tố. Mặt khác, không phải mọi trường
hợp việc thực hành quyền công tố đã được phát động đều được kết thúc bằng
một bản án có hiệu lực pháp luật mà có thể kết thúc sớm hơn khi có một
trong các căn cứ được quy định trong bộ luật tố tụng hình sự. Như vậy, trong
thực tế thì phạm vi thực hành quyền công tố thường hẹp hơn phạm vi của
quyền công tố. Phạm vi thực hành quyền công tố bắt đầu từ giai đoạn khởi
tố vụ án hình sự và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng
nghị hoặc khi vụ án bị đình chỉ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
- Về nội dung thực hành quyền công tố. Hiện nay vẫn còn một số quan
điểm chưa thống nhất về nội dung thực hành quyền công tố. Có quan điểm

cho rằng, nếu coi khởi tố vụ án hoặc bắt, tạm giam bị can là nội dung thực
hành quyền công tố thì cả CQĐT và Tòa án cũng là cơ quan thực hành quyền
công tố. Nội dung của thực hành quyền công tố là sử dụng tổng hợp các
quyền năng pháp lý để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với


15
người phạm tội. Vì vậy, chỉ có cơ quan nào được phép sử dụng tất cả các
quyền năng pháp lý này để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm
tội trong suốt quá trình tố tụng hình sự thì mới là cơ quan thực hành quyền
công tố. Ở nước ta, chỉ có VKS mới là cơ quan thực hành quyền công tố mà
thôi.
Ở đây cũng cần xác định rõ trong tố tụng hình sự thì những quyền
năng pháp lý nào thuộc về nội dung thực hành quyền công tố và những
quyền năng pháp lý nào thuộc về nội dung kiểm sát việc tuân theo pháp luật.
Trên cơ sở các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và Luật Tổ chức VKS
nhân dân năm 2014 thì những quyền năng pháp lý mà VKS tự quyết định và
liên quan đến việc cáo buộc (buộc tội) bị can, bị cáo là những quyền năng
thuộc nội dung thực hành quyền công tố; những quyền năng pháp lý mà
VKS dùng để phát hiện và yêu cầu các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng và người tham gia tố tụng khắc phục, xử lý vi phạm pháp luật là
những quyền năng thuộc nội dung kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Mặt
khác, cũng có những hành vi tố tụng thể hiện sự đan xen giữa thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự. Ví
dụ như trong quyết định kháng nghị phúc thẩm của VKS đối với bản án
(quyết định) sơ thẩm chưa có hiệu lực của Tòa án có thể đồng thời bao hàm
cả hai nội dung: Thứ nhất là có sự vi phạm nghiêm trọng trong việc áp dụng
Bộ luật hình sự; thứ hai là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hoặc chỉ thể
hiện một trong hai nội dung trên cũng làm phát sinh trình tự xét xử phúc
thẩm.

Từ những phân tích trên, có thể xác định nội dung thực hành quyền
công tố là tổng hợp các quyền năng tố tụng mà Viện kiểm sát sử dụng nhằm
đảm bảo phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội không


16
để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, được thực
hiện ngay từ giai đoạn khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng.9
1.3. Đặc điểm thực hành quyền công tố đối với các vụ án về tội cố
ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác
Thứ nhất, trong hoạt động kiểm sát tiếp nhận, giải quyết tin báo tố
giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố đối với tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hành vi phạm tội thường diễn ra rất
nhanh.
Thứ hai, trong hoạt động kiểm sát việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can,
không khởi tố tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác khoản 1 chỉ được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại hoặc
người đại diện hợp pháp.
Thứ ba, Hoạt động đánh giá chứng cứ khi thực hành quyền công tố
đối với tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác đặc biệt vụ án có đông đối tượng tham gia, công cụ, phương tiện phạm
tội đa dạng và có nhiều người làm chứng khai báo khác nhau thì việc xác
định sự thật vụ án rất khó khăn.
Thứ tư, việc áp dụng biện pháp khám xét người, chỗ ở, nơi làm việc,
đại điểm, đồ đạc, bưu kiện, bưu phẩm ít áp dụng đối với tội này. Chủ yếu
thường được áp dụng để truy tìm vật chứng là hung khí gây án .
Thứ năm, kết quả giám định thương tích của cơ quan chuyên môn có ý
nghĩa xác định hành vi có phải là tội phạm hay không, tính chất,mức độ của
hành vi đó từ đó có yêu cầu giám định cho phù hợp.
Thứ sáu, tội Cố ý gây thương tích có diễn biến hành vi gần giống tội

giết người dễ dẫn đến định tội danh sai. Do đo, khi thực hành quyền công tố
cần chủ động phối hợp với cơ quan tiến hành tố tụng để tháo gỡ khó khăn,
thống nhất trong đánh giá tài liệu, chứng cứ.

9

đăng ngày 21/05/2015


17
Thứ bảy, đa số vụ án bị đình chỉ theo Khoản 2 Điều 105 BLTTHS
2003 vì phần lớn sau khi có quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can thì gia
đình bị can hoặc bị can thường tìm đến người bị hại để thỏa thuận bồi
thường do đó phải đình chỉ.
1.4.Mối quan hệ giữa chức năng thực hành quyền công tố với chức
năng kiểm sát hoạt động tƣ pháp
Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng hình sự tuy là hai chức năng độc lập có đối tượng và nội dung khác
nhau nhưng chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Chức năng của thực hành quyền công tố là để truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người phạm tội, đưa người phạm tội ra trước Tòa án để xét
xử và bảo vệ sự buộc tội đó. Như vậy, có thể thấy đối tượng hướng tới của
thực hành quyền công tố là vạch tội người phạm tội ra trước Tòa án; nội
dung thực hành quyền công tố là việc VKSND sử dụng tổng hợp các quyền
năng pháp lý để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội nhằm bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và
được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án đến khi bản án có hiệu lực pháp
luật. Theo đó, nội dung thực hành quyền công tố bao gồm: Khởi tố vụ án;
khởi tố bị can; đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra;
khi cần thiết trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra; quyết định áp

dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; phê chuẩn, không phê chuẩn
các quyết định của CQĐT hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái
pháp luật của CQĐT; quyết định truy tố bị can, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ
vụ án. Còn kiểm sát việc tuân theo pháp luật có chức năng là bảo đảm cho
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất trong các giai đoạn tố
tụng. Đối tượng hướng tới của kiểm sát hoạt động tư pháp là các hành vi,
quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người
tham gia tố tụng trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án
có tuân thủ đúng quy định của pháp luật hay không? Nội dung của hoạt động


18
này là căn cứ vào quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật hình sự,
Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và các văn bản pháp luật khác có liên
quan để xác định tính đúng đắn của các đối tượng mà việc thực hiện hoạt
động kiểm sát hướng tới, nhằm xác định những vi phạm pháp luật của cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự để từ đó kịp thời đưa ra những giải pháp đúng đắn, hạn chế kịp thời,
khắc phục tối đa thiệt hại có thể xảy ra. Tuy hai hoạt động này thuộc về các
chức năng hoàn toàn khác nhau nhưng giữa chúng lại có mối quan hệ mật
thiết, gắn bó với nhau, được thể hiện ở các khía cạnh sau:
Kết quả của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật là cơ sở cho
việc thực hành quyền công tố có hiệu quả và ngược lại việc thực hành quyền
công tố đảm bảo sự tuân thủ pháp luật. Khi có cơ sở xác định tội phạm từ tố
giác của người dân, tin báo của cơ quan, tổ chức hoặc thông qua hoạt động
điều tra phát hiện dấu hiệu của tội phạm thì CQĐT sẽ phải thực hiện một số
hoạt động điều tra ban đầu để xác định có dấu hiệu của tội phạm hay không?
Nếu đủ căn cứ xác định có dấu hiệu của tội phạm thì sẽ ra quyết định khởi tố
vụ án để tiến hành điều tra đồng thời phải thông báo cho VKS cùng cấp biết.
Lúc này VKS với chức năng, nhiệm vụ của mình sẽ tiến hành kiểm sát việc

tuân theo các quy định của pháp luật về khởi tố vụ án của CQĐT. Trong quá
trình kiểm sát điều tra nếu phát hiện thấy quyết định khởi tố của CQĐT là
không có căn cứ hoặc có dấu hiệu trái pháp luật thì VKS sẽ thực hành quyền
công tố của mình bằng cách ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố của
CQĐT. Nếu trong trường hợp phát hiện có dấu hiệu của tội phạm nhưng
CQĐT đã ra quyết định không khởi tố thì VKS sẽ hủy bỏ quyết định đó của
CQĐT và ra quyết định khởi tố. Khi vụ án đã được khởi tố cũng đồng nghĩa
với quyền kiểm sát hoạt động điều tra của VKS được phát động, VKS sẽ
thực hiện quyền kiểm sát của mình trong suốt quá trình điều tra của CQĐT
để bảo đảm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Như vậy, có thể thấy nếu
VKS làm tốt chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của mình thì chức năng


19
thực hành quyền công tố của VKS cũng sẽ được bảo đảm đúng pháp luật.
Ngược lại, nếu làm không tốt chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp thì việc
thực hành quyền công tố của VKS có thể sẽ vi phạm pháp luật (và có thể dẫn
đến hậu quả là: quyết định của VKS cấp dưới vi phạm pháp luật sẽ bị VKS
cấp trên hủy bỏ) và đối với những trường hợp đó thì vụ án sẽ bị đình chỉ,
VKS có thể sẽ phải bổi thường thiệt hại cho bị can, bị cáo nếu có thiệt hại
xảy ra, đồng thời sẽ làm giảm sự tin tưởng của nhân dân vào năng lực của
đội ngũ cán bộ, công chức trong ngành tư pháp.
Mối quan hệ chặt chẽ này được thể hiện trong suốt quá trình tố tụng
hình sự. Ở giai đoạn khởi tố vụ án hình sự: khi nhận được thông báo về
quyết định khởi tố vụ án, đề nghị phê chuẩn quyết định khởi tố bị can từ phía
CQĐT, VKS sẽ xem xét, đánh giá các căn cứ mà CQĐT lấy làm cơ sở để
xác định có dấu hiệu của tội phạm có hợp pháp hay không? Nếu những căn
cứ đó là hợp pháp, thì VKS sẽ thực hành quyền công tố của mình bằng việc
ra quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của CQĐT, ngược lại nếu
những căn cứ đó là không hợp pháp thì VKS sẽ yêu cầu CQĐT xem xét lại

hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Ở giai đoạn điều tra:
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình VKS sẽ tiến hành kiểm sát
việc tuân theo pháp luật của CQĐT bằng cách kiểm tra hồ sơ vụ án, kiểm sát
việc hỏi cung bị can, lấy lời khai của người làm chứng, kiểm sát việc xác
định thu thập chứng cứ,… Thực hiện quyền công tố bằng cách phê chuẩn
lệnh bắt người, khám xét người; quyết định gia hạn điều tra, yêu cầu cơ
quan tổ chức cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu, chứng cứ, yêu cầu cơ
quan điều tra bổ sung, thay đổi quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, đình
chỉ điều tra,...Ở giai đoạn truy tố: VKS kiểm sát việc tuân theo pháp luật
bằng cách xem xét hồ sơ vụ án, đánh giá lại toàn bộ quá trình điều tra và bản
kết luận điều tra do CQĐT đề nghị truy tố; trong quá trình nghiên cứu hồ sơ
vụ án nếu quá trình điều tra là hợp pháp, hồ sơ vụ án đủ căn cứ để truy tố thì
VKS sẽ thực hành quyền công tố bằng cách ra quyết định truy tố bị can trước


20
Tòa án bằng bản Cáo trạng, nêu thấy hồ sơ chưa đầy đủ hoặc trong quá trình
điều tra chưa đầy đủ, thiếu chứng cứ quan trọng đối với vụ án hoặc vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng thì sẽ ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ
sung, nếu thấy có căn cứ luật định như không có sự việc phạm tội, hành vi
không cấu thành tội phạm…thì sẽ đình chỉ vụ án. Ở giai đoạn xét xử: Viện
kiểm sát thực hành quyền công tố bằng việc truy tố bị cáo trước Tòa án, hỏi
đáp, tranh luận với người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, đưa
ra quan điểm buộc tội và mức hình phạt đề nghị HĐXX áp dụng cho bị cáo.
Trong giai đoạn này, Viện kiểm sát cũng đồng thời thực hiện hoạt động kiểm
sát việc tuân thủ các quy định tố tụng tại phiên Tòa, trong quá trình kiểm sát
nếu có căn cứ hoãn phiên tòa, thay đổi người tiến hành tố tụng thì đề nghị
Tòa án xem xét quyết định. Nếu không đồng ý với bản án của Tòa án thì
trong thời hạn kháng nghị, VKS sẽ kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Ở
giai đoạn thi hành án: Viện kiểm sát thực hiện kiểm tra giám sát việc thi

hành bản án và quyết định của Tòa án, kiểm tra, giám sát phạm nhân chấp
hành hình phạt tù, giám sát việc thi hành án tử hình. Đồng thời, khi có đủ các
điều kiện do pháp luật quy định thì đề nghị hoãn chấp hành hình phạt tù hoặc
tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù10.
Như vậy, có thể thấy thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật là hai chức năng cơ bản và quan trọng nhất của VKS mà giữa
chúng có mối quan hệ hỗ trợ cho nhau, không thể tách rời nhau trong suốt
quá trình giải quyết vụ án, nếu vi phạm chức năng này sẽ ảnh hưởng chức
năng khác và ngược lại.
Kết luận Chƣơng 1
Qua chương 1 cho chúng ta thấy được một số vấn đề chung về thực
hành quyền công tố đối với các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hà Nội như làm
rõ được khái niệm và bản chất của quyền công tố và thực hành quyền công
10

Lê Thị Tuyết Hoa; Quyền công tố ở Việt Nam, luận án Tiến sỹ Luật học, Hà Nội, 2003.


×