Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Bài viết số 3 lớp 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (48.54 KB, 8 trang )

Bài viết số 3 lớp 8 đề 1. Thuyết minh về kính đeo mắt.
Nếu nói rằng đôi mắt là cửa sổ tâm hồn của mỗi chúng ta thì ắt rằng những cặp
kính chính là những người giúp việc tận tâm, những người bảo vệ vững chắc,
những vật trang trí duyên dáng cho khung cửa mộng mơ ấy.
Quả không quá khi nói như vậy về cặp kính đeo mất bởi kính, có rất nhiều loại và
rất nhiều tác dụng, phù hợp với hầu hết nhu cầu của mọi người. Với những người
bị bệnh về mắt như cận thị, viễn thị, loạn thị kính giúp họ khắc phục được điểm
hạn chế của bản thân. Người cận thị có thể nhìn được những vật ở xa, người viễn
thị thì nhờ kính mà nhìn được những vật ở gần... Đối với người làm những công
việc đặc thù như bơi, trượt tuyết, đi xe máy tốc độ cao,... kính lại giúp mắt họ tránh
khỏi nước, tuyết, gió, bụi,... Những người không bị bệnh về mắt, không có những
hoạt động trên, khi ra đường cũng nên mang theo một cặp kính: để tránh nắng chói
và gió bụi. Thậm chí, có những người sử dụng kính như một vật trang trí đơn
thuần. Giá trị thẩm mĩ của kính có được bởi sự đa dạng của kiểu dáng và màu sắc.
Dù chủng loại phong phú như vậy nhưng về cơ bản, cấu tạo của các cặp kính rất
giống nhau. Một chiếc kính đeo mắt gồm có hai bộ phận: Tròng kính và gọng kính.
Gọng kính làm khung cho kính và là bộ phận nâng đỡ tròng kính. Gọng kính cũng
gồm hai phần được nối với nhau bởi một khớp sắt nhỏ. Phần sau giúp gá kính vào
vành tai. Phần trước đỡ lấy tròng kính và giúp tròng kính nằm vững trước mắt.
Gọng kính có thể được làm bằng kim loại nhưng phổ biến nhất vẫn là gọng nhựa
bền, nhẹ. Bộ phận quan trọng nhất của kính - tròng kính - thì không thể thay đổi
cấu tạo gốc và có một tiêu chuẩn quốc tế riêng. Hình dáng tròng kính rất phong
phú, nó phụ thuộc vào hình dáng gọng kính: tròn, vuông, chữ nhật... Tròng kính có
thể làm bằng nhựa chống trầy hay thủy tinh nhưng đều cần tuân theo quy tắc chống
tia uv và tia cực tím (hai loại tia được phát ra bởi mặt trời, rất có hại cho mắt).
Ngoài ra, một chiếc kính đeo mắt còn có một số bộ phận phụ như ốc, vít... Chúng
có kích thước rất nhỏ nhưng lại khá quan trọng, dùng để neo giữ các bộ phận của
chiếc kính.
Bên cạnh loại kính gọng còn có loại kính áp tròng. Đó là một loại kính đặc biệt,
nhỏ, mỏng, được đặt sát vào tròng mắt. Riêng với loại kính này phải có sự hướng
dẫn sử dụng tỉ mỉ của bác sĩ chuyên ngành.




Việc sử dụng kính tác động rất lớn đến sức khoẻ của mắt bởi vậy cần sử dụng kính
đúng cách. Để lựa chọn 1 chiếc kính phù hợp với đôi mắt, cần phải theo tư vấn của
bác sĩ. Không nên đeo loại kính có độ làm sần vì loại kính này được lắp hàng loạt
theo những số đo nhất định nên chưa chắc đã phù hợp với từng người. Mỗi loại
kính cũng cần có cách bảo quản riêng để tăng tuổi thọ cho kính. Khi lấy và đeo
kính cần dùng cả hai tay, sau khi dùng xong cần lau chùi cẩn thận và bỏ vào hộp
đậy kín. Kính dùng lâu cần lau chùi bằng dung dịch chuyên dụng. Đối với loại kính
tiếp xúc trực tiếp với mắt như kính áp tròng, cần phải nhỏ mắt từ sáu lần đến tám
lần trong vòng từ mười đến mười hai tiếng để bảo vệ mắt. Kính áp tròng đưa thẳng
vào mắt nên phải luôn luôn ngâm trong dung dịch, nếu không sẽ rất dễ bám bụi
gây đau mắt, nhiễm trùng các vết xước... Trong quá trình học tập, làm việc, đeo
kính phù hợp sẽ giúp chúng ta tránh khỏi nhức mỏi mắt, đau đầu, mỏi gáy, mỏi
cổ...
Đeo một chiếc kính trên mắt hẳn ai cũng tò mò muốn biết sự ra đời của kính? Đó
là cả một câu chuyện dài. Vào năm 1266 ông Rodger Becon người Italia đã bắt đầu
biết dùng chiếc kính lúp để có thể nhìn rõ hơn các chữ cái trên trang sách. Năm
1352, trên một bức chân dung người ta nhìn thấy một vị hồng y giáo chủ đeo một
đôi kính có hai mắt kính được buộc vào một cái gọng. Như vậy chúng ta chỉ có thể
biết được rằng đôi kính được làm ra trong khoáng thời gian giữa năm 1266 và
1352. Sự ra đời của những cuốn sách in trở thành động lực của việc nghiên cứu,
sản xuất kính. Vào thế kỷ XV những căp kính chủ yếu được sản xuất tại miền bắc
nước Ý và miền nam nước Đức - là những nơi tập trung nhiều người thợ giỏi. Năm
1629 vua Charles I của nước Anh đã ký sắc lệnh thành lập hiệp hội của các thợ làm
kính mắt. Đến năm 1784, ông Bedzamin Franklin người Đức đã sáng tạo ra những
đôi kính có hai tiêu điểm.
Chiếc mắt kính đeo mắt là một vật dụng quen thuộc với đời sống hằng ngày. Nếu
biết cách sử dụng và bảo quản tốt, kính sẽ phát huy tối đa công dụng của mình.
Hãy cùng tìm hiểu về kính để có thể biến “lăng kính” của “cửa sổ tâm hồn” trở nên

phong phú và hoàn thiện hơn.
Bài viết số 3 lớp 8 đề 2. Thuyết minh về cây bút máy hoặc bút bi.


Đối với những người lao động trí óc, đặc biệt đối với những thế hệ học sinh thì
chiếc bút bi là người bạn thân thiết không thể tách rời. Chiếc bút bi có vai trò quan
trọng giúp cho các bạn viết lên những nét chữ, viết nên tương lai tốt đẹp hơn.
Đối với những cô cậu học trò còn ngồi trên ghế nhà trường thì việc sở hữu rất
nhiều chiếc bút bi là điều bình thường. Vì nếu không có bút bi thì học sinh sẽ
không học được, không viết được những bài văn, giải được những bài toán và vẽ
được những hình họa tinh nghịch. Không chỉ đối với học sinh mà nhiều người khác
cũng cần đến chiếc bút bi khi cần thiết. Dù là ai, làm việc gì thì việc sở hữu một
chiếc bút bi là điều không thể thiếu.
Đối với những em nhỏ học mẫu giáo, lớp 1 thì vẫn đang làm quen với chiếc bút
chì; nhưng khi các em lớn lên sẽ dần làm quen với cách viết và sử dụng bút bi cho
phù hợp nhất.
Bút bi được phát minh bởi nhà báo Hungari Lazo Biro vào những năm 1930. Sau
thời gian nghiên cứu, tìm hiểu, ông Biro phát hiện ra được một loại mực in giấy rất
nhanh khô. Từ đó, ông đầu tư thời gian nghiên cứu và chế tạo ra một loại bút sử
dụng loại mực như thế.
Bút bi có nhiều loại như bút bi Thiên Long, bút bi Bến Nghé,…Mỗi loại bút đều có
đặc điểm riêng nhưng chung một công dụng.
Bút bi được cấu thành từ hai bộ phận chính là vỏ bút và ruột bút. Bộ phận nào cũng
đóng vai trò quan trọng để tạo nên sự trọn vẹn của chiếc bút chúng ta cầm ở trên
tay. Bộ phận vỏ bút có thể được làm bằng chất liệu nhựa là phổ biến, hoặc một số
loại bút được nhà sản xuất làm bằng kim loại nhẹ. Bộ phận vỏ bút được thiết kế
chắc chắn và đẹp, có thể bảo vệ được ruột bút ở bên trong. Vỏ bút được thiết kế
theo hình trụ, dài và tròn, có độ dài từ 10-15 cm.
Ở trên vỏ bút có thể được sáng tạo bởi nhiều họa tiết đẹp hoặc chỉ đơn giản là có
dán tên nhà sản xuất, số lô sản xuất và màu sắc của chiếc bút.

Có một số loại bút bi dành cho trẻ em, để thu hút được sức dùng thì nhà sản xuất
đã tạo những họa tiết như hình các con vật, hình siêu nhân…Chính điều này sẽ
khiến cho các em thích thú khi sử dụng chiếc bút bi xinh đẹp.


Màu sắc của vỏ bút cũng đa dạng và phong phú như xanh, đỏ, tím, vàng…Các bạn
học sinh hoặc người dùng có thể dựa vào sở thích của mình để chọn mua loại bút
thích hợp nhất.
Bộ phận thứ hai chính là ruột bút,giữ vai trò quan trọng để tạo nên một chiếc bút
hoàn hỏa. Đây là bộ phận chứa mực, giúp mực ra đều để có thể viết được chữa trên
mặt giấy. Ruột bút chủ yếu làm bằng nhựa, bên trong rỗng để đựng mực. Ở một
đầu có ngòi bút có viên bi nhỏ để tạo nên sự thông thoáng cho mực ra đều hơn.
Ở ruột bút có gắn một chiếc lò xo nhỏ có đàn hồi để người viết điều chỉnh được
bút trong quá trình đóng bút và mở bút.
Ngoài hai bộ phận chính này thì chiếc bút bi còn có nắp bút, nấp bấm, nắp đậy. Tất
cả những bộ phận đó đều tạo nên sự hoàn chỉnh của chiếc bút bi bạn đang cầm trên
tay.

Sử dụng bút bi rất đơn giản, tùy theo cấu tạo của bút mà sử dụng. Đối với loại bút
bi bấp thì bạn chỉ cầm bấm nhẹ ở đầu bút thì có thể viết được. Còn đối với dạng
bút bi có nắp thì chỉ cần mở nắp ra là viết được. Chiếc bút bi đối với học sinh, với
những người lao động trí óc và với cả rất nhiều người khác đều đóng vai trò rất
quan trọng. Bút bi viết lên những ước mơ của các cô cậu học trò. Bút bi kí nết nên
những bản hợp đồng quan trọng, xây dựng mối quan hệ gắn kết với nhau.
Để chiếc bút bi bền và đẹp thì người sử dụng cần bảo quản cẩn thận và không vứt
bút linh tinh, tránh tình trạng hỏng bút.
Thật vậy, chiếc bút bi có vai trò quan trọng đối với mỗi người. Chúng ta học tập
và làm việc đều cần đến bút bi. Nó là người bạn đồng hành đáng tin cậy nhất.
DÉP LỐP


Trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ đầy gian khổ của dân tộc Việt
Nam, những người chiến sĩ Cách mạng đã phải trải qua các cuộc chiến ác liệt, một
mất một còn vô cùng khốc liệt. Cuộc chiến đấu gian nan là thế nhưng cuộc sống
sinh hoạt lại vô cùng thiếu thốn, hành trang mang theo bên người chỉ có chiếc
võng, chiếc bát ăn cơm, balo con cóc, chiếc mũ tai bèo. Và một trong những hành
trang không thể thiếu của mỗi người lính- đó là đôi dép lốp.


Dép lốp là loại dép được làm ra từ những chiếc xăm, lốp. Loại dép này được sử
dụng khá phổ biến ở nước ta trong thời kì kháng chiến, khi kinh tế còn nghèo
nàn,cuộc sống vật chất còn nhiều thiếu thốn. Những đôi dép lốp được sử dụng phổ
biến vào thời kì đó bởi nguyên liệu dễ kiếm, dễ làm, hơn nữa nó còn có độ bền cao.
Có thể theo chân những người lính từ dốc này qua đèo nọ mà không bị hỏng.
Cách chế tạo những đôi dép lốp cũng khá đơn giản, người ta sẽ cắt một phần của
lốp ô tô ra để làm đế dép và phần đế này thường được lấy từ phần chính giữa của
chiếc lốp vì nó bằng phẳng, không gây đau, bất tiện cho đôi chân. Phần ngoài của
lốp thì được đặt phía dưới, khi di chuyển thì phần này sẽ ma sát với mặt đường.
Để xỏ quai người ta đục trên diềm của đế khoảng từ sáu đến tám cái lỗ nhỏ. Quai
của dép lốp thì được cắt ra từ những chiếc săm ô tô cũ, chiều rộng của những chiếc
quai này khoảng từ một đến một phẩy năm xen ti mét, chiều dài tùy ý sao cho hợp
với đôi chân người đi. Quai được xỏ vào lỗ bằng cách dùng một thanh kim loại
nhỏ, giúp luồn dây qua đế một cách dễ dàng, nhanh chóng.
Về người đầu tiên phát minh, chế tạo ra đôi dép lốp, nhiều người cho rằng đó chính
là đại tá Hà Văn Lâu. Tuy nhiên, khi được hỏi thì ông cũng thừa nhận mình chỉ sử
dụng và bắt chước lại những người phụ xe dùng mo cau hay vỏ ruột xe kéo làm
những đôi dép. Từ đó ông mới bắt đầu nảy sinh ý tưởng làm những đôi dép như
của những người phu xe, nhưng bằng một chất liệu mới, đó là từ lốp ô tô cũ.
Tên gọi của dép lốp cũng có nhiều cách gọi khác nhau như: Dép cao su, dép râu,
dép Bình Trị Thiên. Dép lốp sử dụng nhiều trong chiến tranh nên nó đã trở thành
một biểu tượng của những người chiến sĩ Cách mạng và vị lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí

Minh cũng thường xuyên sử dụng loại dép này. Vì vậy mà dép lốp còn là một biểu
tượng về sự giản dị của Bác.
Ngày nay tuy dép lốp không còn được sử dụng phổ biến nữa do sự ra đời của rất
nhiều loại giày dép, với mẫu mã đa dạng, giá thành lại không cao. Tuy nhiên, dép
lốp ngày nay cũng được cách tân đi rất nhiều, chất liệu thì không phải từ lốp và
săm xe nữa mà nó thường được làm bằng cao su. Loại dép này vẫn là một bộ phận
được ưa chuộng và sử dụng, đặc biệt là những người bộ đội về hưu, những người
cựu chiến binh khi xưa
Đôi dép lốp xuất hiện trong cuộc sống của mỗi chúng ta ngày càng khan hiếm
nhưng nó đã từng là những kỉ vật có giá trị của mỗi con người, và đặc biệt trong xã
hội xưa đôi dép lốp biểu tượng cho sự sung túc nhưng rất giản dị đơn sơ, nó được
làm bằng cao su, và bám sát vào chân đi trên chân có cảm giác êm nhưng hơi có
cảm giác lặng, nó không chỉ để lại cho con người những giá trị vật chất quan trọng,
giá trị mạnh mẽ mà đôi dép lốp để lại cho muôn đời đó là công dụng của nó vô


cùng quan trọng và cần thiết cho mỗi người, nó là phương tiện được sử dụng để đi
lại và mang những ý nghĩa rất cần thiết và may mắn trong mỗi con người. Hình
tượng người lính xuất hiện trong mỗi con người Việt Nam không ai có thể không
được biết đến đôi dép có ý nghĩa và giá trị to lớn này.
Nó mang những biểu tượng mạnh mẽ thể hiện được tinh thần chiến đấu, mặc dù nó
không hiện đại và đắt tiền nhưng giá trị của nó đến hôm nay phải được coi là một
điều có ý nghĩa và trở thành một truyền thống quý báu của dân tộc ta, trong những
năm tháng gian nan nó là người bạn đường của mỗi người chiến sĩ cách mạng
chúng ta đều được biết đến qua hình ảnh cụ Hồ, người luôn dùng đôi dép này, nó
giản dị và rất mộc mạc.
Mỗi người chúng ta đều cần phải trân trọng những giá trị đáng quý của dân tộc đó
là những sản phẩm đem lại những giá trị to lớn và cần thiết nhất dành cho mỗi
người.
ÁO DÀI

Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có những văn hóa, nét đặc trưng của từng vùng
miền và trang phục truyền thống riêng. Phụ nữ Nhật tự hào với Kimono, phụ nữ
Hàn Quốc nổi tiếng với Hanbok, phụ nữ Ấn Độ để lại cho ta ấn tượng rất đặc biệt
với bộ Sari. Còn phụ nữ Việt Nam, từ xưa đến nay vẫn mãi song hành với chiếc áo
dài duyên dáng và thướt tha.
Cho đến nay, vẫn chưa biết được nguồn gốc chính xác của chiếc áo dài. Nhưng nối
ngược dòng thời gian, tìm về cội nguồn, hình ảnh chiếc áo dài với hai tà áo thướt
tha đã được tìm thấy ở các hình khắc mặt trống đồng Ngọc Lũ cách đây vài nghìn
năm.
Áo dài có rất nhiều loại. Nhưng sơ khai của chiếc áo dài xưa nhất là áo giai lãnh:
Cũng giống như áo tứ thân nhưng khi mặc thì hai thân trước để giao nhau mà
không buộc lại. Vì sau này, phụ nữ phải làm việc đồng áng hay buôn bán nên áo
giai lãnh được thu gọn lại thành áo tứ thân: Gồm bốn vạt nửa trước phải, vạt nửa
sau phải, vạt nửa sau trái. Nhưng với những người phụ nữ tỉnh thành nhàn hạ,
muốn có một kiểu áo dài được cách tân thế nào đó để giảm chế nét dân dã lao động
và tăng dáng dấp sang trọng, khuê các. Thế là áo tứ thân được biến cải ở chỗ vạt
nửa trước phải nay lại được thu bé trở lại thành vạt con; thêm một vạt thứ năm be
bé nằm ở dưới vạt trước trở thành áo ngũ thân.


Ngoài ra còn áo dài Le Mor của một họa sĩ vào đầu thập niên 1930, áo dài Lê Phổ
của họa sĩ Lê Phổ được thiết kế vào năm 1934, áo dài với tay giác lăng vào thập
niên 1960, áo dài miniraglan danh cho các nữ sinh...
Khác với Kimono của Nhật Bản hay Hanbok của Hàn Quốc, chiếc áo dài Việt Nam
vừa truyền thống lại vừa hiện đại, có thể mặc ở mọi lúc mọi nơi: Dùng làm trang
phục công sở, đồng phục đi học, mặc để tiếp khách trang trọng trong nhà... Việc
mặc loại trang phục này không hề rườm rà hay cầu kì, những thứ mặc kèm đơn
giản: Mặc với một quần lụa hay vải mềm, dưới chân đi hài guốc, hay giày đều
được; nếu cần trang trọng (như trang phục cô dâu) thì thêm áo dài và chiếc khăn
đóng truyền thống đội đầu, hay một chiếc miền Tây tùy thích. Đây chính là điểm

đặc biệt của thứ trang phục truyền thống này.
Áo dài có thể nhiều màu nhưng có lẽ đẹp nhất vẫn là chiếc áo dài trắng thể hiện sự
thuần khiết của người phụ nữ Việt Nam. Trong trường học, không gì đẹp mắt và
thanh bình cho bằng mỗi sáng, từng nhóm nữ sinh trong bộ áo dài, thướt tha, xõa
tóc dài chạy xe đạp đến trường. Cũng nơi đó, những cô giáo, những người mẹ thứ
hai của các học sinh nhẹ nhàng đón rón những đứa con của mình trước giờ vào học
trong chiếc áo dài mới thực sự toát lên vẻ đằm thắm, và thương yêu. Trong những
dịp lễ Tết, chiếc áo dài lại thêm một lần nữa thấp thoáng trên các ngã tư đường
phố, cùng hoa va cảnh sắc của trời mới đất mới, khoe sắc ngày Tết. Áo dài giữa
phố đông chật chội người và xe, ồn ào náo động, làm dịu lại cảnh sắc và làm mát
lại những hồn người, làm cho ai đó phải quay lại ngắm nhìn dù chỉ một lần, dịu đi
cái khó chịu và u uất vốn có trong bản tính mỗi con người bận rộn.
Chiếc áo dài hình như có cách riêng để tôn lên nét đẹp của mọi thân hình. Phần
trên ôm sát thân nhưng hai vạt buông thật rộng trên đôi ống quần rộng. Hai tà xẻ
đến trên vòng eo khiến cho người mặc có cảm giác thoải mái, lại tạo dáng thướt tha
tôn lên vẻ nữ tính, vừa kín kẽ vì toàn thân được bao bọc bằng vài lụa mềm lại cũng
vừa khiêu gợi vì nó làm lộ ra sống eo. Chính vì thế, chiếc áo dài mang tính cá nhân
hóa rất cao, mỗi chiếc chỉ may riêng cho một người và chỉ dành cho người ấy,
không thể là một công nghệ "sản xuất đại trà" cho chiếc áo dài. Người đi may được
lấy số đo rất kĩ, khi may xong phải thử và chỉnh sửa lại thêm vài lần nữa thì mới
hoàn thiện được.
Thực vậy, trong các hội nghị quốc tế, ở hội thảo khoa học nhân kỉ niệm 100 năm
ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, một nữ học giả Mỹ đã vận một chiếc áo dài, và
mở đầu bài phát biểu của mình bằng một câu tiếng Việt: "Xin chào các bạn", cả hội
trường Ba Đình trang trọng khi đó bỗng tràn ngập một không khí thân thương trìu
mến. Trong hội nghị cấp cao APEC lần thứ 14 ở Việt Nam, áo dài đã được vinh dự


là trang phục chính cho các vị lãnh đạo nguyên thủ quốc gia của các nước mặc
trong buổi lễ bế mạc kết thúc hội nghị. Áo dài, như vậy có thể là đại sứ tinh thần

của văn hóa Việt, mang nước Việt Nam cùng hòa chung vào dòng kinh tế năng
động và nhiệt huyết trên thương trường thế giới, là một nét riêng của người phụ nữ
Việt nói riêng và cả dân tộc Việt nói chung.
Áo dài là hiện thân của dân tộc Việt, một vẻ đẹp mĩ miều nhưng đằm thắm, là một
phần tất yếu trong mỗi phụ nữ Việt, là đặc trưng cho một quốc gia có người phụ nữ
chịu thương chịu khó, luôn hy sinh, đứng phía sau để cổ động tinh thần cho nước
nhà, cùng nhau hòa nhịp và phát triển. Trải qua từng thời kì, từng giai đoạn cùng
với những diễn biến của quà trình lịch sử Việt Nam, tà áo dài Việt Nam luôn tồn tại
theo dòng thời gian, vẫn mãi sẽ là tâm hồn Việt, văn hóa Việt, là tinh thần Việt và
là trang phục truyền thống mang đậm tính lịch sử lâu đời của nước Việt ngàn năm
văn hiến.
Kín đáo, duyên dáng và gợi cảm là một trong những yếu tố đưa áo dài trở thành
niềm kiêu hãnh của người Việt. Không chỉ là cái áo nữa - chiếc áo dài đã trở thành
biểu tượng của trang phục phụ nữ Việt, tạo thành sản phẩm văn hoá vật thể truyền
thống không thể thiếu cho vẻ duyên dáng của người phụ nữ Việt.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×