Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Nghiên cứu văn bản tác phẩm như tây nhật kí của thiền sư thanh cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 112 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
---------------------------------

BÙI THỊ VÒNG
(Pháp danh THÍCH ĐÀM THỦY)

NGHIÊN CỨU VĂN BẢN TÁC PHẨM
NHƯ TÂY NHẬT KÍ CỦA THIỀN SƢ THANH CAO

LUẬN VĂN THẠC SĨ HÁN NÔM

HÀ NỘI - 2018


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
-----------------------------

BÙI THỊ VÒNG
(Pháp danh THÍCH ĐÀM THỦY)

NGHIÊN CỨU VĂN BẢN TÁC PHẨM
NHƯ TÂY NHẬT KÍ CỦA THIỀN SƢ THANH CAO

Ngành: HÁN NÔM
Mã số: 8.22.01.04


LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH HÁN NÔM
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐỖ THỊ BÍCH TUYỂN

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng:
- Luận văn Thạc sĩ này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của người hướng dẫn khoa học, chưa từng được công bố trong các
công trình của ai khác.
- Luận văn đã tiến hành nghiên cứu một cách nghiêm túc, cầu thị.
- Kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu khác đã được tiếp thu một
cách chân thực, cẩn trọng, có trích dẫn nguồn cụ thể trong luận văn.
Tác giả luận văn

Bùi Thị Vòng


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng tri ân tới TS Đỗ Thị Bích Tuyển, người hướng dẫn
khoa học đã tận tình hướng dẫn và chỉ bảo không chỉ trong giới hạn nghiên
cứu của đề tài luận văn, mà còn trong nhiều vấn đề khoa học khác.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới Ban Lãnh đạo Viện Nghiên cứu Hán Nôm,
Học viện Khoa học xã hội, thầy Nghiệp sư cùng chư tôn đức, các thầy cô, bạn
bè đã tạo điều kiện thuận lợi và động viên khích lệ trong suốt thời gian tôi học
tập và hoàn thành luận văn.
Tác giả luận văn cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thành viên trong các
Hội đồng đánh giá luận văn, bởi những góp ý của Hội đồng sẽ giúp tác giả

luận văn có những tiến bộ trên con đường học tập và nghiên cứu.
Tác giả luận văn

Bùi Thị Vòng


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

1

CHƢƠNG 1: THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP CỦA THIỀN SƢ 8
THANH CAO
1.1. Giới thiệu về Thiền sư Thanh Cao

8

1.2. Sự nghiệp khắc in kinh sách của Thiền sư

18

Tiểu kết

23

CHƢƠNG 2: KHẢO CỨU TÁC PHẨM NHƯ TÂY NHẬT KÍ

24


2.1. Bối cảnh đi sứ phương Tây triều Nguyễn và các tác phẩm ghi 24
chép hiện còn
2.2. Giới thiệu văn bản Như tây nhật kí

26

2.3. Một số đặc điểm văn tự và thể loại tác phẩm Tây hành nhật kí

42

Tiểu kết

49

CHƢƠNG 3: GIÁ TRỊ NỘI DUNG CỦA VĂN BẢN TÂY 50
HÀNH NHẬT KÍ
3.1. Tác phẩm thể hiện tư tưởng hòa nhập giữa đạo và đời của 50
Thiền sư Thanh Cao
3.2. Tinh thần ngoại giao và ý thức dân tộc khi đi sứ của Thiền sư 62
Thanh Cao
Tiểu kết

80

KẾT LUẬN

81

TÀI LIỆU THAM KHẢO


84


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thiền sư Thanh Cao (? - 1896) quê ở làng Mạc Xá huyện Nam Sách
tỉnh Hải Dương. Sinh thời ngài trụ trì ở chùa Đồng Nhân và chùa Đại Tráng
tỉnh Bắc Ninh, là người có công lớn trong việc hoằng dương Phật pháp và
xây dựng chùa chiền. Trong quá trình tu tập, Thiền sư vinh hạnh cùng đoàn
sứ thần gồm các quan Kinh lược sứ, quan Tổng đốc... được cử sang Pháp
xem đấu xảo và thực hiện các công việc của sứ đoàn vào năm Đồng Khánh
thứ 2 (1887). Vào thời điểm đó, việc một vị Thiền sư được tham gia vào
công việc nhà nước sang phương Tây dự xem đấu xảo và nhận được sự giao
lưu, đón tiếp nồng hậu của người Pháp là một sự kiện hiếm hoi. Chính vì thế
Thiền sư đã nhận được sự ngưỡng mộ của các bạn hữu và văn sĩ trí thức lúc
bấy giờ. Hành trình đi sứ và sự đưa tiễn quý mến của bạn bè đã được Thiền
sư ghi lại trong tác phẩm Như tây nhật kí 如西日記, trong đó có trước tác
thơ Nôm Tây hành nhật kí 西行日記 do chính Thiền sư biên soạn.Văn bản
tác phẩm đó được Thiền sư và các đệ tử tổ chức khắc in vào năm Thành
Thành thứ 3 (1891) tại cơ sở khắc in chùa Đồng Nhân, nơi ngài trụ trì. Hiện
nay, tại chùa Đồng Nhân tỉnh Bắc Ninh còn lưu giữ được một số hoành phi,
câu đối, của các văn sĩ, quan lại và sơn môn cùng thời và sau này ca ngợi,
tán thán công đức cùng sự việc đi sứ của ngài. Bên cạnh đó, tại chùa Đại
Tráng (chùa Cao) thành phố Bắc Ninh còn lưu giữ được tấm bia trong bảo
tháp của Thiền sư Thanh Cao. Tấm bia do đệ tử của Thiền sư lập, khắc ghi
tiểu sử, sự nghiệp của Thiền sư, cũng là cách tri ân công lao của ông với
vùng đất này và sự nghiệp hoằng dương Phật pháp buổi sinh thời.
Ngoài việc tu tập theo pháp môn trong giới và để lại sự truyền thừa đáng
kính nể, thì tập thơ đi sứ viết bằng chữ Nôm của Thiền sư để lại đến ngày nay


1


là một yếu tố đáng quan tâm trong sự nghiệp của một vị tu sĩ: nhà truyền đạo,
nhà thơ.
Hành trình chặng đường đi sứ được Thiền sư thuật lại bằng thơ Nôm đã
góp phần tìm hiểu về thân thế, hành trạng, quan điểm của một vị Thiền sư
với vấn đề đối ngoại của đất nước, cũng như trách nhiệm của một người tu
hành trong công cuộc hoằng dương Phật pháp, giữ gìn quốc thể.
Hiện nay, những tư liệu cổ ghi chép về Thiền sư còn lại không nhiều.
Chúng tôi lần theo những gợi ý của người đi trước, tra cứu trong kho thư tịch
cổ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, còn thấy được sự tận tâm đóng góp của
Thiền sư trong công việc tập hợp, hiệu chỉnh và khắc in bộ sách Hải thượng
Lãn ông y tông tâm lĩnh và đích thân ông đề lời dẫn cho việc duyên do khắc
in. Qua một số tư liệu thư tịch và hiện vật còn lại, qua tác phẩm Như tây
nhật kí, thân thế và sự nghiệp cũng như sự tán dương của bạn bè đồng hữu,
đệ tử với tài đức và sự tu trì hoằng dương Phật pháp nơi phương tây và trong
nước của ông dần được sáng tỏ.
Từ trước tới nay, chưa có nhiều bài nghiên cứu, giới thiệu về sự nghiệp
và trước tác của Thiền sư. Trong bản luận văn lần này, học viên chọn văn
bản tác phẩm Như tây nhật kí làm đề tài nghiên cứu với hy vọng góp phần
tìm hiểu và làm sáng tỏ thân thế sự nghiệp của Thiền sư Thanh Cao trong
bối cảnh lịch sử cuối thế kỷ XIX và sự đóng góp với việc nước, việc đạo một
cách trọn vẹn của Thiền sư, qua đó đánh giá giá trị của văn bản tác phẩm
trong kho tàng văn học dân tộc.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Nghiên cứu về Thiền sư Thanh Cao
Việc tìm hiểu, nghiên cứu về thân thế và sự nghiệp của Thiền sư
Thanh Cao tính tới thời điểm này có thể nói chưa nhiều. Qua quá trình tìm
hiểu sơ bộ, học viên nhận thấy có một số bài của tác giả Nguyễn Quang Khải

trên Tạp chí Phật học và trên trang wed của tỉnh Bắc Ninh, như Những tư

2


liệu quý tại chùa Đồng Nhân, Báo điện tử Bắc Ninh đăng ngày 26/01/2011.
Trong các bài viết này, tác giả chủ yếu dựa vào nguồn tư liệu tại thực địa và
phỏng vấn thực địa tại những ngôi chùa mà trước đây Thiền sư Thanh Cao
tu tập, cụ thể: 1/Hệ thống câu đối tại chùa Đồng Nhân: bao gồm những câu
đối tán thán Thiền sư, có niên đại, có đề tên người soạn; 2/Phỏng vấn nhà sư
trụ trì và người cao tuổi tại chùa Đồng Nhân và chùa Đại Tráng thành phố
Bắc Ninh. Những bài viết của tác giả Nguyễn Quang Khải đã ít nhiều muốn
làm sáng tỏ việc Thiền sư sang Pháp xem đấu xảo, nhưng qua cuộc đi đó đã
giảng truyền Phật pháp và xây chùa tại Pháp, qua đó đánh giá về hành trạng
sự nghiệp của Thiền sư. Ngoài ra, trong bài Công đức của một số vị Thiền sư
tiêu biểu đối với việc khắc văn, in kinh sách ở Bắc Ninh thế kỷ XVIII- XIX,
Tạp chí Nghiên cứu Phật học, số 3/2016, nhà nghiên cứu Nguyễn Quang
Khải cũng khẳng định công đức của Thiền sư trong việc tổ chức khắc in kinh
sách khi ngài trụ trì chùa Đại Tráng ở Bắc Ninh vào cuối thế kỷ XIX, cụ thể
là tổ chức quyên góp kinh phí để khắc ván in các bộ kinh điển Phật giáo (bộ
"Diệu pháp liên hoa kinh", "Dược sư", "Lương hoàng thủy sám", các sách
thuốc của danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác và một số sách thơ
văn.” [13]
Ngoài ra còn một số bài viết giới thiệu khác của ông về Thiền sư Thanh
Cao đăng trên các trang tin khác cũng nằm trong những nội dung đó.
Tác giả Việt Anh, trong bài Chữ Hán - Nôm trong giao lưu văn hóa
Việt - Pháp cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Tạp chí Hán Nôm, số 1/2008 có
chi tiết nhắc tới Hòa thượng Thanh Cao khi nhấn mạnh những nỗ lực của
người Việt cuối thế kỷ XIX đã tham gia những chuyến đi sứ sang Pháp để
xúc tiến giao lưu văn hóa với nước Pháp và nhiều quốc gia khác. Tác giả bài

viết cho rằng : Mặc dù triều đình Huế có những động thái chính trị bế quan
tỏa cảng thì nỗ lực của nhiều tầng lớp nhân dân Việt Nam vẫn tự nhiên diễn
ra. Họ, những người có cơ hội đặt chân đến Pháp, có thể là nhà nho học kỳ

3


cựu như Phan Thanh Giản (1796-1887), Phạm Phú Thứ (1820-1881), Ngụy
Khắc Đản (1817- 1878), Nguyễn Trọng Hợp ; có thể là người trẻ nhiều học
thức như Đặng Văn Nhã, Nguyễn Văn Đào ; hoặc là người nơi cửa Phật như
Hòa thượng Thanh Cao; hay là bậc trí thức-người tiên phong của nền văn
hóa mới như Trương Vĩnh Ký [3, tr.55-62]. Đây là những bằng chứng về sự
giao lưu văn hóa Việt - Pháp cũng như Pháp - Việt.
- Tác giả Lê Quốc Việt trong bài viết “Lưỡng Quốc Hòa Thượng - Như
Tây Thượng Nhân”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Giá trị mộc bản Hải Thượng
y tông tâm lĩnh giải pháp bảo tồn và phát huy, Bắc Ninh, 2018 cũng giới
thiệu về Hòa thượng Thanh Cao có công lao trong việc khắc in bộ sách Hải
Thượng y tông tâm lĩnh.
2.2. Nghiên cứu về văn bản tác phẩm Như tây nhật kí
Cho tới nay, học viên trong quá trình sơ bộ khảo sát tư liệu và tìm hiểu
thấy rất ít bài viết nhắc tới tác phẩm này. Sách Di sản Hán Nôm – Thư mục
đề yếu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm giới thiệu, Như tây nhật kí, kí hiệu
AB.541 là tác phẩm viết bằng chữ Nôm theo thể thơ lục bát, tác giả là nhà sư
Thanh Cao.
Ngoài ra tác giả Nguyễn Minh Đăng trong bài Hai văn kiện ngoại giao
viết bằng chữ Nôm, Tạp chí Hán Nôm, số 6/2008, khi giới thiệu về một số
văn kiện ngoại giao bằng chữ Nôm có đề cập đến tác phẩm Như tây nhật
kí如西日記 của Thiền sư Thanh Cao. Tác giả cho rằng thi thoảng mới thấy
được một số bài thơ hoặc bài ca lục bát thuật lại công việc đi sứ của các sứ
giả Việt Nam như Sứ trình tân truyện của Tiến sĩ Nguyễn Tông Khuê, Như

Tây nhật trình của Học giả Trương Vĩnh Ký… Như tây nhật kí của Thiền sư
Thích Thanh Cao là một trong số những trứ tác Nôm hiếm hoi đó, do vậy
đây là một tác phẩm giá trị có thể khai thác về nhiều mặt [7].
Hầu như các bài viết trên chưa khai thác, giới thiệu cụ thể về văn bản
tác phẩm thơ Nôm gắn với thân thế và sự hoằng dương Phật pháp của Thiền

4


sư, nhất là chặng đường đi Pháp tham dự đấu xảo của ngài. Như thế có thể
nhận thấy những nghiên cứu về giá trị của văn bản/tác phẩm Như tây nhật kí
của Thiền sư chưa được đặt ra và nghiên cứu một cách cụ thể và sâu rộng.
Chính vì thế, học viên đã lựa chọn để làm đề tài nghiên cứu trong bản luận
văn này nhằm làm rõ hơn thân thế, sự nghiệp cũng như quan điểm, tư tưởng
của Thiền sư trong việc hoằng dương và trì tụng Phật pháp trong và ngoài
nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Qua việc khảo sát văn bản tác phẩm Như Tây nhật kí góp phần tìm hiểu
về hành trạng của Thiền sư Thanh Cao và những đóng góp của Thiền sư với
sự nghiệp phát triển và hoằng dương Phật pháp ở trong và ngoài nước, qua
đó tìm hiểu về nội dung thơ đi sứ viết bằng chữ Nôm của ông.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nêu trên, đề tài tập trung giải quyết những nhiệm
vụ sau:
- Tìm hiểu thân thế, sự nghiệp của Thiền sư Thanh Cao qua các nguồn
tư liệu tại địa phương và ghi chép trong thư tịch.
- Mô tả, khảo dị văn bản Như tây nhật kí kí hiệu AB.541 và Tây hành
kí, kí hiệu AB.9 tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, qua đó học viên sẽ có nhận
định, đánh giá về văn bản thơ Nôm đi sứ của Thiền sư Thanh Cao.

- Phiên dịch, chú thích Tây hành nhật kí trong văn bản Như tây nhật kí
- Thông qua việc biên dịch đó, chúng tôi nghiên cứu các giá trị về nội
dung văn bản, góp phần giới thiệu tư tưởng nhập thế của Thiền sư với việc
nước và việc đạo, tình yêu quê hương đất nước và con người trên thế giới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

5


Văn bản tác phẩm Như tây nhật kí, kí hiệu AB.541 và đối chiếu với
bản Tây hành ký, kí hiệu AB. 9 hiện đang lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán
Nôm. Ngoài ra còn kết hợp khảo sát một số tư liệu Hán Nôm tại chùa Đồng
Nhân và chùa Đại Tráng, thành phố Bắc Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tiến hành nghiên cứu để tìm hiểu về thân thế sự nghiệp của
Thiền sư Thanh Cao trong bối cảnh cuối thế kỷ XIX. Bên cạnh đó là những vấn
đề chính phản ánh trong văn bản Như tây nhật kí như quan điểm, tư tưởng của
của một vị tu hành trước vấn đề ngoại giao và việc truyền bá đạo Phật trong bối
cảnh đương thời.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn vận dụng những tri thức tổng hợp về Văn bản học, văn hóa
học, tôn giáo học, văn tự học và nghiên cứu liên ngành để triển khai các vấn
đề trong từng chương của luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp văn bản học: Nghiên cứu, khảo sát văn bản, tác phẩm
Như tây nhật kí trong kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, nêu lên đặc
điểm văn bản và quá trình lưu truyền văn bản.
- Phương pháp thông diễn học (hay còn gọi là thuyên thích học) cũng

được sử dụng để diễn dịch văn bản Như tây nhật kí cũng như giải thích, giải
nghĩa, giúp chúng ta thấu hiểu văn bản sâu hơn.
- Phương pháp liên ngành nhằm nêu ra những giá trị lịch sử, giá trị văn
hóa, tôn giáo tín ngưỡng, v.v
- Kết hợp điều tra điền dã để thu thập tài liệu và khảo chứng thông tin.
- Các thao tác mô tả, thống kê

6


6. Đóng góp của đề tài
6.1. Về mặt lý luận
Góp phần tìm hiểu hành trạng của một vị Thiền sư từng nổi tiếng trong
lịch sử trong việc thể hiện ý thức trách nhiệm với vấn đề của đất nước, tư
tưởng gắn kết giữa tôn giáo với đời sống văn văn hóa xã hội và sự phát huy
trong xã hội Việt Nam ngày nay.
6.2. Về mặt thực tiễn
Thông qua việc nghiên cứu, khảo sát văn bản tác phẩm Như tây nhật kí
của Thiền sư Thanh Cao, luận văn nhằm góp phần cung cấp tư liệu để tìm
hiểu về giá trị nội dung của tác phẩm trong việc thực hành phương pháp tu
trì của Phật giáo, ứng biến trong các hoạt động/hoàn cảnh diễn ra trong đời
sống hàng ngày.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, phiên âm,
dịch nghĩa, luận văn gồm có 3 chương:
Chƣơng 1: Thân thế và sự nghiệp của Thiền sƣ Thanh Cao
Chƣơng 2: Khảo cứu tác phẩm Như tây nhật kí
Chƣơng 3: Giá trị nội dung của văn bản Tây hành nhật kí

7



Chƣơng 1
THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP CỦA THIỀN SƢ THANH CAO
Tư liệu ghi chép về thân thế và sự nghiệp của Thiền sư Thanh Cao hiện
nay còn lưu giữa được không nhiều và không cụ thể trong thư tịch. Bằng
việc khảo cứu tư liệu tại kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm và điều tra
thực tế tại chùa Đồng Nhân và chùa Đại Tráng, thành phố Bắc Ninh, chúng
tôi sẽ cố gắng phác họa hành trạng của Thiền sư và sự nghiệp cống hiến với
Phật pháp cùng sự nghiệp khắc in sách và kinh sách của ngài.
1.1. Giới thiệu về Thiền sƣ Thanh Cao
1.1.1. Thân thế của Thiền sư Thanh Cao
Chùa Đồng Nhân có tên chữ là Đồng Nhân tự 同人寺, thuộc thành phố
Bắc Ninh, gồm nhà tam bảo 7 gian nối liền với nhà khách 5 gian, tạo thế
vuông góc với hai ngôi nhà trên là 5 gian nhà tổ. Trong vườn chùa có 5 ngôi
tháp, trước sân nhà tam bảo có tượng Phật bà và một bia đá cổ. Trong chùa
hiện có 5 bức hoành phi và 15 đôi câu đối.
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Thạch trong bài viết Đồng Nhân Tự - đại
bản doanh của Tướng Nguyễn Cao, trên tạp chí Xưa và Nay, số 1 - 2006,
ngôi chùa được xây dựng năm 1877 sau khi Pháp tấn công Bắc Ninh lần thứ
nhất (1873), để làm nơi hương khói cho linh hồn các nghĩa binh được siêu
thoát. Năm 1882 nhân việc tướng Nguyễn Cao về trú quân tại chùa, nhà sư
trụ trì chùa là Thích Thanh Cao nhờ tướng Nguyễn Cao viết văn bia [23].
Cũng tại chùa Đại Tráng và chùa Đồng Nhân hiện còn lưu lại được
nhiều hiện vật/văn bản ghi chép về thân thế của Thiền sư Thanh Cao. Trong
quá trình điều tra thực tế tại hai ngôi chùa này, học viên may mắn được tiếp
cận những nguồn tư liệu quý giá, như hệ thống hoành phi câu đối, văn bia,
khoa cúng tổ được viết bằng chữ Hán. Mỗi nguồn tư liệu đều có những giá
trị quý giá riêng, bổ sung vào việc tìm hiểu thân thế của Thiền sư.


8


Thiền sư Thanh Cao người thôn Thanh Lâm, xã Mạc Xá, huyện Nam
Sách tỉnh Hải Dương, thuộc dòng dõi nho phong, chính tín xuất gia, tuổi nhỏ
vào đạo, đắc ấn tín từ Hoà Thượng chùa Vĩnh Nghiêm, minh tâm kiến tính,
làm sáng dòng thiền, làm con cháu kế đăng trụ trì chùa Đại Tráng, noi gương
người xưa sinh ra pháp thân, nuôi lớn tuệ mệnh, lập cao ánh mây lành, làm
tai mắt cho người sau, mưa rào mùa hạ gió ấm mùa đông dậy lời kinh báu
như ngôi sao bắc đẩu trên núi cho đệ tử, từng lời từng chữ như nhả ngọc
phun châu, uy nghi phép tắc đi lại nhẹ nhàng như áng mây, hiện vẻ uy lực
như hổ chúa, ngoài hiện vẻ sáng ngời thanh thoát như dải ngân hán, trong ẩn
tàng đức độ như tượng vương1.
Theo văn bản Khoa cúng tổ viết bằng chữ Hán hiện lưu giữ tại chùa
Đại Tráng cho biết, Thiền sư là Tỷ khiêu thế danh là Tam Tỉnh, tự Thanh
Cao, pháp danh Sinh Định Thích Không Không Luật sư2, Thiền sư là con
cháu đời thứ chín của Tào Động Nam truyền3, tức là con cháu đời thứ chín
của sơ tổ Thủy Nguyệt và thuộc đời thứ 44 phái thiền Tào Động. Theo Việt
Nam Phật giáo sử luận của tác giả Nguyễn Lang, ở Đàng Ngoài, Thiền phái

1

一心奉請,前回後異,夙願今生,托形骸於父母之精,假孕育於陰陽之氣,應以沙門
而得度,即於釋種於投機,海陽標单策神洲地鍾秀氣,莫舍已青林仁里係出儒風,正信出
家,弱冠入道…印永嚴尙之家風,明心見性,續焰傳燈,作大壯後昆之龜,鏡生法身,養慧
命,立群緇耳目之標霏,夏雨沛春,風示諸子斗山之望,言言金玊,字字珍珠,威肅風雲,儀
凜凜象王,外現氣高星漢,德堂堂獅子内藏”-nhất tâm phụng thỉnh, tiền hồi hậu dị, túc
nguyện kim sinh, thác hình hài ư phụ mẫu chi tinh, giả dựng dục ư âm dương chi khí, ứng
dĩ sa môn nhi đắc độ, tức ư thích chủng ư đầu cơ, hải dương tiêu Nam Sách thần châu đại
trủng tú khí, Mặc Xá dĩ Thanh Lâm Nhân Lí hệ xuất nho phong, chính tín xuất gia, nhược

quan nhập đạo… ấn Vĩnh Nghiêm hòa chi gia phong, minh tâm kiến tính, tục diệm truyền
đăng, tác Đại Tráng hậu côn chi qui, cảnh sinh pháp thân, dưỡng tuệ mệnh, lập quần truy
nhĩ mục chi tiêu phi, hạ vũ thị xuân, phong thị chư tử đẩu sơn chi vong, ngôn ngôn kim
ngọc, tử tử chân châu, uy túc phong vân, nghi lẫm lẫm tượng vương, ngoại hiện khí cao
tính hán, đức đường đường sư tử nội tạng”(Trích khoa cúng tổ chùa Đại Tráng)
2

单無青莫塔恩賜和尚磨訶比丘三省字清高法名生定釋空空律師 – Nam vô
Thanh Mặc tháp khoa cúng tổ chùa Đại Tráng ân tứ hòa thượng ma ha tỷ khiêu Tam Tỉnh
tự Thanh Cao pháp danh Sinh Định thích Không Không luật sư.
3

漕峒单傳第九宗- Tào Động Nam truyền đệ cửu tông- khoa cúng tổ chùa Đại Tráng.

9


Tào Động do Thiền sư Thủy Nguyệt đi du học Trung Hoa mang về. Thiền sư
hiệu là Tông Giác, sinh năm 1636, tên là Đăng Giáp, quê làng Thanh Triều,
huyện Hưng Nhân tỉnh Thái Bình. [14, tr.466]
Cũng theo Khoa cúng tổ của các đệ tử viết để cúng Thiền sư Thanh
Cao, ngài có ý chí xuất gia tu học từ thuở nhỏ, tu hành giảng truyền Phật
đạo tại chùa Linh Sơn hơn 30 năm, trên dưới hơn nửa chốn Bắc Giang đều là
đệ tử của Thiền sư4. Nhị khí: Tài thí pháp thí cả hai đều dung thông, ngụ
theo ý chỉ của Thiền Tào Động “trực chỉ nhân tâm kiến tính thành Phật” tu
hành để mượn phương tiện của Lâm Tế mà hóa độ chúng sinh: thấy đời bệnh
tật điều hòa dược thảo chữa bệnh cho dân, gặp lúc khốn khổ, chuyển gạo mì
giúp người đói khổ, khắc in nội điển, biên khắc y thư, xây dựng chùa cảnh
Đại Tráng để hoằng dương phật pháp5.
Hiện nay, tại chùa Đại Tráng còn một tấm bia ốp trong bảo tháp do các

môn đệ của ngài soạn khắc, ca ngợi sự nghiệp và công lao của ngài. Qua nội
dung văn bia càng thấy làm rõ thân thế của ngài.
Tháng 2 năm Đinh Sửu (1877) niên hiệu Tự Đức thứ 30, Thiền sư
Thanh Cao cùng quan viên thân hào hương lão trên dưới trong ngoài xã Đại
Tráng đứng ra khởi công, quy tập nghĩa chủng, nghĩa từ và khai sáng chùa
Đồng Nhân. Tháng 11 cùng năm thì hoàn tất chùa Đồng Nhân, chi phí mất

4

清高塔碑記尊師和尚,姓阮字三省,號清高,海東,莫舍.產也以簮嬰之閥翩,然出
家受戒,住錫古武山寺三十有餘年矣.間風搨定處石岸,聽法受經之下,北江諸寺院,半
出其間焉- Thanh Cao tháp bi kí tôn hòa thượng, tính Nguyễn tự tam tỉnh, hiệu Thanh
Cao, Hải Đông, Mạc Xá, sản dã dĩ trâmn cụ chi phiệt biên, nhiên xuất gia thụ giới, trụ
tích cổ Vũ Sơn tự tam thập hữu dư niên hỹ. Nhàn phong tháp định xứ thạch ngạn, thính
pháp thụ kinh chi hạ, Bắc Giang chư tự viện, bán xuất kì gian yên.
5

一心奉請,法財二施,福慧雙修,寓名禅於教之中,達有為於無為之福,病度世調和
樂草,救療沉疴,饑饉辰轉運稻梁濟諸貧乏重刊内典印宋經文輯刻醫書創修寺宇海上
懒翁- nhất tâm phụng thỉnh, pháp tài nhị thí, phúc tuệ song tu, thực danh thiền ư giáo chi
trung, đạt hữu vi ư vô vi chi phúc, bệnh độ thế điều hòa dược thảo, cứu liệu trầm kha, cơ
cẩn thời chuyển vận đạo lương tế chư bận phiếm động hình nội điển ấn tống kinh văn, tập
khắc y thư sáng tu tự vũ hải thượng Lãn ông” (Trích khoa cúng tổ chùa đại tráng)

10


hơn 3000 đồng cả việc trùng tu xây dựng tam bảo, tiền đường, tượng Phật.
Từ đó Thiền sư được mời về kiêm nhiệm trụ trì chùa Đồng Nhân để cầu siêu
độ vong linh nghĩa sĩ và hoằng dương Phật pháp tại đây.6

Như vậy có thể nhận thấy, khi tu tập trụ trì ở chùa Đại Tráng, Thiền sư
đã huy động công đức toàn dân để xây dựng chùa Đồng Nhân, mở đường
khai sáng và giác ngộ đệ tử và phật tử, vừa làm cơ sở để hoằng dương Phật
pháp. Ngay sau thời gian đó, chùa Đồng Nhân đã trở thành cơ sở để Thiền
sư thực hiện các công việc khắc in kinh sách.
Về năm ngài viên tịch, trong Khoa cúng tổ tại chùa Đại Tráng có ghi:
năm Giáp Ngọ hoa mai báo tiểu xuân, tuổi vừa hơn lục giáp, ngày 23 giữa
giờ ngọ đứng bóng mặt trời, cưỡi lưng lừa thẳng lên bốn núi, Thiền sư viên
tịch vào ngày 23 tháng 10 năm Giáp Ngọ niên hiệu Thành Thái thứ 7
(1896)7. Nhục thân Thiền sư nhập tháp tại khuôn viên lăng mộ tháp chùa Đại
Tráng thành phố Bắc Ninh, gọi tên là Thanh Mạc tháp.
Như vậy, các nguồn tư liệu tại chùa Đồng Nhân và Đại Tráng đã giúp
chúng ta có cái nhìn rõ hơn về thân thế của Thiền sư Thanh Cao.
1.1.2. Sự nghiệp hoằng dương Phật pháp của Thiền sư Thanh Cao
Thiền sư vốn xuất thân từ dòng dõi nho phong, lại chính tín xuất gia từ
nhỏ, đắc tâm ấn từ Hòa Thượng Vĩnh Nghiêm, là con cháu đời thứ 9 của
Thiền phái Tào Động, làm sáng rạng dòng sơn môn. Tại chùa Đồng Nhân
(Bắc Ninh) còn đôi câu đối treo tại nhà tổ, nội dung nói rõ về thân thế của
ngài như sau:
五百餘戒法傳持心誠樂道
九重上牒刀蠪賜喜溢同人8
Ngũ bách dư giới truyền trì tâm thành lạc đạo,
6

Bia hiện vật hiện ốp trong bảo tháp tại bảo tháp chùa Đồng Nhân

7

Khoa cúng tổ chùa Đại Tráng


8

Tỷ khiêu ni Đàm Nghiêm tặng, câu đối thờ tại nhà tổ chùa Đồng Nhân

11


Cửu trùng thượng điệp đao tứ dương hỷ dật đồng nhân.
Tạm dịch là:
Hơn 500 giới pháp trao truyền dốc lòng thành niềm vui với đạo pháp,
Chín tầng giới đao độ điệp, niềm vui vì được ban ơn cho mọi người khắp
chốn.
Thiền sư truyền trao cho đệ tử tứ chúng theo giới luật với mục đích rốt
ráo là người xuất gia từ thân giáo đến khẩu giáo, biểu hiện từ tứ oai nghi để
hoằng pháp bằng thân giáo của mình. Đó cũng là phương pháp tu trì và
truyền dạy của Thiền sư thuở sinh thời hành đạo.
Niềm vui giải thoát trong con đường chính pháp mà Thiền sư Thanh
Cao đã trao truyền cho đệ tử xuất gia tại gia hơn 30 năm trụ trì lên tòa thuyết
pháp, hơn nửa các chùa Bắc Giang là đệ tử giác ngộ nghe pháp từ Ngài:
“住錫古武山寺三十有餘年矣.間風搨定處石岸,聽法受經之下,北江
諸寺院,半出其間焉”
Tự giác ngộ, bước chân vào cửa thiền môn, Thiền sư luôn ôm giấc
mộng giúp đời thoát khổ, nên dùng trí tuệ và lòng từ bi của mình diễn thuyết
kinh văn độ khắp quần mê không mệt mỏi.
Tuổi trẻ ôm hoài bão nguyện mang tài danh của mình để giúp người
giúp đời, nhưng chợt nhận ra cái vòng danh lợi của thế gian cũng chỉ là ràng
buộc của ba kiếp:
栽器宇住单如西遊兩國荣褒此會
壮爾襟懷超塵出世三生夢覺个關9
Tài khí vũ trụ nam như tây du lưỡng quốc vĩnh bao thử hội;

Tráng nhĩ khâm hoài siêu trần xuất thế tam sinh mộng giác cơ quan.
Tạm dịch là:

Mùa đông Thành Thái năm thứ 4 (1892) Chiêu Phủ sứ họ Lê tỉnh Thanh Hóa tặng.
Câu đối tại chùa Đồng Nhân.
9

12


Tài năng trùm khắp từ nước Nam đến nước Pháp, hai nước đều vinh
danh vào hội ấy;
Lúc tuổi thanh xuân đã ôm lòng siêu trần xuất thế, giấc một tam sinh
chợt mở ra.
Hiểu được lẽ đời từ thuở nhỏ nên Thiền sư tu tập từ thân giáo của mình,
chính thân giáo là một bài Pháp cho chúng đệ để học hành theo. Không những
thế những lời pháp nhũ được truyền trao từ khẩu giáo của Ngài mưa tuôn như
pháp vũ:
覺了色空即修書海上即說法西庭四大雲烟開俗障
曡蒙荣贈若銀錢垂綏若戒刀度牒九天雨露及山門10
Giác liễu sắc không, tức tu thư hải thượng, tức thuyết pháp tây đình, tứ
đại vân yên khai tục chướng,
Điệp mông vinh tặng, nhược ngân tiền thùy tuy, nhược giới đao độ
điệp, cửu thiên vũ lộ cập sơn môn.
Tạm dịch nghĩa:
Hiểu hết được các lẽ sắc không, khi thì soạn sách y thư Hải Thượng,
khi thuyết pháp bên Tây, đi đứng như khói mây liền hiểu ra nghiệp chướng,
Không gì rộng bằng lá điệp, tiền bạc chẳng bằng ai, mà giảng về điệp
độ qua chín nghìn đường mưa gió để đến được sơn môn.
Không những giảng giải về kinh luật luận mà bằng trí tuệ chủng chủng

phương tiện, Thiền sư mang ánh sáng Phật pháp hòa vào đời theo hạnh
nguyện tự giác giác tha. Hạnh nguyện độ sinh của Thiền sư được ca ngợi với
các vị trí khi là Thiền sư lên tòa thuyết pháp, khi thì hiện thị bằng phương
tiện độ đời cứu người thần dược, đạo đời độ cả trong phương tiện đại thừa.
Chính vì thế, Thiền sư được ban tặng nhiều danh hiệu đặc biệt:
升堂說法多年爲禪師爲名儒爲良醫大道蘊藏原自冨
賽會進書双賞有星佩有龍錢有刀牒此辰遭際更奇觀

10

Mùa xuân Thành Thái thứ 4 (1892) Hàn lâm kiểm thảo nhân mục Lê Sĩ Phong
kính tặng

13


Thăng đường thuyết pháp đa niên, vi Thiền sư, vi danh nho, vi lương y,
đại đạo uẩn tàng nguyên tự phú,
Tái hội tiến thư song thưởng, hữu tinh bội, hữu long bài, hữu đao điệp,
thử thời tào tế cánh kỳ quan.
Tạm dịch:
Lên giảng đường thuyết pháp nhiều năm, là Thiền sư, là danh nho, là
lương y, đạo lớn cất đầy, trong lòng tự chứa sẵn;
Dâng thư được phong thưởng hai lần: có Bội tinh, có Long bài, có đao
điệp, ngày đạt được vị trí đó thật là lạ. (Mùa xuân năm Thành Thái thứ 4
(1892), pháp tử Thành Vực xã Dĩnh Kế phủ Lạng Giang chúc mừng).
Không những hoằng dương Phật pháp độ cho nhân sinh thoát khổ,
Thiền sư còn mở rộng tông phong xây dựng Đồng Nhân để cầu siêu độ vong
linh, oan hồn được oan ủi mà siêu thoát: Gom xây nghĩa mộ, lập miếu nghĩa,
cứu đời giúp người, vô vàn công đức thù thắng. Sự việc này còn được ghi rõ

trong khoa cúng tổ do sư đệ tử Thiền sư viết để cúng Ngài:
大承不拘小執,隨機開方便之門,逆行無非順行,身敎而承言敎,所居何
陋,道可行蠻貊之邦,望報者深,吾無愛髮膚之利,巧場賽會西方傳拔卒之能
Nghĩa là: Đại thừa không câu chấp, tùy căn cơ mà khai mở cánh cửa
lớn, đi ngược không bằng không đi thuận, thân giáo chính là ngôn giáo, chỗ
ở sao mà nhỏ hẹp tăm tối, đạo nên lưu hành tới chỗ man di, ân mãi được đáp
sâu, ta chẳng ưa lời da tóc, trường Tây đấu xảo nên truyền cho kẻ tài cán
siêu quần.11
Chi tiết này cũng được ghi rõ trong văn bia trên bảo tháp của ngài.
Thiền sư Thanh Cao đã mở bày phương tiện chuyển bánh xe lớn nơi
phương trời Tây. Tự nhận mình là người khiêm tốn, thấy trách nhiệm của
mình với Phật pháp mà nhận lời đi đấu xảo, ngài đã không quản ngàn dặm

11

Khoa cúng tổ sư chùa Đại Tráng

14


xa xôi cách trở lênh đênh trên biển khơi sang đất người cũng với chí siêu
phàm phương tiện vì Phật sự. Cho nên sau chuyến đi đấu xảo sang Tây 1889
trở về được người đời phong tặng là Thƣợng nhân nhƣ Tây đồng thời được
phong tặng Lƣỡng quốc hòa thƣợng12 cùng ban cho ngân bội và tên tuổi
được biết đến nơi ngoại quốc, làm cho thiền gia lừng lẫy tiếng gia phong,
xứng đáng với tên gọi con cháu chín đời Tào Động. Hiện nay tại chùa Đồng
Nhân thành phố Bắc Ninh còn lưu giữ bức đại tự này.

Trong bản Như tây ký, kí hiệu AB.9 hiện lưu giữ tại Viện Nghiên cứu
Hán Nôm, có đôi câu đối:

求經北國當初祖
奉命如西第九孫
Cầu kinh Bắc quốc đương sơ tổ
Phụng mệnh như tây đệ cửu tôn13
Tạm dịch:
Cầu kinh nơi phương Bắc là sơ tổ Thủy Nguyệt;
Nhận mệnh đi Tây là cháu đời thứ chín của phái Tào Động.
Như vậy, qua đôi câu đối này, có thể nhận thấy, sư tổ Thủy Nguyệt là sơ
tổ của phái Tào Động đã sang Trung Quốc học đạo (vào thế kỷ XVII). Đến

12

两國和尙 Lưỡng quốc hòa thượng- Hòa thượng hai nước. Bức hoành phi thờ ở
gian giữa nhà thờ tổ chùa Đồng Nhân
13

求經北國當初祖/奉命如西第九孫 câu đối thờ tại chùa Hòe Nhai, Hà Nội và
được ghi trong Tây hành kí AB.9

15


cuối thế kỷ XIX, sư đệ của ngài là Thiền sư Thanh Cao lại có nhân duyên hải
ngoại, nhưng ở tầm đại sự quốc gia - đi sứ sang Tây.
Theo sách Thiền sư Việt Nam của Hòa thượng Thích Thanh Từ soạn
dịch năm 1995 và sách Tào Động tông Nam truyền tổ sư ngữ lục do Thích
Tiến Đạt dịch năm 2015 có viết về Thiền sư Thủy Nguyệt như sau:
Thiền sư sinh năm Đinh Sửu (1637), quê ở Thanh Triều, huyện Ngự
Thiên, phủ Tiên Hưng, đạo Sơn Nam, nước An Nam (nay thuộc thôn Thanh
Triều, xã Tân Lễ, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình), Ngài là con trai của nhà

họ Đặng. Lớn lên, Ngài theo học Nho giáo, đến năm 18 tuổi Sư thi đỗ Cống
cử tứ trường. Năm 20 tuổi, Ngài chán cảnh đời bon chen xô bồ, bọt bèo dâu
bể nên đã đi tu theo các Thiền sư. Ngài bỏ nghiệp Nho, rời bỏ chốn quan
trường tìm đến chùa ở xã Hổ Đội huyện Thụy Anh (nay thuộc thôn Hổ Đội,
xã Thụy Lương, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình) xin xuất gia học đạo. Sư
ở đây sáu năm học tập các kinh sách nhưng chưa thỏa mãn nên đã xin phép
thầy trụ trì đi du phương tham vấn. Ngài đi rất nhiều nơi, tham vấn các bậc
tôn túc ở trong nước nhưng mà tâm vẫn chưa sáng đạo. Năm 28 tuổi, Ngài
đã quyết chí sang bên Trung Quốc tầm học... [31]
Đến cháu đời thứ 9 của phái Tào Động là Thiền sư Thanh Cao đã mang
ánh sáng phật pháp đến với đất nước phương Tây xa xôi. Thời bấy giờ
không phải ai cũng có đủ trí tuệ và lòng từ bi vì quần sinh rộng lớn mà làm
được điều đó.
進書賽會两承恩禪林韻事
单住西遊雙上選和尚高風14
Tiến thư tái hội lưỡng thừa ân thiền lâm vận sự,
Nam trụ Tây du song thượng tuyển hòa thượng cao phong.
Tạm dịch:

14

Thành Thái năm thứ 4 (1892) Vũ Huy Tế, Bố chính sứ tỉnh Tuyên Quang tặng

16


Dâng thư cảm tạ mở hội đã hai lần hưởng ân lớn, cảnh chùa ban phúc,
Ở Việt Nam sang nước Pháp, hai vua đều tuyển chọn là Hòa Thượng
Cao Phong.
Trong nhà thờ Tổ chùa Đồng Nhân hiện nay treo đôi câu đối ca ngợi

rằng:
交情貓記得三十八年前而今僧新牒拙新陛無非夙定
奇氣蓋多籍幾千萬里外到處海遊西皿遊北其道高禪
Giao tình mưu kí đắc tam thập bát niên tiền nhi kim tăng tân điệp
chuyết tân bệ vô phi túc định;
Kì khí cái đa tịch cơ thiên vạn lí ngoại đáo xứ hải du tây mãnh du Bắc
Kì đạo cao thiền
Hưng lộc tự thiếu khanh Bắc Ninh tỉnh thương tả Nguyễn Văn Nhã
trang phụng. Thành Thái tứ niên đông
Tạm dịch :
Mối tình giao hảo ghi lại lúc ba mươi năm trước và bây giờ vị tăng mới
nhận được giới điệp, sự vụng về mới nhận chức không thể không đủ định
lực;
Khí phách kì lạ bao trùm khắp sách vở, trải qua muôn ngàn dặm ngoài
đến biển khơi, du hóa từ phương Tây đến phương Bắc, ở đâu ngài cũng giữ
được cốt cách thanh cao chốn Thiền môn.
Hưng lộc tự thiếu khanh Thương tá tỉnh Bắc Ninh là Nguyễn Văn Nhã
kính tiến. Mùa đông năm Thành Thái thứ 4 (1892)
Hoằng dương Phật pháp đến nơi đạo pháp còn ít lan tỏa thật là một
công lao siêu phàm trong việc nối tổ truyền tông của tông môn Tào Động.
Qua những lời chúc tụng tiễn tặng của bạn bè trong chuyến đi tham dự đấu
xảo cho chúng ta thấy Thiền sư Thanh Cao là người thông tam tạng để ứng
dụng phương tiện quyền xảo vào đời như thế nào:

17


補陀禪犮之祝賀

Bổ đà thiền bạt chi chúc hạ


靈山雄大壮竒觀

Linh sơn hùng đại tráng kì quan

鬪巧西邊達帝關

Đấu xảo tây biên đạt đế quan

仰仗慈尊全福力
一過透脫萬重般

Ngưỡng trượng từ tôn toàn phúc lực
Nhất quá thấu thoát vạn trùng ban


Tạm dịch:
Lời bạt chúc mừng của chùa Bổ Đà
Chùa Linh Sơn rộng lớn kì quan đẹp
Chuyến đấu xảo bên phương tây như đặt chân đến cổng trời
Ngưỡng trông đức Từ Tôn tròn phúc lực
Một lần đạt đến cảnh giải thoát vạn lần vui.
Nhận mệnh đi Tây là một con đường đi khai mở Phật pháp, đem ánh
sáng Phật pháp đến những nơi chân trời còn chưa bừng tỉnh, để rồi nhà sư
đạt được miền vui của lòng vị tha được cống hiến cho đạo pháp, mang lại an
vui cho nhân loại. Nhiều lần hóa thành hóa hiện để dụ người vào đạo, nhưng
Bảo sở có đến được hay không, có đạt được hay không chỉ có niềm vui đích
thực của người giải thoát mới cảm nhận được.
1.2. Sự nghiệp khắc in kinh sách của Thiền sƣ
Hơn 30 năm trụ trì tại chùa Đại Tráng, Thiền sư Thanh Cao đi thuyết

pháp độ sinh khắp các vùng, khai mở xây dựng hưng long chốn tổ Đồng
Nhân, trên dưới quan lại đến dân thôn đều mến đạo của Ngài. Đồng thời với
việc hoằng dương Phập pháp được vinh danh “Lưỡng quốc Hòa thượng”,
Thiền sư còn tổ chức, kêu gọi quyên góp thành lập tổ in khắc nội điển và
ngoại điển góp phần lưu truyền được các bộ kinh Phật và các bộ sách lưu
truyền đến ngày nay.
Theo một số tư liệu và một số bài báo ghi lại Thiền sư cho khắc in các
bản kinh như: Lương Hoàng sám pháp kinh梁皇懺法經, Diệu Pháp Liên

18


Hoa kinh妙法蓮華經, Dược Sư kinh藥師經…. Cũng theo thông tin điều tra
điền dã của chúng tôi tại chùa Đại Tráng, nhà sư trụ trì cho biết tại chùa tàng
bản khoảng chừng trên 200 bản văn khắc với các kinh: Nhất vạn tam bách
kinh一萬三百經, tứ thiên cửu bách kinh四千九百經, cửu thiên nhất bách
kinh九千一百經, nhất thiên thứ bách kinh 一千次百經, dĩ thượng
以上一萬佛經nhật vạn Phật kinh, Long Hoa tam hội Phật龍華三會佛, nhất
thập phương tăng già cúng kinh一十方僧伽供經… với số lượng ván khắc
các bộ kinh rất lớn.
Việc khắc in đó là công lao tâm huyết của Thiền sư đã kêu gọi người có
của người có công, phát tâm công đức tiến cúng cho việc khắc in này. Đó
cũng thể hiện sự quan tâm, ủng hộ của các chính quyền và các vị quan lại,
bạn hữu trong việc việc quyên góp tiền của của nhân dân thập phương để in
khắc kinh điển.
Thông qua đó, lại thấy vị thế quan hệ của vị Thiền sư với xã hội, không
những làm an lòng dân, còn có uy tín với các cấp chính quyền và có khả
năng vận động quần chúng đóng góp tiền của để khắc in kinh văn trong
khoảng thời gian dài. Điều này có thể nhận thấy, Thiền sư đã phải thật uyển
chuyển phương tiện giữa đạo và đời để thực hiện những ý nguyện của mình.

Đặc biệt Thiền sư còn có công lao to lớn trong việc khắc in toàn bộ tập
Hải thượng y tâm tông lĩnh 海上懶翁醫宗心領 của Hải Thượng Lãn Ông
Lê Hữu Trác biên soạn. Nhân duyên xuất phát điểm cho việc khắc in tập y
thư lớn này là do Thiền sư có thân bệnh và liên hệ với lời Phật dạy, trong
kinh điển nhà Phật có bộ “kinh dược sư 經藥師” dậy việc nguyên do và cách
chữa bệnh. Thiền sư có nhắc lại trong lời tiểu dẫn: “không thầy không thuốc
bệnh không thuyên giảm, có người mang sách thuốc đến giới thiệu Thiền sư
tự nghiêm cứu để chữa bệnh cho mình, thấy bệnh thuyên giảm...” thấy sách
hay nên Thiền sư cho khắc in. Với tập sách y thư gồm 65 quyển, hiện nay tại

19


bảo tàng Bắc Ninh lưu trữ 1191 đơn vị mộc bản15. Còn hiện tại Viện Nghiên
cứu Hán Nôm còn lưu giữ được các bản in do chính Thiền sư Thanh Cao
cho tổ chức khắc in và viết lời tựa. Bài lời đề dẫn nói về duyên do khắc in bộ
sách này được in trong tập sách海上懶翁醫宗心領全集, kí hiệu A.90, Viện
Nghiên cứu Hán Nôm. Bài tựa có đoạn dịch nghĩa như sau:
Lãn Ông sinh ra ở đất đó, nghiên cứu kỹ về việc chữa trị, cho nên về
phương diện tuyên ngôn và viết sách, phần đa đều rất thâm ý. Còn lại sự
phân tích về thuỷ- hoả, âm- dương, bàn luận về tính hư- thực bên trong, đều
đúc kết lại từ các nhà, phát lộ chưa từng phát lộ của người xưa. Soi xét thuật
người xưa, rạng rỡ bậc danh y nước Nam, thơ văn đạo nghĩa, dần dà thành
cảnh giới thời thịnh Đường. Chỉ đáng tiếc nhất là, cục thế dâu bể, sách tản
mạn mất nhiều. Nếu không cho khắc ván thì chẳng mấy trở thành quyển thì
què trang quyển thì rách, tai mắt ta nếu có dịp nhòm ngó đến, thì còn có ích
gì nữa. Quãng thời gian đó, tăng tôi định cho khắc in lưu hành rộng rãi
trong nước, nhưng lo sức mình không đủ mà cứ cố làm, thêm nữa chùa bận
bụi, kinh điển khắc in còn chưa xong, nên công việc phải lùi lại mất 10 năm
vậy.16

Bộ sách y thư của Hải Thượng Lãn Ông biên soạn viết bằng tay trong
vòng 30 năm, nhân duyên tìm hiểu của Thiền sư Thanh Cao được một người
cho xem 51 quyển, hàng ngày Thiền sư mở ra xem thấy thâm thúy y thư, tập
sách cứu người, sau sưu tập thêm, mời người hiệu đính, quyên góp tiền kinh
phí, cho khắc in trong vòng gần 10 năm mới xong. Một việc lớn lao như vậy
được Thiền sư dụng công thực hiện mười năm trời mới xong.

15

Nguyễn Thị Trọng, Giám đốc bảo tàng tỉnh Bắc Ninh, Báo cáo đề tài hội thảo
khoa học giá trị di sản mộc bản Hải Thượng y tông tâm lĩnh giải pháp bảo tồn và phát
huy, Bắc Ninh, 2018.
16

Tham khảo bài dịch của nhà nghiên cứu Lê Quốc Việt, trong Hội thảo sách thuốc
Hải thượng Lãn Ông, do Bảo tàng Bắc Ninh tổ chức năm 2018.

20


×