Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền theo pháp luật môi trường việt nam tóm tắt luận án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (455.34 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUÂT TP. HỒ CHÍ MINH

VÕ TRUNG TÍN

NGUYÊN TẮC NGƯỜI GÂY Ô NHIỄM
PHẢI TRẢ TIỀN THEO PHÁP LUẬT
MÔI TRƯỜNG VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 9.38.01.07

HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHẠM HỮU NGHỊ


TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC


Công trình được hoàn thành tại: Trường Đại Học Luật TP.
Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Hữu Nghị
Phản biện 1: .................................................................................................................................
Phản biện 2: .................................................................................................................................
Phản biện 3: .................................................................................................................................
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp
Trường tại......................................................................................................................................
Vào lúc ngày tháng


năm

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện Trường Đại học Luật
TP. Hồ Chí Minh, số 2 Nguyễn Tất Thành, Quận 4 hoặc
Thư viện Khoa học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền” (hoặc “người

gây ô nhiễm phải trả giá”, “người gây ô nhiễm phải trả” – Polluter
Pays Principle), đã trở nên phổ biến tại nhiều nước trên thế giới
trong những năm gần đây, khi vấn đề môi trường đang ngày càng
trở thành mối quan tâm hàng đầu đối với sự phát triển bền vững
của hầu hết các quốc gia. Khi con người nhận thức được rõ hơn
rằng hoạt động sản xuất của nền kinh tế thế giới đang ngày càng
gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, tác động tiêu cực đến điều
kiện sống của toàn nhân loại, thì nguyên tắc người gây ô nhiễm
phải trả tiền được xem như là một nguyên tắc thể hiện việc áp
dụng công cụ kinh tế để quản lý và giải quyết các vấn đề môi
trường.
Trong bối cảnh hiện nay, việc nghiên cứu một cách khoa

học và có hệ thống các vấn đề lý luận của nguyên tắc người gây
ô nhiễm phải trả tiền, các quy định pháp luật thể hiện và thực hiện
nguyên tắc, từ đó tìm ra giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định
pháp luật môi trường và cơ chế triển khai thực hiện có hiệu quả
nguyên tắc này ở Việt Nam là rất cần thiết. Vì thế, tác giả chọn
đề tài “Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền theo pháp
luật môi trường Việt Nam” làm Luận án tiến sĩ luật học trong
chương trình đào tạo nghiên cứu sinh của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài luận án là luận giải và
làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn của nguyên tắc

người gây ô nhiễm phải trả tiền. Từ đó, đề xuất các giải pháp
hoàn thiện pháp luật để bảo đảm thực hiện có hiệu quả nguyên
tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền, đáp ứng yêu cầu phát triển
bền vững và hội nhập quốc tế của quốc gia Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của nguyên tắc
người gây ô nhiễm phải trả tiền; phân tích mối quan hệ giữa
nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền với các nguyên tắc
khác của luật môi trường.


2

Thứ hai, phân tích, đánh giá các quy định pháp luật thể hiện
và thực hiện nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền; phân
tích, đánh giá thực tiễn thực hiện nguyên tắc người gây ô nhiễm
phải trả tiền ở Việt Nam.
Thứ ba, đề xuất định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp
luật nhằm bảo đảm thực hiện nguyên tắc người gây ô nhiễm phải
trả tiền ở Việt Nam.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền có thể được
tiếp cận ở nhiều góc độ. Trong khuôn khổ Luận án thuộc ngành
luật học, tác giả tập trung nghiên cứu khía cạnh pháp lý của

nguyên tắc này. Với cách tiếp cận này, đối tượng nghiên cứu của
Luận án là những vấn đề lý luận của nguyên tắc người gây ô
nhiễm phải trả tiền, các văn bản quy phạm pháp luật của Việt
Nam về môi trường liên quan đến nguyên tắc người gây ô nhiễm
phải trả tiền và thực tiễn áp dụng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ Luận án, tác giả khai thác các văn bản
nguồn của luật môi trường từ cách tiếp cận về đối tượng điều
chỉnh của luật môi trường (là những quan hệ phát sinh trực tiếp
trong việc khai thác, quản lý và bảo vệ môi trường). Do vậy, các
văn bản nguồn này bao gồm các văn bản về bảo vệ môi trường
và các văn bản về khai thác, quản lý các yếu tố môi trường.

Trong luận án này, tác giả chọn các hình thức: thuế bảo vệ
môi trường, thuế tài nguyên, phí bảo vệ môi trường đối với nước
thải, bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường để phân tích.
Bên cạnh đó, tác giả cũng đề cập một số quy định nhằm đảm bảo
thực hiện có hiệu quả nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền
như các quy định về tuyên truyền, giáo dục; chế tài hành chính;
chế tài hình sự.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin với chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời, Luận án cũng dựa trên
cơ sở các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển



3
bền vững, về bảo vệ môi trường, về đường lối phát triển kinh tế
- xã hội, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế triển
khai thực hiện pháp luật.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả Luận án sử dụng nhiều
phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: phương pháp hệ
thống, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp luật học
so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp lịch sử cụ thể, đặc
biệt là phương pháp phân tích quy phạm pháp luật.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận án

Luận án là công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu ở
Việt Nam, là Luận án tiến sĩ đầu tiên nghiên cứu dưới góc độ
pháp lý về nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền.
Luận án đề xuất giải pháp để hoàn thiện và tiếp tục xây
dựng các quy định pháp luật môi trường nhằm thực hiện có hiệu
quả nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền. Ở góc độ này,
Luận án có thể đóng góp về mặt thực tiễn trong việc áp dụng các
biện pháp sử dụng có hiệu quả nguồn tài chính cho hoạt động bảo
vệ môi trường.
6. Dự kiến những đóng góp mới của Luận án
Thứ nhất, Luận án là công trình khoa học độc lập đánh giá
được tình hình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước có

liên quan đến nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền. Trên
cơ sở đó đề ra được mục đích và phạm vi nghiên cứu hợp lý nhằm
giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn về nguyên tắc người
gây ô nhiễm phải trả tiền mà các công trình trước đó chưa nghiên
cứu hoặc nghiên cứu chưa đầy đủ.
Thứ hai, Luận án phân tích, làm sáng tỏ các vấn đề của
nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền từ bối cảnh ra đời, nội
dung đến mục đích, yêu cầu của nguyên tắc. Đây là cơ sở lý luận
để phân tích, đánh giá việc áp dụng nguyên tắc người gây ô nhiễm
phải trả tiền ở Việt Nam.
Thứ ba, Luận án phân tích, làm rõ bản chất nguyên tắc
người gây ô nhiễm phải trả tiền đặt trong mối liên hệ với các

nguyên tắc khác của luật môi trường. Mỗi nguyên tắc quy định
và thể hiện ở những phương diện, lĩnh vực và phạm vi khác nhau
tạo nên hệ thống các nguyên tắc của luật môi trường.


4
Thứ tư, Luận án phân tích các hình thức chủ yếu thực hiện
nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền theo pháp luật môi
trường Việt Nam, có so sánh với một số nước. Từ đó, chỉ ra
những điểm mạnh và những hạn chế, bất cập trong các quy định
pháp luật môi trườngViệt Nam liên quan đến các hình thức thực
hiện nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền.

Thứ năm, Luận án đề xuất định hướng và giải pháp hoàn
thiện pháp luật môi trường nhằm thực hiện có hiệu quả nguyên
tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền. Những giải pháp được đưa
ra đảm bảo tính khoa học và có giá trị tham khảo về lý luận và
thực tiễn. Đặc biệt là việc ghi nhận nguyên tắc người gây ô nhiễm
phải trả tiền trong Luật Bảo vệ môi trường, tiến tới xây dựng Bộ
luật Môi trường, giao thẩm quyền quản lý chuyên ngành về tài
nguyên và môi trường cho Bộ Tài nguyên và Môi trường một
cách rõ ràng, minh định.
7. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo
và Phụ lục, nội dung của Luận án bao gồm 4 Chương sau đây:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý
thuyết của đề tài
Chương 2: Những vấn đề lý luận về nguyên tắc người gây
ô nhiễm phải trả tiền
Chương 3: Thực trạng thực hiện nguyên tắc người gây ô
nhiễm phải trả tiền theo pháp luật Việt Nam
Chương 4: Nhu cầu, định hướng và giải pháp hoàn thiện
pháp luật môi trường Việt Nam nhằm đảm bảo thực hiện nguyên
tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
1.1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu dưới góc độ kinh tế - môi
trường


5
Bao gồm một số công trình như: Sách Quản lý môi trường
bằng công cụ kinh tế của tác giả Trần Thanh Lâm, sách chuyên
khảo Kinh tế hóa lĩnh vực môi trường: Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn do Phạm Văn Lợi chủ biên, sách Các công cụ kinh tế

trong quản lý môi trường – kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn áp
dụng ở Việt Nam do Đỗ Nam Thắng chủ biên, giáo trình Kinh tế
môi trường của Hoàng Xuân Cơ, giáo trình Kinh tế môi trường
do Nguyễn Mậu Dũng, Vũ Thị Xuân Thụy chủ biên, giáo trình
Kinh tế môi trường do Lê Quốc Lý chủ biên, bài viết “Áp dụng
công cụ kinh tế trong quản lý môi trường” của tác giả Nguyễn
Thế Chinh trong Tuyển tập các Báo cáo khoa học tại Hội nghị
Môi trường toàn quốc năm 2005, bài viết “Các công cụ kinh tế
trong quản lý môi trường” của tác giả Vũ Đình Nam trên Tạp chí
Môi trường số 7/2007, bài viết “Quản lý môi trường bằng công
cụ kinh tế - kinh nghiệm quốc tế” của tác giả Trần Thanh Lâm
trên Tạp chí Thông tin khoa học xã hội số 6/2009, bài viết “Áp

dụng công cụ kinh tế trong quản lý môi trường ở Việt Nam” của
Trần Thanh Lâm trên Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội số
12/2009.
1.1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu dưới góc độ pháp lý
a. Nhóm công trình chung liên quan đến nguyên tắc người gây ô
nhiễm phải trả tiền
Bao gồm Giáo trình Luật thuế, Luật Môi trường các cơ sở
đào tạo, Thông tin Khoa học pháp lý số chuyên đề Thực trạng
pháp luật môi trường Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế của Viện
Khoa học pháp lý – Bộ Tư Pháp (2003), sách chuyên khảo Pháp
luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam hiện
nay của tác giả Bùi Đức Hiển, tài liệu tập huấn Tiếp cận quyền

trong bảo vệ môi trường do tác giả Nguyễn Đức Thùy chủ biên
(2012), các Kỷ yếu hội thảo khoa học của Trường ĐH Luật Hà
Nội, ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh.
b. Nhóm công trình về các hình thức trả tiền theo nguyên tắc
người gây ô nhiễm phải trả tiền và sự đảm bảo thực hiện
Bao gồm các bài viết “Bàn về áp dụng nguyên tắc người
gây ô nhiễm phải trả trong chính sách môi trường” của tác giả Lê
Thị Kim Oanh trên Tạp chí Khoa học và công nghệ, số


6
4(39)/2010, “Sử dụng công cụ kinh tế và pháp lý trong quản lý,

bảo vệ môi trường” của nhóm tác giả Lê Thị Thảo và Nguyễn
Quang Tuấn trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 194/2011,
“Thực hiện pháp luật về sử dụng công cụ kinh tế trong bảo vệ
môi trường” của tác giả Nguyễn Ngọc Anh Đào trên Tạp chí
Nghiên cứu Lập pháp số 24 (232)/2012. “Chính sách thuế bảo vệ
môi trường: Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam”, “Bảo
vệ môi trường bằng công cụ thuế, phí môi trường và hiệu quả của
giải pháp hiện nay ở Việt Nam” của tác giả Đinh Trọng Khang
trên Tạp chí Giao thông vận tải 9/2016, “Thuế bảo vệ môi
trường: kinh nghiệm quốc tế và những khuyến nghị với Việt
Nam” của nhóm tác giả Vương Thị Thu Hiền, Phạm Xuân Thắng
trên Tạp chí Tài chính 11/2017, “Bất cập trong các quy định về

phương thức tính phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công
nghiệp” của tác giả Lê Thị Thu Hằng trên Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật 4/2018, “Trách nhiệm pháp lý về môi trường ở một số
nước” của tác giả Trần Thắng Lợi trên Tạp chí nghiên cứu lập
pháp, số 3 (2005), “Bồi thường thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái
môi trường” của tác giả Vũ Thu Hạnh trên Tạp chí Khoa học
pháp lý, số 3 (40)/2007.
Một số Luận văn thạc sĩ luật học và Luận án tiến sĩ luật
học, đáng chú ý là Luận án tiến sĩ luật học Pháp luật về sử dụng
các công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường hiện nay ở Việt Nam
của tác giả Nguyễn Ngọc Anh Đào (2013).
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài

1.1.2.1. Nhóm công trình nghiên cứu dưới góc độ kinh tế - môi
trường
Sách Economic instrument in Environmental policy:
Lessons from OECD, experience and relevance to Economies in
transition của tác giả Jean-Philippe, Economic instruments in
environmental policy and law with a sort review of Serbia and
Montenegro của Assistant Professor Dragoljub Todic, bài viết
“Economic instruments of environmental management” của
Firuz Demir Yasamis Istanbul Aydin.
1.1.2.2. Nhóm công trình nghiên cứu dưới góc độ pháp lý



7
Sách The Polluter Pays Principles: Definition, Analysis,
Implementation của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế, sách
Sourcebook on environmental law của Maurice Sunkin, David M
Ong, và Robert, sách Principle of international environmental
law của Philippe Sands, Jacqueline Peel, Adriana Fabra, và Ruth
MacKenzie, bài viết “The effects of environmental taxes - An
empirical study of water and solid waste levies in Flanders” của
C. Coeck, R. S'Jegers, A. Verbeke và W. Winkelmans,
“Environmental taxation: The European experience” của tác giả
Agnieszka Laskowska và Frank Scrimgeour - Department of
Economics University of Waikato (1999), “The polluter pays

principle: A proper guide for environmental policy” của tác giả
Roy E. Cordato, “How efficient can international compensation
regimes be in pollution prevention? A discussion of the case of
marine oil spills” của Julien Hay, “The polluter pays principle
and land remediation: a comparison of the United Kingdom and
Australian approaches” của tác giả Sally-Ann Joseph, “An
analysis of the polluter pays principle in Nigeria” của tác giả
Gina Elvis-Imo.
1.1.3. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu
Thứ nhất, những công trình nghiên cứu trong và ngoài
nước đã phân tích dưới nhiều góc độ khác nhau về PPP dưới góc
độ kinh tế - môi trường và pháp lý.

Thứ hai, dưới góc độ kinh tế, các công trình khoa học nêu
trên đã đề cập nội hàm của PPP trong BVMT, với mục đích chính
là đánh vào hành vi gây ô nhiễm của chủ thể gây ÔNMT để cân
bằng lợi ích về mặt kinh tế khi có hành vi tác động đến môi
trường.
Thứ ba, dưới góc độ pháp lý, các công trình và bài viết nêu
trên đề cập đến bản chất của PPP, việc thực hiện PPP như một
nguyên tắc pháp lý ở một số nước.
Thứ tư, mặc dù việc áp dụng có khác nhau nhưng những
công trình và bài viết nước ngoài đều chỉ ra rằng, PPP được thừa
nhận và áp dụng ở hầu hết các quốc gia và được xem như một
nguyên tắc pháp lý cần tuân thủ trong LMT.

Thứ năm, ở góc độ luận án tiến sĩ, cho đến nay, ở nước ta


8
chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu một cách có hệ
thống và chuyên sâu về PPP. Chính vì vậy, có thể khẳng định,
đây là luận án tiến sĩ đầu tiên nghiên cứu về PPP dưới góc độ
pháp lý tại Việt Nam.
1.2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp tiếp cận đề tài
1.2.1. Cơ sở lý thuyết
- Lý thuyết về kinh tế môi trường, đặc biệt là kinh tế ô
nhiễm trong việc xác định ô nhiễm như một dạng ngoại ứng (ảnh

hưởng của một hoạt động xảy ra bên trong một hệ sản xuất lên
các yếu tố khác ngoài hệ sản xuất đó).
- Lý thuyết về các nguyên tắc cơ bản điều hòa xung đột
giữa phát triển kinh tế và BVMT trong nền kinh tế thị trường, đó
là PPP và nguyên tắc “người thụ hưởng phải trả tiền” (BPP).
- Chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về
nhà nước và pháp luật, trong đó nhấn mạnh mối quan hệ giữa nhà
nước và pháp luật, vai trò điều chỉnh của pháp luật đối với các
quan hệ xã hội trong xã hội.
- Lý thuyết về phát triển bền vững và quan điểm của Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về phát triển kinh tế xã hội bền vững, đảm bảo tiến bộ xã hội, xây dựng hệ thống pháp
luật đồng bộ, trong đó có pháp luật môi trường nhằm đáp ứng

nhu cầu hội nhập và thực hiện các cam kết quốc tế xuất phát từ
các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.
1.2.2. Câu hỏi nghiên cứu
Thứ nhất, ô nhiễm theo cách hiểu của PPP và ô nhiễm theo
pháp luật môi trường Việt Nam có gì khác biệt? Sự khác biệt ở
các cách tiếp cận có cần phải giải quyết để đảm bảo hiệu quả của
hoạt động BVMT?
Thứ hai, pháp luật Việt Nam cần ghi nhận PPP như thế
nào? Trong điều kiện Việt Nam, để thực hiện tốt PPP cần những
tiền đề gì?
Thứ ba, hoàn thiện các quy định pháp luật và đảm bảo thực
thi trên thực tế về PPP xuất phát từ các nhu cầu, định hướng nào

và theo những nội dung nào?
1.2.3. Giả thuyết nghiên cứu
Để giải quyết các câu hỏi nghiên cứu của Luận án, các giả


9
thuyết nghiên cứu bao gồm:
Thứ nhất, hoạt động phát triển kinh tế tác động rất lớn đến
môi trường, gây ra sự biến đổi xấu cho môi trường, ÔNMT. Sự
tác động đến môi trường có nhiều quy mô, hành vi gây tác động
xấu đến môi trường cũng có nhiều cách tiếp cận. Giả thuyết này
sẽ đưa ra cách hiểu về ÔNMT và người gây ô nhiễm trong cách

hiểu của nguyên tắc, để có sự phân định với cách tiếp cận trong
các lĩnh vực khác. Có nhiều nhóm hành vi gây ÔNMT, vì thế,
tiền phải trả để thực hiện hành vi cũng rất đa dạng. Cần xác định
nhóm hành vi gây ô nhiễm theo nguyên tắc, từ đó xác định tiền
phải trả theo nguyên tắc gắn liền với các nhóm hành vi này.
Thứ hai, việc thực hiện PPP mang lại những tác động tích
cực đến hoạt động BVMT. Những tác động này thật sự có hiệu
quả khi thể hiện đúng bản chất của hành vi gây ô nhiễm (được
mua) với tiền để thực hiện hành vi đó (phải trả). Mục đích của
nguyên tắc là tạo nguồn thu cho hoạt động BVMT, tạo sự công
bằng giữa các chủ thể và định hướng hành vi xử sự của các chủ
thể. Từ mục đích này, yêu cầu đặt ra là tiền đánh vào hành vi gây

ô nhiễm phải tương xứng với tính chất, mức độ tác động xấu đến
môi trường và đủ sức tác động đến lợi ích, hành vi của các chủ
thể.
Thứ ba, Việt Nam đã xây dựng được những quy định pháp
luật nhằm thực hiện PPP, nhưng những quy định đó chưa hoàn
thiện; việc thực thi các quy định pháp luật về các hình thức thực
hiện PPP chưa đồng bộ. Cần phải tìm ra được những hạn chế, bất
cập trong những quy định của pháp luật về các hình thức thực
hiện PPP và những hạn chế, bất cập trong quá trình thực hiện
pháp luật về các hình thức thực hiện PPP, chỉ ra được những
nguyên nhân của hạn chế, bất cập đó. Tiền đề đảm bảo thực hiện
PPP không chỉ liên quan đến các nghĩa vụ tài chính đánh vào

hành vi gây ô nhiễm mà còn cả chế tài hành chính, hình sự.
Thứ tư, PPP được áp dụng rộng rãi ở nhiều nước. Có sự
khác biệt trong việc áp dụng nguyên tắc này giữa Việt Nam và
các nước. Đề cập quá trình hình thành và phát triển của nguyên
tắc, nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trên thế giới để gợi
mở cho Việt Nam trong việc áp dụng PPP.


10
Thứ năm, hoàn thiện pháp luật và việc đảm bảo thực hiện
các quy định pháp luật về các hình thức thực hiện PPP phải dựa
trên cơ sở những nhu cầu và định hướng nhất định. Những giải

pháp, kiến nghị cụ thể sẽ giúp hoàn thiện các quy định pháp luật
và tăng cường hiệu quả việc thực hiện các quy định pháp luật về
các hình thức thực hiện PPP.
1.2.4. Phương pháp tiếp cận đề tài
Là luận án tiến sĩ luật học, chuyên ngành Luật Kinh tế,
hướng tiếp cận của đề tài xuất phát từ góc độ kinh tế để phân tích
các nội dung về PPP. Tác giả sẽ nhìn nhận việc phân tích pháp
luật ở góc độ kinh tế, đặc biệt là các hình thức thực hiện PPP
nhằm đảm bảo mục đích và yêu cầu cần hướng đến. Ở góc độ
này, phương pháp tiếp cận của Luận án là phương pháp tiếp cận
đa lĩnh vực trên cơ sở kết hợp giữa kinh tế học với luật học (bao
gồm luật kinh tế, luật thuế…).

Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC NGƯỜI
GÂY Ô NHIỄM PHẢI TRẢ TIỀN
2.1. Cơ sở hình thành và quá trình phát triển của nguyên
tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền
PPP ra đời xuất phát từ quan điểm cho rằng môi trường là
một loại hàng hóa đặc biệt. Khi khai thác, sử dụng môi trường
thì các chủ thể phải trả tiền.
Bên cạnh đó, PPP còn được xác lập trên cơ sở những ưu
điểm của CCKT trong BVMT.
2.2. Nội dung của nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả
tiền

Nội dung cơ bản của PPP đó là các chủ thể gây ra ÔNMT
phải chịu chi phí cho việc khắc phục, cải thiện môi trường bị ô
nhiễm. Những người khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên,
những người có hành vi xả thải vào môi trường cũng như những
người có hành vi khác gây tác động xấu tới môi trường đều phải
trả tiền.
Ở Việt Nam đang tồn tại các hình thức trả tiền theo PPP
như sau: tiền phải trả cho việc khai thác tài nguyên thiên nhiên


11
(thuế tài nguyên, đấu giá quyền khai thác tài nguyên), thuế

BVMT, phí BVMT (đối với nước thải, khai thác khoáng sản), tiền
phải trả cho việc sử dụng dịch vụ (dịch vụ thu gom rác, dịch vụ
quản lý chất thải nguy hại,…), tiền phải trả cho việc sử dụng cơ
sở hạ tầng (tiền thuê kết cấu hạ tầng trong khu công nghiệp bao
gồm cả tiền thuê hệ thống xử lý chất thải tập trung), tiền ký quỹ
cải tạo, phục hồi môi trường trong hoạt động khai thác tài nguyên
thiên nhiên...
2.3. Mục đích và yêu cầu của nguyên tắc người gây ô nhiễm
phải trả tiền
2.3.1. Mục đích của nguyên tắc
PPP, trước hết nhằm mục đích đảm bảo sự công bằng trong
việc khai thác, sử dụng và BVMT.

PPP còn tác động vào lợi ích kinh tế của các chủ thể thông
qua đó tác động đến hành vi xử sự của các chủ thể đối với môi
trường theo hướng có lợi cho môi trường.
PPP còn có mục đích quan trọng là tạo nguồn kinh phí cho
hoạt động BVMT.
2.3.2. Yêu cầu của nguyên tắc
(i) Số tiền phải trả cho hành vi gây ô nhiễm phải tương
xứng với tính chất và mức độ gây tác động xấu đến môi trường
và; (ii) tiền phải trả cho hành vi gây ô nhiễm phải đủ sức tác
động đến lợi ích, đến hành vi của các chủ thể.
2.4. Mối liên hệ giữa nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả
tiền với các nguyên tắc khác của luật môi trường

2.4.1. Quan niệm về các nguyên tắc của luật môi trường
Nguyên tắc của LMT, theo đó, có thể hiểu là những quan
điểm, tư tưởng chỉ đạo toàn bộ các chế định pháp luật, các quy
phạm pháp luật môi trường, được ghi nhận trong các văn bản
pháp luật môi trường và các văn bản liên quan. Bên cạnh những
nguyên tắc cơ bản của pháp luật nói chung, LMT có những
nguyên tắc đặc thù, bao gồm:
- Nguyên tắc Nhà nước ghi nhận và bảo vệ quyền con
người được sống trong một môi trường trong lành;
- Nguyên tắc phòng ngừa;
- Nguyên tắc môi trường là một thể thống nhất;



12
- Nguyên tắc phát triển bền vững;
- Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền.
2.4.2. Với nguyên tắc Nhà nước ghi nhận và đảm bảo quyền
con người được sống trong một môi trường trong lành
Việc đảm bảo cho người dân được sống trong một môi
trường trong lành đòi hỏi Nhà nước phải có sự cân đối giữa lợi
ích của nhà đầu tư cùng những tác động từ hoạt động phát triển
kinh tế với lợi ích của người dân cùng những ảnh hưởng về môi
trường mà họ phải gánh chịu. Sự đảm bảo này là tạo ra một môi
trường sống không bị ô nhiễm, những chủ thể gây ra ô nhiễm

hoặc phải chi trả chi phí cho việc phục hồi môi trường trong lành,
hoặc bị xử lý khi có hành vi vi phạm. Việc thu số tiền đối với
hành vi gây ô nhiễm theo PPP chắc chắn ảnh hưởng đến lợi ích
kinh tế của nhà đầu tư.
2.4.3. Với nguyên tắc phòng ngừa
Những quy định liên quan đến nguyên tắc phòng ngừa nếu
được thực hiện có hiệu quả sẽ góp phần giảm bớt các chi phí liên
quan đến PPP, hạn chế ÔNMT, suy thoái môi trường, sự cố môi
trường. Một khi, người gây ô nhiễm nhận thức rõ việc bỏ ra chi
phí phòng ngừa ít tốn kém hơn rất nhiều so với chi phí để khắc
phục ÔNMT, họ sẽ chú trọng các giải pháp giảm thiểu tác động
đến môi trường từ đầu.

2.4.4. Với nguyên tắc môi trường là một thể thống nhất
Các chính sách cũng như các quy định pháp luật về môi
trường phải được ban hành với sự cân nhắc toàn diện đến các yếu
tố khác nhau của môi trường để việc điều chỉnh các quan hệ xã
hội trong lĩnh vực này không bị phân tán và thiếu đồng bộ và phải
tính đến ảnh hưởng dây chuyền của văn bản đó với các hiện tượng
xã hội khác. Nếu không có sự thống nhất này, việc quy định cho
nhiều cơ quan thu nhiều loại tiền khác nhau theo PPP là không
phù hợp. Mức chi tương thích từ số tiền đánh vào hành vi gây ô
nhiễm so với mức thu rất khó để đảm bảo mục đích tạo sự công
bằng giữa các chủ thể trong việc xác định ai gây ô nhiễm nhiều
trả tiền nhiều, ai gây ô nhiễm ít trả tiền ít.

2.4.4. Với nguyên tắc phát triển bền vững
Phát triển bền vững không chỉ đảm bảo khai thác có hiệu


13
quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên mà còn nhằm mục đích
định hướng hành vi khai thác các nguồn tài nguyên này bền vững,
không lãng phí – mục đích rất quan trọng trong việc thực hiện
PPP. Trong điều kiện Việt Nam, phần lớn các đạo luật về tài
nguyên quy định những nguồn tài nguyên thiên nhiên thuộc sở
nhà nước, một số thuộc sở hữu tư nhân. Việc xác định cân bằng
lợi ích giữa các chủ thể sở hữu là Nhà nước, chủ thể sản xuất gây

ô nhiễm và người chịu ô nhiễm là cần thiết. Bên cạnh đó, việc
yêu cầu các chủ thể có hành vi xả thải ra môi trường phải xử lý
chất thải theo đúng các quy định về tiêu chuẩn môi trường, quy
chuẩn kỹ thuật môi trường góp phần giảm thiểu ÔNMT.
Chương 3
THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC NGƯỜI GÂY Ô NHIỄM
PHẢI TRẢ TIỀN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Thực hiện nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền
thông qua pháp luật về thuế bảo vệ môi trường
3.1.1. Khái niệm về thuế bảo vệ môi trường
Thuế BVMT là loại thuế gián thu, thu vào sản phẩm, hàng
hoá khi sử dụng gây tác động xấu đến môi trường được quy định

trong Luật Thuế BVMT năm 2010 và các văn bản thi hành.
3.1.2. Nội dung pháp luật về thuế bảo vệ môi trường
Thứ nhất, về đối tượng chịu thuế BVMT là hàng hóa, dịch
vụ, tài sản, thu nhập hoặc những lợi ích vật chất khác mà sắc thuế
tác động đến để phát sinh nghĩa vụ nộp thuế của đối tượng nộp
thuế.
Thứ hai, người nộp thuế BVMT là tổ chức, hộ gia đình, cá
nhân sản xuất, nhập khẩu hàng hoá thuộc đối tượng chịu thuế.
Thứ ba, về mức thuế suất thuế BVMT là mức thuế tuyệt đối.
Thứ tư, về căn cứ tính thuế thuế BVMT là số lượng hàng
hoá tính thuế và mức thuế tuyệt đối.
3.1.3. Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn thực hiện pháp luật về

thuế bảo vệ môi trường
Thứ nhất, đối tượng đối tượng chịu thuế chưa đầy đủ.
3.1.


14
Thứ hai, căn cứ tính thuế BVMT là số lượng hàng hóa tính
thuế và mức thuế tuyệt đối không đáp ứng yêu cầu của PPP.
Thứ ba, biên độ khung thuế suất rộng.
Thứ tư, việc tỷ lệ thu thuế BVMT và chi cho hoạt động
BVMT chưa tương thích.
Ở các nước, chính sách thuế BVMT thường nhằm 2 mục

tiêu chủ yếu là khuyến khích người gây ô nhiễm giảm lượng chất
thải ra môi trường và tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước
thông qua việc đưa chi phí môi trường vào trong giá thành sản
phẩm theo PPP.
3.2. Thực hiện nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền
thông qua pháp luật về thuế tài nguyên
3.2.1. Khái niệm về thuế tài nguyên
Thuế tài nguyên là loại thuế thu vào hành vi khai thác tài
nguyên thiên nhiên trên lãnh thổ Việt Nam của các tổ chức, cá
nhân. Đây là một trong các loại thuế thu vào hành vi sử dụng một
số tài sản của quốc gia, đánh vào hành vi khai thác tài nguyên
thiên nhiên được quy định trong Luật Thuế tài nguyên năm 2010.

3.2.2. Nội dung pháp luật về thuế tài nguyên
Thứ nhất, đối tượng chịu thuế tài nguyên bao gồm 9 nhóm
tài nguyên thiên nhiên. Đây là những nguồn tài nguyên thiên
nhiên có thể phục hồi và không thể phục hồi.
Thứ hai, người nộp thuế tài nguyên là tổ chức, cá nhân khai
thác tài nguyên thiên nhiên thuộc đối tượng chịu thuế tài nguyên
Thứ ba, căn cứ tính thuế tài nguyên là sản lượng tài nguyên
tính thuế, giá tính thuế và thuế suất.
3.2.3. Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn thực hiện pháp luật về
thuế tài nguyên
Thứ nhất, đối tượng chịu thuế chưa bao quát hết các loại
tài nguyên, chưa chi tiết và rõ ràng, có thể dẫn đến khó khăn cho

việc tiếp cận và thực thi pháp luật.
Thứ hai, căn cứ tính thuế chưa phù hợp.
Thứ ba, giá tính thuế không rõ ràng, dẫn đến khó hiểu, khó
áp dụng vào thực tiễn.
Thứ tư, thuế suất có biên độ khá rộng.
Ở một số nước, ngoài việc áp dụng thuế tài nguyên, nghĩa


15
vụ tài chính khác tương tự cũng được áp dụng, như tiền mua
quyền khai thác tài nguyên.
3.3. Thực hiện nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền

thông qua pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với
nước thải
3.3.1. Khái niệm về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải
Điều 148 Luật BVMT năm 2014 quy định: “Tổ chức, cá
nhân xả thải ra môi trường hoặc làm phát sinh tác động xấu đối
với môi trường phải nộp phí BVMT”. Mức phí BVMT được quy
định trên cơ sở khối lượng chất thải ra môi trường, quy mô ảnh
hưởng tác động xấu đối với môi trường; mức độ độc hại của chất
thải, mức độ gây hại đối với môi trường; sức chịu tải của môi
trường tiếp nhận chất thải. Phí BVMT đối với nước thải là một
dạng phí BVMT.
3.3.2. Nội dung pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước

thải
Theo quy định đối tượng chịu phí BVMT đối với nước thải
là nước thải công nghiệp và nước thải sinh hoạt.
Người nộp phí BVMT đối với nước thải là hộ gia đình, đơn
vị, tổ chức có nước thải thuộc đối tượng chịu phí.
Các văn bản pháp luật đã đặt ra 2 yêu cầu trong quá trình
thực hiện việc thu phí BVMT đối với nước thải. Thứ nhất, phải
thu đúng, thu đủ, quản lý sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả số
phí thu được để phục vụ cho công tác quản lý và cải thiện chất
lượng môi trường. Thứ hai, các cơ sở sản xuất thuộc đối tượng
phải nộp phí BVMT đối với nước thải công nghiệp có trách
nhiệm nộp đủ và đúng thời hạn số phí phải nộp theo thông báo.

3.3.3. Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn thực hiện pháp luật về
phí bảo vệ môi trường đối với nước thải
Thứ nhất, mức thu phí BVMT đối với nước thải trên hiện
nay còn rất thấp và nguồn thu này không thể đáp ứng được các
chi phí xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn quy định.
Thứ hai, biện pháp chế tài chưa hiệu quả.
Thứ ba, có sự thiếu thống nhất, bất đồng quan điểm giữa
các cơ quan quản lý nhà nước về phí BVMT đối với nước thải,
các công cụ phục vụ hỗ trợ công tác thu phí vẫn chưa đầy đủ.


16

Thứ tư, hiểu biết và nhận thức của khá nhiều doanh nghiệp
(đối tượng nộp phí) còn hạn chế, quy trình thu phí quá dài dòng,
rắc rối.
Singapore áp dụng phí ô nhiễm với biểu giá đánh vào nhu
cầu ôxy hóa (BOD) và tổng chất rắn lơ lửng (TSS) áp dụng với
tất cả các cơ sở công nghiệp. Mức phí được xác định tùy theo
lượng nước thải và nồng độ các chất gây ô nhiễm.
Philippines bắt đầu thí điểm áp dụng phí nước thải cho hồ
Laguna từ năm 1997. Phí nước thải được áp dụng cho các doanh
nghiệp thuộc các ngành công nghiệp trọng điểm có mức thải
trung bình hàng năm từ 4 tấn BOD trở lên.
3.4. Thực hiện nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền

thông qua pháp luật về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm
môi trường gây ra
3.4.1. Khái niệm về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường
gây ra
Bộ luật dân sự Dân sự năm 2005 quy định tại Điều 624 về
BTTH do làm ÔNMT như một dạng của BTTH ngoài hợp đồng.
Bộ luật Dân sự năm 2015 tiếp tục đề cập tại Điều 602 với cách
hiểu tương tự. Luật BVMT năm 2005 và Luật BVMT năm 2014
phân chia thiệt hại do ÔNMT gây ra bao gồm 2 loại thiệt hại: suy
giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường và thiệt hại về tính
mạng, sức khỏe của con người, tài sản và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân do hậu quả của việc suy giảm chức năng, tính hữu

ích của môi trường gây ra.
3.4.2. Nội dung pháp luật về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm
môi trường gây ra
Với cách hiểu là một dạng của BTTH ngoài hợp đồng, điều
kiện phát sinh trách nhiệm BTTH do ÔNMT gây ra cũng bao
gồm: có hành vi gây thiệt hại là hành vi vi phạm pháp luật môi
trường, có thiệt hại xảy ra, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
gây ÔNMT với thiệt hại xảy ra và có lỗi của chủ thể gây thiệt hại.
3.4.3. Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn thực hiện pháp luật về
bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra
Thứ nhất, về quyền khởi kiện yêu cầu BTTH do ÔNMT
gây ra, trong những trường hợp các bên tranh chấp rộng và khó



17
xác định.
Thứ hai, về nghĩa vụ chứng minh của chủ thể bị thiệt hại,
người có quyền, lợi ích bị xâm phạm có trách nhiệm cung cấp
chứng cứ và chứng minh sẽ khó thực hiện.
Thứ ba, về trách nhiệm của chủ thể gây ô nhiễm chưa quy
định cụ thể.
Thứ tư, xác định nguyên nhân gây ra thiệt hại bồi thường
khó, mức bồi thường mà chủ thể bị thiệt hại nhận được thường
rất thấp so với mức thiệt hại đã xảy ra trên thực tế.

Thứ năm, việc giải quyết vấn đề “hậu tranh chấp” vẫn đang
gặp nhiều rắc rối ở không ít các địa phương sau khi tiền BTTH
được chi trả.
Trên thế giới, hiện có hai quan niệm khác nhau về thiệt hại
do ÔNMT:
Một là, thiệt hại do ÔNMT chỉ bao gồm thiệt hại đối với
môi trường tự nhiên, như hệ động vật, thực vật, đất, nước, không
khí... mà không gồm thiệt hại về người và tài sản. Hai là, thiệt
hại về môi trường không chỉ bao gồm các thiệt hại đến chất lượng
môi trường mà còn bao gồm cả thiệt hại về sức khỏe, tài sản của
cá nhân do ÔNMT gây nên.
3.5. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc người gây ô nhiễm phải

trả tiền thông qua các quy định pháp luật có liên quan
và thông qua hoạt động tuyên truyền, giáo dục
3.5.1. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc người gây ô nhiễm phải
trả tiền thông qua pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính đối với hành vi gây ô nhiễm môi trường
VPHC trong lĩnh vực môi trường được quy định trong
Nghị định 155/2016/NĐ-CP của Chính phủ ngày 18/11/2016.
Theo quy định các hình thức xử phạt VPHC đối với nhóm
hành vi gây ÔNMT bao gồm xử phạt chính, xử phạt bổ sung, và
áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả.
3.5.2. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc người gây ô nhiễm phải
trả tiền thông qua pháp luật về xử lý hình sự đối với các

tội phạm liên quan đến ô nhiễm môi trường
Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm môi trường. Bộ
luật hình sự năm 2015 quy định 12 điều luật đối với tội phạm về


18
môi trường. Trong đó, Tội gây ÔNMT (Điều 235) được nhập lại
từ các Tội gây ÔNMT (Điều 182), Tội gây ô nhiễm nguồn nước
(Điều 183), Tội gây ô nhiễm đất (Điều 184) của Bộ luật hình sự
năm 1999.
3.5.3. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc người gây ô nhiễm phải
trả tiền thông qua hoạt động tuyên truyền, giáo dục

Biện pháp tuyên truyền giáo dục được thực hiện rất đa
dạng, phong phú như giáo dục theo cá nhân, theo nhóm, theo
cộng đồng; tuyên truyền giáo dục qua các phương tiện thông tin
đại chúng, phổ biến chính sách, pháp luật về môi trường; thực
hiện các dự án môi trường; tiến hành các hoạt động thông qua
các tổ chức đoàn thể, giáo dục trong nhà trường, qua các cuộc
vận động của Nhà nước, của các tổ chức xã hội.
Để tìm hiểu về nhận thức của mọi người về PPP, tác giả đã
làm cuộc điều tra xã hội học đối với 291 người, chủ yếu những
người đã đi làm (công chức, viên chức, doanh nhân…), số còn
lại là học sinh, sinh viên. Hơn một nửa trong số đó là những người
học tập hoặc làm việc có liên quan đến luật. Kết quả cho thấy, đa

số những người tham gia khảo sát có biết về PPP, trong đó 2/3
biết về nội dung cơ bản của PPP, số còn lại không biết. Mặc dù
vậy, các câu hỏi khảo sát đều có tỷ lệ gần như giống nhau giữa
những người tham gia khảo sát có và không biết về PPP.
Chương 4
NHU CẦU, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT MÔI TRƯỜNG VIỆT NAM NHẰM
ĐẢM BẢO THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC
NGƯỜI GÂY Ô NHIỄM PHẢI TRẢ TIỀN
4.1. Nhu cầu và định hướng hoàn thiện pháp luật môi trường
Việt Nam nhằm đảm bảo thực hiện nguyên tắc người
gây ô nhiễm phải trả tiền

4.1.1. Nhu cầu hoàn thiện pháp luật môi trường Việt Nam
nhằm đảm bảo thực hiện nguyên tắc người gây ô nhiễm
phải trả tiền
Thứ nhất, xuất phát từ nhu cầu xây dựng nhà nước pháp
quyền với đặc thù của điều kiện Việt Nam.


19
Thứ hai, xuất phát từ đường lối, quan điểm của Đảng về
phát triển bền vững trong BVMT.
Thứ ba, xuất phát từ thực trạng môi trường hiện nay.
Thứ tư, xuất phát từ thực trạng các quy định pháp luật môi

trường Việt Nam hiện nay.
Thứ năm, xuất phát từ nhu cầu hội nhập quốc tế.
4.1.2. Định hướng hoàn thiện pháp luật môi trường Việt Nam
nhằm đảm bảo thực hiện nguyên tắc người gây ô nhiễm
phải trả tiền
Một là, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ và vững chắc cho việc
nâng cao hiệu lực và hiệu quả của công tác sử dụng các nguồn tài
chính cho hoạt động BVMT.
Hai là, xây dựng và áp dụng các biện pháp đồng bộ nhằm
bảo đảm hiệu lực và hiệu quả thi hành pháp luật về môi trường.
Ba là, các quy định mang tính nguyên tắc của LMT.
Bốn là, kế thừa quy định mang tính ưu việt đã có của Việt

Nam cũng như kinh nghiệm quốc tế về xây dựng, phát triển pháp
luật môi trường.
4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật môi trường Việt Nam
nhằm đảm bảo thực hiện hiệu quả nguyên tắc người
gây ô nhiễm phải trả tiền
4.2.1. Sửa đổi các quy định pháp luật về thuế bảo vệ môi trường
Thứ nhất, bổ sung đối tượng chịu thuế.
Thứ hai, thay đổi mức thuế tương đối.
Thứ ba, về căn cứ xác định khung thuế suất và biên độ
khung thuế suất, cần chia nhỏ các nhóm hàng ra, có khung thuế
suất riêng đối với từng mặt hàng.
4.2.2. Sửa đổi các quy định pháp luật về thuế tài nguyên

Thứ nhất, cần quy định chi tiết hơn về đối tượng chịu thuế.
Thứ hai, cần áp dụng biện pháp ấn định thuế nhằm tránh
tình trạng gian lận, trốn thuế, gây thất thoát nguồn thu ngân sách.
Thứ ba, cần phải xem xét thu hẹp biên độ khung thuế suất.
4.2.3. Sửa đổi các quy định pháp luật về phí bảo vệ môi
trường đối với nước thải
Thứ nhất, cần có một chính sách nhất quán, bám sát mục
tiêu đặt ra nhằm cải thiện chất lượng môi trường.


20
Thứ hai, Bộ TN&MT nên phân cấp, ủy quyền thu phí

BVMT đối với nước thải đến cấp huyện đối với các cơ sở sản
xuất nhỏ, quy mô hộ gia đình.
Thứ ba, cần xây dựng mức phí BVMT đối với nước thải
phù hợp hơn.
4.2.4. Sửa đổi các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại
do ô nhiễm môi trường
Một là, hoàn thiện các quy định liên quan đến quyền khởi
kiện của công dân.
Hai là, hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ chứng minh của
đương sự.
Ba là, về mức bồi thường, thiệt hại phải được bồi thường
toàn bộ.

4.2.5. Các giải pháp khác
Một là, sửa đổi, bổ sung các quy định về phạt VPHC đối
với các hành vi gây ÔNMT. Những sửa đổi này bao gồm: tăng
mức tiền phạt, điều chỉnh hình thức phạt bổ sung, bổ sung quy
định áp dụng buộc lao động vệ sinh môi trường có thời hạn ở nơi
công cộng vào biện pháp khắc phục hậu quả, điều chỉnh quy định
về thẩm quyền xử phạt VPHC.
Hai là, về trách nhiệm hình sự, nên quy định cấu thành tội
phạm môi trường là cấu thành hình thức đối với tất cả các tội
phạm về môi trường.
Ba là, điều chỉnh các quy định về nguồn thu và chi cho hoạt
động BVMT tương thích.

Bốn là, ghi nhận PPP trong Luật BVMT và các văn bản
pháp luật về môi trường.
Năm là, trong sắp xếp bộ máy nhà nước, cần thực hiện việc
chuyển giao dần các nội dung về môi trường và quản lý các thành
phần môi trường cho một cơ quan, theo đúng nghĩa của cơ quản
quản lý chuyên ngành về môi trường.
Sáu là, về lâu dài, cần xây dựng Bộ luật Môi trường trên
cơ sở hợp nhất các văn bản quy phạm pháp luật về BVMT và
khai thác, sử dụng các thành phần môi trường.
Bảy là, đa dạng hình thức tuyên truyền, giáo dục về PPP
và áp dụng đồng bộ các biện pháp BVMT.



21
KẾT LUẬN
Từ những kết quả nghiên cứu về đề tài luận án, nghiên cứu
sinh rút ra một số kết luận chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền là
một trong những nguyên tắc luật môi trường. Đây là nguyên tắc
thể hiện rõ nét nhất biện pháp kinh tế trong bảo vệ môi trường,
dùng lợi ích kinh tế tác động vào chính hành vi của các chủ thể
theo hướng có lợi cho môi trường. Pháp luật môi trường của
nhiều nước sử dụng nguyên tắc này như một trong những cách
thức chính nhằm cụ thể hóa đòi hỏi những chủ thể gây ra ô nhiễm

môi trường phải “trả tiền”. Ý nghĩa chủ đạo của nguyên tắc người
gây ô nhiễm phải trả tiền là những người gây ô nhiễm sẽ chịu
mọi trách nhiệm tài chính cho việc tuân thủ các các yêu cầu về
môi trường do cơ quan có thẩm quyền đề ra. Tuy nhiên, việc hiểu
chưa đúng hay chưa đầy đủ về nguyên tắc này vẫn thường hay
xảy ra trong thực tiễn.
Thứ hai, nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền cũng
không phải là nguyên tắc đảm bảo hiệu quả về mặt chi phí, vì nó
chỉ xác định ai sẽ chi trả cho kiểm soát ô nhiễm mà không chỉ ra
làm thế nào xử lý ô nhiễm hay ai sẽ xử lý ô nhiễm. Cơ quan quản
lý nhà nước về môi trường sẽ phải xác định cho được điều này
bằng việc thiết kế một tập hợp các công cụ chính sách phù hợp.

Thứ ba, thuế tài nguyên cần đóng vai trò là công cụ quản
lý vĩ mô quan trọng để một mặt khai thác tốt nguồn lực tài nguyên
phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế, mặt khác, quản lý, bảo
vệ tốt nguồn tài nguyên của đất nước, nhất là nguồn tài nguyên
không tái tạo, bảo đảm sử dụng tài nguyên hợp lý, tiết kiệm, hiệu
quả. Thuế BVMT áp dụng trong khoảng thời gian ngắn đã bộc
lộ những hạn chế cần điều chỉnh. Phí bảo vệ môi trường chưa
phát huy hết được hiệu quả vì hạn chế, vướng mắc trong các văn
bản pháp quy và quá trình thực hiện trên thực tế vẫn chưa được
giải quyết. Bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường là quy
định khả thi để triển khai nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả
tiền, mặc dù còn những tranh luận nhất định.

Hiện nay việc thực hiện các hình thức trả tiền theo nguyên
tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền chủ yếu nhằm mục đích tạo


22
nguồn thu, chưa quan tâm đến việc định hướng hành vi của người
gây ô nhiễm, chưa tương xứng với tính chất và mức độ gây ô
nhiễm. Nguồn thu chưa được trực tiếp sử dụng để tái đầu tư vào
hoạt động bảo vệ môi trường. Vì vậy, cần có giải pháp khắc phục
tình trạng này.
Thứ tư, song song với việc hoàn thiện các quy định về tiền
phải trả theo nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền thông

qua các hình thức được đề cập trong Luận án, việc tiếp tục bổ
sung hoặc cụ thể hóa các quy định liên quan đến các hình thức
trả tiền khác theo nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền
(như tiền mua hạn ngạch phát thải; tiền ký quỹ cải tạo, phục hồi
môi trường trong hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên) là
điều cần thiết. Các quy định này vừa phải đảm bảo mục đích, yêu
cầu của nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền về mặt lý
luận vừa phải căn cứ vào tình hình thực tiễn của Việt Nam.
Thứ năm, cần ghi nhận nguyên tắc người gây ô nhiễm phải
trả tiền như một nguyên tắc chính thức trong các văn bản pháp
luật môi trường, đặc biệt là Luật Bảo vệ môi trường, tiến đến xây
dựng một đạo luật quy định về nghĩa vụ tài chính thực hiện

nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền. Về lâu dài, để đảm
bảo sự thống nhất trong quản lý nhà nước về môi trường, cần sắp
xếp bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước theo hướng chuyển
thẩm quyền quản lý chuyên ngành cho Bộ Tài nguyên và Môi
trường; tiến đến xây dựng Bộ luật về môi trường.
Thứ sáu, việc xây dựng khung pháp luật về môi trường ở
Việt Nam gắn với nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền cần
phải được xem xét trong tổng thể các chính sách, định hướng
mang tính quốc gia về phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và
được xác định theo hai hướng: sửa đổi, bổ sung các văn bản hiện
hành để khắc phục tính thiếu nhất quán, không cụ thể, không xác
định trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực bảo

vệ môi trường; ban hành văn bản mới để điều chỉnh các quan hệ
xã hội trong lĩnh vực bảo vệ môi trường cho đến nay chưa được
điều chỉnh.
Vì giới hạn của Luận án, nên nghiên cứu sinh không thể
giải quyết hết các vấn đề của nguyên tắc người gây ô nhiễm phải


23
trả tiền, nhất là khi nước ta còn chưa có nhiều kinh nghiệm về áp
dụng nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền, Luận án còn
chưa giải quyết được một số vấn đề sau đây:
Một là, chưa phân tích đầy đủ các hình thức trả tiền cho

hành vi gây ô nhiễm (như tiền ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường
trong khai thác khoáng sản; chi phí phục hồi môi trường rừng…).
Trên thực tế, việc áp dụng những hình thức trả tiền này khó đảm
bảo được yêu cầu của nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền
nếu như chưa đáp ứng các điều kiện tương thích như trình độ phát
triển kinh tế của quốc gia, nhận thức của người dân, vai trò của
cơ quan nhà nước… Đây sẽ là các vấn đề cần tiếp tục được
nghiên cứu và làm rõ làm rõ trong quá trình áp dụng nguyên tắc
người gây ô nhiễm phải trả tiền, khi Việt Nam đã có nhiều kinh
nghiệm hơn.
Hai là, chưa chỉ ra mức thu và sử dụng một cách hợp lý,
khoa học nguồn tài chính cho hoạt động bảo vệ môi trường dưới

góc độ kinh tế, gắn liền với các hình thức thực hiện nguyên tắc
người gây ô nhiễm phải trả tiền trên cơ sở thu thập số liệu của
các địa phương. Bản thân tác giả nghiên cứu chủ yếu dưới góc
độ pháp lý, không phải là nhà kinh tế nên cũng gặp những khó
khăn nhất định trong việc đánh giá một cách toàn diện về mặt kỹ
thuật. Đây là vấn đề khá phức tạp và đòi hỏi việc nghiên cứu toàn
diện nhiều yếu tố liên quan nhưng lại không thuộc phạm vi trọng
tâm của Luận án.
Những vấn đề nêu trên dù chưa được giải quyết một cách
thấu đáo trong khuôn khổ của một Luận án nhưng là những vấn
đề khá thú vị và cần tiếp tục nghiên cứu, quan sát và trải nghiệm
từ thực tế áp dụng nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền.

Tác giả sẽ tiếp tục nghiên cứu những vấn đề này trong các
công trình khoa học tiếp theo của mình.


×