Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm với việc tăng cường công tác quản trị doanh nghiệp tại công ty XDCTGT 246

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.36 KB, 62 trang )

Dương Thị Ngọc Tú – Kế toán 39B
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, hệ thống cơ sở hạ tầng của nước ta đã có bước phát
triển đáng kể góp phần không nhỏ vào việc thu hút các nguồn vốn đầu tư cả trong
và ngoài nước cho phát triển kinh tế. Đạt được những thành quả đó không thể không
nhắc đến những nỗ lực to lớn của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh
doanh xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng. Bằng nỗ lực của mình, các Doanh
nghiệp này đã không ngừng học hỏi kinh nghiệm, mạnh dạn đầu tư đổi mới công
nghệ để có thể xây dựng thành công nhiều công trình có chất lượng cao đạt tiêu
chuẩn trong nước và quốc tế.
Tuy nhiên, trong thời gian qua, tình trạng thất thoát vốn đầu tư trong các dự án
xây dựng cơ bản đã gây tổn thất không nhỏ cho ngân sách Nhà nước. Trong những
nguyên nhân gây ra tình trạng đó có thể kể đến sự quản lý yếu kém của các Doanh
nghiệp dẫn đến thất thoát lãng phí trong sản xuất đẩy giá thành lên cao. Do đó, vấn
đề đặt ra đối với mỗi doanh nghiệp là cần phải có những giải pháp quản lý vốn hiệu
quả hơn, tránh thất thoát lãng phí để hạ giá thành sản phẩm và tăng khả năng cạnh
tranh.
Một trong những công cụ hữu hiệu của quản lý là công tác hạch toán kế toán,
công tác này nếu được sử dụng hiệu quả sẽ không những giám sát được các khoản
chi phí phát sinh mà còn cung cấp đầy đủ các thông tin cho nhà quản trị để chủ
động tìm kiếm các giải pháp tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, sau thời gian thực tập tại công
ty XDCTGT 246, cùng với sự hướng dẫn của thầy giáo Ngô Trí Tuệ và các cán bộ
phòng kế toán của Công ty, em đã chọn đề tài “ Hạch toán chi phí sản xuất và tính
giá thành sản phẩm với việc tăng cường công tác quản trị Doanh nghiệp tại
Công ty XDCTGT 246” với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình để
hoàn thiện công tác hạch toán kế toán và nâng cao hiệu quả sản xuất của Công ty.
Bài viết gồm ba phần:
- Phần 1: Lý luận chung về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm ở đơn vị xây lắp
- Phần 2: Tình hình hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở


Công ty XDCTGT 246.
- Phần 3: Một số ý kiến góp phần hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm ở Công ty XDCTGT 246.


Dương Thị Ngọc Tú – Kế toán 39B

PHẦN THỨ NHẤT
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT
VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM Ở ĐƠN VỊ XÂY LẮP
A. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ GIÁ THÀNH SẢN PHẨM
XÂY LẮP.
I.Đặc điểm ngành xây dựng cơ bản tác động đến công tác hạch toán kế
toán.
Trong nhóm các ngành trực tiếp chế tạo ra củacải vật chất cho xã hội, xây dựng cơ
bản là một ngành sản xuất vật chất độc lập, có chức năng tái tạo tài sản cố định cho
xã hội, tăng tiềm lực kinh tế quốc phòng của quốc gia. Vì thế một bộ phận lớn của
thu nhập quốc dân nói chung, quỹ tích luỹ nói riêng cùng với vốn đầu tư tài trợ từ
nước ngoài được sử dụng trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. So với các ngành khác,
xây dựng cơ bản có nhữngđặc điểm kinh tế kỹ thuật đặc trưng, được thể hiện rất rõ
ở sản phẩm và tái tạo ra sản phẩm của ngành.
Đặc điểm sản phẩm xây lắp:
Sản phẩm xây lắp là những công trình, hạng mục công trình, vật kiến trúc... có
quy mô lớn, kết cấu phức tạp, mang tính chất đơn chiếc, thời gian thi công lâu dài
và phân tán... Mặt khác, có rất nhiều phương thức kỹ thuật thi công khác nhau dẫn
đến giá trị công trình khác nhau. Vì vậy, đòi hỏi việc quản lý và hạch toán sản phẩm
xây lắp nhất thiết phải lập dự toán và công nhận giá cả hợp lý chính là thước đo cả
về mặt giá trị và mặt kỹ thuật.
Sản phẩm xây lắp hoàn thành không nhập kho mà lại tiêu thụ ngay theo giá dự
toán hoặc giá thầu đã thoả thuận với đơn vị chủ đầu tư từ trước. Do vậy, tính chất

hàng hoá của sản phẩm không thể hiện rõ.
Thời gian sử dụng sản phẩm lâu dài đòi hỏi chất lượng công trình đảm bảo.
Đặc điểm này đòi hỏi công tác kế toán phải được tổ chức tốt sao cho chất lượng sản
phẩm như dự toán thiết kế, tạo điều kiện thuận lợi cho việc bàn giao công trình, ghi
nhận doanh thu và thu hồi vốn.
Chất lượng công trình xây dựng cơ bản phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố
như: khảo sát, thiết kế, thi công, đặc biệt là trong khâu thi công, do đó trong xây
dựng cơ bản phải giám sát chặt chẽ khối lượng công trình. Để ràng buộc trách
nhiệm của bên thi công trong thời gian bảo hành, bàn giao bên chủ đầu tư chấp nhận
thanh toán 95% giá trị công trình sau khi bên thi công bàn giao, 5% giá trị công
trình sẽ được bên chủ đầu tư giữ lại thanh toán sau khi hết thời hạn bảo hành, bàn
giao bên chủ đầu tư giữ lại thanh toán sau khi hết tời hạn bảo hành mà chất lượng
công trình vẫn bảo đảm.
Sản phẩm xây lắp cố định tại nơi sản xuất còn các điều kiện của sản xuất (xe,
máy, thiết bị thi công, người lao động...) phải di chuyển theo địa điểm đặt sẵn sản
phẩm. Đặc điểm này làm cho công tác quản lý, sử dụng hạch toán sản phẩm rất
phức tạp do ảnh hưởng của điều kiện thời tiết, thiên nhiên và dễ mất mát, hư hỏng...
Do vậy, công tác kế toán phải tổ chức tốt quá trình hạch toán ban đầu. Ngoài ra,


Dương Thị Ngọc Tú – Kế toán 39B
phải thường xuyên tiến hành kiểm kê vật tư, tài sản, phát hiện hư hỏng sai phạm kịp
thời.
Đặc điểm tổ chức sản xuất xây lắp:
Hoạt động xây lắp được diễn ra dưới điều kiện sản xuất thiếu tính ổn định,
luôn biến đổi theo địa điểm và giai đoạn thi công. Do vậy phải luôn thay đổi, lựa
chọn phương án thi công thích hợp về mặt tiến độ và kỹ thuật.
Chu kỳ sản xuất xây lắp kéo dài, làm cho nguồn vốn đầu tư ứ đọng. Do vậy
các doanh ngiệp hoạt động trong lĩnh vực này rất dễ gặp phải rủi ro ngẫu nhiên theo
tời gian như: hao mòn vô hình, điều kiện tự nhiên.

Quá trình sản xuất diễn ra trên một phạm vi hẹp với số lượng công nhân và vật
liệu lớn. Đòi hỏi tổ chức công tác xây lắp phải có sự phối hợp đồng bộ và chặt chẽ
giữa các bộ phận và các giai đoạn công việc.
Sản xuất xây lắp diễn ra ngoài trời nên chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên.
Đặc điểm này đòi hỏi quá trình thi công phải theo một tiến độ thích hợp để tránh các
thiệt hại có thể xảy ra.
Từ các đặc điểm trên trong các đơn vị kinh doanh xây lắp, công tác kế toán
vừa phải đảm bảo yêu cầu phản ánh chung của một đơn vị sản xuất là ghi chép tính
toán đầy đủ chi phí và giá thành sản phẩm vừa phải có những nét riêng để phù hợp
với ngành nghề kinh doanh từ đó cung cấp số liệu chính xác, kịp thời, đánh giá
đúng tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh giúp cho cấp quản lý có
quyết định phù hợp.
II. Chi phí sản xuất sản phẩm xây lắp.
1. Khái niệm và bản chất.
Chi phí sản xuất của doanh nghiệp xây lắp là toàn bộ các chi phí về lao
động sống và lao động vật hoá phát sinh trong quá trình sản xuất và cấu thành nên
giá thành xây lắp.
Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá, các chi phí này đều được biểu hiện
bằng tiền.
Tuy nhiên, để hiểu đúng chi phí sản xuất ta cần phân biệt giữa chi phí và chi
tiêu. Chi phí là khái niệm có phạm vi rộng hơn. Khái niệm chi phí gắn với kỳ hạch
toán là những chi phí về lao động sống và lao động vật hoá liên quan đến khối
lượng sản xuất trong kỳ mà không phải mọi khoản chi ra trong kỳ hạch toán. Ngược
lại, chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư, tài sản, tiền vốn... của doanh
nghiệp bất kể nó được dùng vào mục đích gì. Tổng số chi tiêu trong kỳ của doanh
nghiệp bao gồm chi tiêu cho quá trình cung cấp, chi tiêu cho hoạt động xây lắp.
Chi phí và chi tiêu là hai khái niệm khác nhau nhưng có mối liên hệ mật thiết
với nhau. Chi tiêu là cơ sở phát sinh của chi phí, không có chi tiêu thì không có chi
phí. Chi phí và chi tiêu không chỉ khác nhau về lượng mà còn khác nhau về thời
gian. Có những khoản chi tiêu kỳ này nhưng chưa được tính vào chi phí. Cũng có

những khoản tính vào chi phí kỳ này nhưng chưa chi tiêu. Sở dĩ có sự khác biệt trên
là do đặc điểm, tính chất vận động và phương thức dịch chuyển giá trị của từng loại
tài sản vào quá trình xây lắp và yêu cầu hạch toán của chúng.


Dương Thị Ngọc Tú – Kế toán 39B
2. Phân loại chi phí sản xuất
Việc ngiên cứu thông tin về chi phí phục vụ cho công tác quản trị doanh
nghiệp được xem xét từ nhiều góc độ khác nhau. Do đó, việc hoàn thành chi phí
theo từng loại tiêu thức sẽ nâng cao chi tiết của thông tin, là cơ sở cho việc phấn đấu
giảm chi phí, nâng cao hiệu quả sử dụng và tăng cường quản trị của doanh nghiệp.
Trong chế độ kế toán Việt Nam, chi phí sản xuất được phân loại theo các tiêu
thức sau:
a. Phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố
Theo cách phân loại này, các yếu tố có cùng nội dung kinh tế được xếp chung
vào một yếu tố không phân biệt chi phí sản xuất đó phát sinh ở đâu, hay dùng vào
mục đích gì trong sản xuất nhằm giúp tổng hợp và cân đối mọi chỉ tiêu kinh tế và kế
hoạch của doanh nghiệp. Toàn bộ chi phí sản xuất trong kỳ đối với doanh nghiệp
xây lắp chia thành các yếu tố chi phí sau:
- Chi phí nguyên liệu, vật liệu: bao gồm nguyên vật liệu chính (xi măng, sắt,
thép...), vật liệu phụ, nhiên liệu, công cụ lao động như giày dép, quần áo, cuốc
xẻng... sử dụng vào hoạt động xây lắp
- Chi phí nhân công: phản ánh tiền lương, các khoản phụ cấp lương phải trả
cho toàn bộ công nhân, viên chức và phần BHXH, BHYT, KPCĐ trích theo tỷ lệ
quy định trên tổng số tiền lương và phụ cấp lương phải trả công nhân viên chức.
- Chi phí khấu hao tài sản cố định: phản ánh tổng số khấu hao TSCĐ phải trích
trong kỳ của tất cả các loại TSCĐ trong doanh nghiệp như nhà xưởng, MTC, TSCĐ
dùng trong quản lý...
- Chi phí dịch vụ mua ngoài: phản ánh toàn bộ chi phí dịch vụ mua ngoài phục
vụ hoạt động của doanh nghiệp trong kỳ như tiền điện, nước, điện thoại....

- Chi phí khác bằng tiền: phản ánh toàn bộ chi phí bằng tiền khác chưa phản
ánh vào các yếu tố trên phục vụ cho hoạt động của DN trong kỳ.
Việc phân loại chi phí theo yếu tố có ý nghĩa lớn trong quản lý. Nó giữ được
tính nguyên vẹn của từng yếu tố cũng như từng khoản mục chi ra trong yếu tố. Nó
cho biết kết cấu, tỷ trọng của từng yếu tố chi phí sản xuất để phân tích đánh giá tình
hình thực hiện dự toán chi phí sản xuất. Nó là cơ sở để lập dự toán chi phí sản xuất,
lập kế hoạch cung ứng vật tư, kế hoạch quỹ tiền lương, tính toán nhu cầu vốn lưu
động định mức.
Đối với công tác kế toán nó là cơ sở để lập các báo cáo tài chính giám đốc
tình hình thực hiện dự toán chi phí sản xuất, đồng thời là nhu cầu để tính toán thu
nhập quốc dân đánh giá khái quát tình hình tăng năng suất lao động.
b. Phân loại theo mối quan hệ của chi phí và quá trình sản xuất
Theo cách phân loại này chi phí sản xuất được phân làm hai loại:
- Chi phí trực tiếp: Là những chi phí có liên quan trực tiếp tới quá trình sản
xuất và tạo ra sản phẩm. Những chi phí này có thể tập hợp cho từng công trình,
hạng mục công trình độc lập như nguyên vật liệu xây dựng, tiền lương trực tiếp trả
cho công nhân xây dựng, khấu hao máy móc thiết bị sử dụng trong quá trình thi
công...
- Chi phí gián tiếp: Là những chi phí phục vụ cho hoạt động tổ chức và quản
lý, do đó không tác động trực tiếp vào quá trình sản xuất sản phẩm và cũng không
tính trực tiếp cho từng đối tượng cụ thể. Kết cấu của chi phí gián tiếp cũng tương tự


Dương Thị Ngọc Tú – Kế toán 39B
như chi phí trực tiếp nhưng những chi phí này phát sinh ở bộ phận quản lý đội, phân
xưởng sản xuất của đơn vị xây lắp.Vì vậy, kế toán phải tiến hành phân bổ cho các
đối tượng liên quan theo một tiêu thức thích hợp.
Cách phân loại này có ý nghĩa đối với việc xác định phương pháp tập hợp và
phân bổ chi phí cho các đối tượng một cách hợp lý. Do mỗi loại chi phí trên có tác
dụng khác nhau đến khối lượng và chất lượng công trình nên việc định rõ hai loại

chi phí này có ý nghĩa thực tiễn cho việc đánh giá tính hợp lý của chi phí và tìm
biện pháp không ngừng giảm chi phí gián tiếp, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu
tư của doanh nghiệp. Nó cung cấp thông tin cho việc quản trị doanh nghiệp, đưa ra
quyết định đầu tư vốn vào bộ phận nào là hợp lý.
c. Phân loại theo khoản mục chi phí
Theo cách phân loại này, người ta căn cứ vào mục đích sử dụng và đặc điểm
phát sinh của từng khoản chi phí trong giá thành xây dựng cơ bản để chia ra các
khoản mục chi phí khác nhau. Mỗi khoản mục chi phí chỉ bao gồm những chi phí có
cùng mục đích và công dụng không phân biệt chi phí có nội dung kinh tế như thế
nào.
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Là tất cả những chi phí về nguyên vật liệu
đã chi ra để cấu tạo nên thực thể công trình như vật liệu chính và các phụ gia khác.
Trong khoản mục này không bao gồm các loại vật liệu phụ, nhiên liệu dùng
cho máy móc thi công.
- Chi phí nhân công trực tiếp: là toàn bộ tiền lương chính, lương phụ, phụ cấp
của công nhân trực tiếp sản xuất, công nhân vận chuyển vật liệu thi công, công nhân
làm nhiệm vụ bảo dưỡng, dọn dẹp vật liệu trên công trình, chi phí nhân công thuê
ngoài... Những khoản mục này không bao gồm tiền lương và các khoản có tính chất
lương của công nhân gián tiếp sản xuất như công nhân điều khiển máy móc thi
công, tiền lương công nhân vận chuyển vật liệu ngoài cự ly thi công.
- Chi phí sử dụng máy thi công (MTC): là các chi phí trực tiếp liên quan đến
việc sử dụng máy để hoàn thành sản phẩm xây lắp bao gồm: tiền khâu hao máy
móc, tiền thuê người điều khiển máy móc thi công, chi phí về nhiên liệu, động lực
dùng cho máy thi công.
Do hoạt động của máy thi công trong xây dựng cơ bản nên chi phí sử dụng
máy thi công cia làm hai loại:
+ Chi phí tạm thời: là những chi phí liên quan đến việc lắp ráp, chạy thử, vận
chuyển máy phục vụ sử dụng máy thi công trong từng thời kỳ( phân bổ theo tiêu
thức thời gian sử dụng).
+ Chi phí thường xuyên: là những chi phí hàng ngày cần thiết cho việc sử

dụng máy thi công, bao gồm tiền khấu hao máy móc thiết bị, tiền thuê xe máy, tiền
lương công nhân điều khiển máy, nhiên liệu, động lực, vật liệu dùng cho máy, phí
tổn sửa chữa thường xuyên và các chi phí khác.
- Chi phí sản xuất chung: là những khoản chi phí trực tiếp phục vụ cho sản
xuất của đội, công trình xây dựng, nhưng không đựợc tính trực tiếp cho từng đối
tượng cụ thể. Chi phí sản xuất chung bao gồm: tiền lương và các khoản trích theo
lương của bộ phận quản lý đội, công nhân trực tiếp phục vụ sản xuất thi công, công
nhân điều khiển máy, khấu hao tài sản cố định dùng chung cho quản lý đội, chi phí
bằng tiền khác


Dương Thị Ngọc Tú – Kế toán 39B
Theo cách phân loại này, mỗi loại chi phí thể hiện điều kiện khác nhau của
chi phí sản xuất, thể hiện nơi phát sinh chi phí, đối tượng gánh chịu chi phí. Đồng
thời, cách phân loại này tạo điều kiện để xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân
tố khác nhau vào giá thành sản phẩm phục vụ công tác kế hoạch hóa và tính giá
thành sản phẩm
Ngoài ra, trong các doanh nghiệp xây dựng còn phát sinh các khoản chi phí
thuộc sản xuất kinh doanh phụ, các chi phí thuộc quỹ doanh nghiệp và các nguồn
kinh phí khác. Các chi phí này sẽ được tập hợp lại và phục vụ cho đối tượng nào,
mục đích nào thì sẽ phân bổ cho đối tượng đó, mục đích đó.
Tuy nhiên, do đặc điểm của sản phẩm xây lắp và phương pháp lập dự toán
trong xây dựng cơ bản là dự toán được lập cho từng đối tượng theo các khoản mục
giá thành, nên phương pháp phân loại chi phí theo khoản mục là phương pháp sử
dụng phổ biến trong các doanh nghiệp kinh doanh xây lắp.
III. Giá thành sản phẩm
1.
Khái niệm và bản chất
Trong quá trình sản xuất, một mặt doanh nghiệp phải bỏ ra những chi phí sản
xuất, mặt khác kết quả sản xuất của doanh nghiệp thu được là các sản phẩm, công

việc đã hoàn thành, đáp ứng nhu cầu xã hội. Để đánh giá được chất lượng sản xuất
kinh doanh của một doanh nghiệp, chi phí bỏ ra phải được xem xét trong mối quan
hệ với kết quả sản xuất.
Giá thành sản phẩm xây lắp là toàn bộ các chi phí chi ra như chi phí vật tư, chi
phí nhân công, chi phí máy thi công và những chi phí khác... tính bằng tiền để hoàn
thành một khối lượng sản phẩm xây lắp nhất định. Sản phẩm xây lắp có thể là kết
cấu công việc hoặc giai đoạn công việc có thiết kế và dự toán riêng, có thể là hạng
mục công trình hoặc công trình hoàn thành toàn bộ. Tổng hạng mục công trình hoặc
công trình hoàn thành toàn bộ là giá thành sản phẩm cuối cùng của sản phẩm xây
lắp.
Giá thành nói chung và giá thành sản phẩm xây lắp nói riêng là chỉ tiêu kinh tế
tổng hợp phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh, phản ánh kết quả sử
dụng đúng các loại tài sản, vật tư, lao động, tiền vốn trong quá trình sản xuất cũng
như các giải pháp kinh tế kỹ thuật mà doanh nghiệp đã thực hiện nhằm đạt mục đích
sản xuất được khối lượng sản phẩm nhiều nhất với chi phí tiết kiệm và hạ giá thành.
Giá thành sản phẩm còn là căn cứ để tính toán, xác định hiệu quả kinh tế các hoạt
động sản xuất của doanh nghiệp.
Do đó, đây cũng là chỉ tiêu phản ánh mặt tổ chức, quản lý quá trình hoạt động
sản xuất kinh doanh của đơn vị.
2. Phân loại giá thành sản phẩm xây lắp
a. Phân loại căn cứ trên cơ sở số liệu và thời điểm để tính giá thành
Theo cách phân loại này, giá thành sản phẩm xây lắp được chia ra thành giá
thành dự toán , giá thành thực tế và giá thành kế hoạch.
- Giá thành dự toán (Zdt): là tổng số các chi phí dự toán để hoàn thành một
khối lượng sản phẩm xây lắp. Giá thành dự toán được xây dựng trên cơ sở các định
mức theo thiết kế được duyệt và khung giá quy định đơn giá xây dựng cơ bản áp
dụng vào từng vùng lãnh thổ, từng địa phương do cấp có thẩm quyền ban hành.


Dương Thị Ngọc Tú – Kế toán 39B

Zdt = Giá trị dự toán - Lợi nhuận định mức
Trong đó, giá trị dự toán là chỉ tiêu dùng làm căn cứ cho các doanh nghiệp xây
lắp xây dựng kế hoạch sản xuất của đơn vị.
Lợi nhuận dịnh mức là chỉ tiêu Nhà nước quy định để tích luỹ cho xã hội do
ngành xây dựng sáng tạo ra.
- Giá thành kế hoạch (Zkh): là giá thành được xây dựng từ những điều kiện cụ
thể của doanh nghiệp xây lắp trên cơ sở phấn đâú hạ giá thành so với dự toán bằng
các biện pháp tăng cường quản lý kỹ thuật, vật tư, thi công, các định mức đơn giá áp
dụng trong các doanh nghiệp xây lắp.
Zkh = Zdt - Mức hạ giá dự toán
Giá thành kế hoạch là cơ sở để phấn đấu hạ giá thành sản phẩm xây lắp trong
giai đoạn kế hoạch, phản ánh trình độ quản lý giá thành của doanh nghiệp.
- Giá thành thực tế (Ztt):
Giá thành thực tế sản phẩm xây lắp là biểu hiện bằng tiền của tất cả các chi phí
thực tế mà doanh nghiệp đã bỏ ra để hoàn thành một khối lượng xây lắp nhất định
và được xác định theo số liệu kế toán cung cấp.
Giá thành thực tế sản phẩm xây lắp bao gồm các chi phí theo định mức, vượt
định mức và không theo định mức ( các chi phí về thiệt hại phá đi làm lại, thiệt hại
do ngừng sản xuất, mất mát, hao hụt vật tư... do những nguyên nhân chủ quan của
doanh nghiệp).
Giá thành thực tế là khoản chi thực tế theo khoản mục quy định thống nhất cho
phép tính vào giá thành.
Về nguyên tắc, mối quan hệ giữa ba loại giá thành phải đảm bảo như sau:
Zdt ≥ Zkh ≥ Ztt
Nhờ việc so sánh giá thành thực tế với giá thành dự toán cho phép ta đánh giá
trình độ quản lý cuả doanh nghiệp xây lắp đó, trong mối quan hệ với các doanh
nghiệp xây lắp khác. Việc so sánh giá thành thực tế với giá thành kế hoạch cho phép
ta đánh giá sự tiến bộ hay non yếu của doanh nghiệp xây lắp trong điều kiện cụ thể
về cơ sở vật chất, trình độ tổ chức quản lý của bản thân doanh nghiệp.
b. Phân loại theo phạm vi tính giá thành

Do đặc điểm sản phẩm xây lắp có thời gian thi công kéo dài nên để tiện cho
việc theo dõi chặt chẽ những chi phí phát sinh, người ta thường chia giá thành thực
tế thành những loại sau:
- Giá thành hoàn chỉnh : là giá thành của những công trình, hạng mục công
trình đã hoàn thành, đảm bảo kỹ thuật và chất lượng, đúng thiết kế và hợp đồng bàn
giao được bên chủ đầu tư nghiệm thu và chấp nhận thanh toán. Chỉ tiêu này cho
phép ta đánh giá một cách chính xác và toàn diện hiệu quả sản xuất thi công trọn
vẹn một công trình, hạng mục công trình.
- Giá thành không hoàn chỉnh: phản ánh giá thành của một khối lượng công
tác xây lắp đạt tới điểm dừng kỹ thuật nhất định, nó cho phép kiểm kê kịp thời chi
phí phát sinh để kịp thời điều chỉnh cho thích hợp ở những giai đoạn sau, phát hiện
những nguyên nhân gây tăng giảm chi phí.
Ngoài ra, trong đơn vị xây lắp còn sử dụng hai chỉ tiêu giá thành sau:
- Giá đấu thầu công tác xây lắp: là một loại giá dự toán do chủ đầu tư đưa ra
để các DN xây lắp căn cứ vào đó để tính giá thành của mình.


Dương Thị Ngọc Tú – Kế toán 39B
- Giá hợp đồng công tác xây lắp: là loại giá thành dự toán ghi trong hợp đồng
ký giữa chủ đầu tư và DN xây lắp sau khi thoả thuận giao thầu. Đó cũng chính là
giá thành của đơn vị xây lắp thắng thầu và được chủ đầu tư thoả thuận ký hợp đồng
giao thầu.
Việc áp dụng hai loại giá thành sản phẩm xây lắp trên là yếu tố quan trọng
của việc hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế trong xây dựng. Nó sử dụng quan hệ tiền
- hàng tạo ra sự mềm dẻo trong quan hệ giữa chủ đầu tư và DN xây lắp trong việc
chủ động định giá sản phẩm của mình cũng như chủ động trong kinh doanh, thích
hợp với cơ chế thị trường, cạnh tranh lành mạnh.
3.
Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp
Giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có quan hệ chặt chẽ với nhau

trong quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm. Chi phí biểu hiện hao phí còn giá thành
biểu hiện mặt kết quả của sản xuất. Đây là 2 mặt thống nhất của cùng một quá trình,
vì vậy chúng giống nhau về chất. Giá thành và chi phí sản xuất đều bao gồm các chi
phí về lao động sống và lao động vật hoá mà DN đã bỏ ra trong quá trình chế tạo
sản phẩm. Tuy nhiên, do bộ phận chi phí sản xuất giữa các kỳ không đều nhau nên
giá thành và chi phí lại khác nhau về lượng. Điều đó có thể biểu diễn qua sơ đồ:

A

B

C

D

Trong đó: AB là chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ
AC là tổng giá thành sản phẩm
BD là tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ
CD là chi phí sản xuất dở dang trong kỳ
Hay:
Tổng giá
thành
sản phẩm

=

Chi phí sản
xuất
dở dang đầu
kỳ


Chi phí sản
+ xuất
phát sinh
trong kỳ

-

Chi phí sản
xuất dở dang
cuối kỳ

Như vậy, chi phí và gía thành là hai chỉ tiêu có quan hệ chặt chẽ với nhau
trong quá trình tạo ra sản phẩm. Trong xây dựng cơ bản, muốn tính đúng giá thành
xây lắp phải kết hợp chính xác, kịp thời các chi phí phát sinh theo đối tượng chịu
chi phí cụ thể. Tuy nhiên, hạch toán chi phí sản xuất chưa phải là mục tiêu tính giá
thành, nó chỉ là cơ sở, phương tiện của giá thành. Hạch toán chi phí sản xuất đầy đủ
và chi tiết đến đâu cũng chỉ phản ánh được một mặt của quan hệ này. Nếu chi phí
sản xuất là tổng hợp những chi phí phát sinh trong một thời kỳ nhất định thì giá
thành là tổng hợp những chi phí chi ra gắn liền với việc sản xuất và hoàn thành một
khối lượng công việc xây lắp nhất định được bàn giao, nghiệm thu, thanh toán. Giá
thành sản phẩm không bao gồm chi phí cho khối lượng dở dang cuối kỳ, những chi
phí không liên quan đến hoạt động sản xuất, những chi phí chi ra nhưng chờ phân
bổ cho kỳ sau, nhưng nó lại bao gồm những chi phí sản xuất cuối kỳ trước chuyển


Dương Thị Ngọc Tú – Kế toán 39B
sang, những chi phí trích trước vào giá thành nhưng thực tế chưa phát sinh và những
chi phí kỳ trước chuyển sang phân bổ cho kỳ này.
B. HẠCH TOÁN CHI PHÍ VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP.

I.Vai trò, nhiệm vụ của hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm trong kinh danh xây lắp.
1. Vai trò của hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp.
Hạch toán kế toán là công cụ đắc lực cho quản lý, nó gắn liền với hoạt động
tài chính. Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là khâu quan trọng
trong công tác kế toán của DN sản xuất. Tính đúng, đủ CPSX vào giá thành, có
nghĩa là thực hiện tốt công tác hạch toán CPSX và tính giá thành sản phẩm mới đảm
bảo, phát huy tác dụng của công cụ kế toán đối với hạt động của DN.
Cũng như các ngành sản xuất vật chất khác, ngành XDCB khi tiến hành sản
xuất cũng thực hiện quá trình biến đổi đối tượng lao động thành thành phẩm. Việc
hạch toán đúng, đủ CPSX và giá thành mang lại hiệu quả kinh tế rất lớn đối với DN
xây dựng bởi sự tác động của những thay đổi liên tục trong giá cả vật liệu xây dựng,
nhu cầu nhân công, nhu cầu XDCB... trong từng thời kỳ.
Việc phấn đấu hạ giá thành sản phẩm là một nhiệm vụ quan trọng trong XDCB.
Thông qua chỉ tiêu giá thành công tác xây lắp có thể xác định được kết quả của quá
trình sản xuất kinh doanh, xác định được mức tích luỹ của DN. Đồng thời, nó còn
phản ánh mặt chất lượng trong xây dựng của DN như: Trình độ kỹ thuật thi công,
trình độ tổ chức sản xuất thi công, tình hình sử dụng lao động, vật liệu, thiết bị, khả
năng sử dụng vốn, việc chấp hành chế độ chính sách của Nhà nước tại DN...
2.Nhiệm vụ của hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp.
Thứ nhất: Phản ánh kịp thời, chính xác toàn bộ chi phí phát sinh trong quá
trình sản xuất.
Thứ hai: Phân bổ hợp lý các chi phí sản xuất theo từng khoảm mục vào các
đối tượng tập hợp chi phí.
Thứ ba: Kiểm tra tình hình thực hiện các định mức về chi phí vật liệu, lao
động sử dụng máy, kiểm tra dự toán chi phí gián tiếp, phát hiện kịp thời các khoản
mục chi phí chênh lệch ngoài định mức, ngoài kế hoạch, đề ra các biện pháp ngăn
ngừa kịp thời.
Thứ tư: Kiểm tra việc thực hiện giá thành theo từng khoản mục chi phí, theo
từng hạng mục công trình, vạch ra các khả năng tiềm tàng và đề ra các biện pháp hạ

giá thành sản phẩm.
Thứ năm: Thông qua ghi chép để đánh giá đúng, kịp thời hiệu quả sản xuất
kinh doanh của DN, kịp thời lập báo cáo kế toán về chi phí sản xuất và giá thành
theo quy định của cơ quan chủ quản.
Với những yêu cầu trên, nhiệm vụ của hạch toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm xây lắp là:
- Xác định đúng đối tượng, lựa chọn đúng phương pháp tập hợp và phân bổ
CPSX cho từng đối tượng cho phù hợp với đặc điểm của DN, tổ chức tốt việc
tập hợp chi phí sản xuất.
- Xác định đúng đối tượng tính giá thành và lựa chọn phương pháp tính giá
thành hợp lý, tổ chức thực hiện tốt việc tính giá thành sản phẩm.


Dương Thị Ngọc Tú – Kế toán 39B
-

Xây dựng quy tắc tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm trong DN, quy
định cụ thể trình tự của từng công việc.
II. Hạch toán chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp
1. Đối tượng, phương pháp hạch toán chi phí sản xuất
1.1 Đối tượng và căn cứ xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất
Đối tương hạch toán CPSX là các loại chi phí được tập hợp trong một giới hạn nhất
định nhằm phục vụ cho việc kiểm tra, phân tích chi phí và giá thành sản phẩm. Giới
hạn tập hợp CPSX có thể là nơi gây ra chi phí hoặc nơi chịu chi phí. Để xác định
đúng đối tượng tập hợp chi phí cần căn cứ vào:

Đặc điểm quy trình công nghệ việc sản xuất sản phẩm

Loại hình sản xuất


Yêu cầu và trình độ quản lý DN

Đơn vị tính giá thành trong DN
Trong sản xuất xây lắp, với tính chất phức tạp của quy trình công nghệ, loại
hình sản xuất đơn chiếc thường phân chia thành nhiều khu vực, bộ phận thi công,
mỗi hạng mục đề có giá trị dự toán riêng, thiết kế riêng, cấu tạo vật chất khác nhau
nên tuỳ vào công việc cụ thể, trình độ quản lý của mỗi DN xây lắp, đối tượng tập
hợp chi phí có thể là từng công trình, HMCT hay theo từng đơn đặt hàng.
Việc xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là khâu đầu tiên cần thiết
của công tác tập hợp CPSX. Chỉ có xác định đúng đắn đối tượng tập hợp chi phí
mới có thể tổ chức công tác tập hợp CPSX một cách phù hợp. Từ khâu ghi chép ban
đầu, tổng hợp số liệu, tổ chức tài khoản, tổ chức sổ chi tiết đều phải theo đúng đối
tượng tập hợp CPSX đã xác định
Bên cạnh đó, hạch toán CPSX đúng đối tượng sẽ có tác dụng phục vụ tốt cho
việc tăng cường quản lý sản xuất và CPSX, hạch toán kinh tế nội bộ và hạch toán
kinh tế toàn công ty, đảm bảo cho công tác tính giá thành kịp thời, chính xác.
1.2. Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất.
Phương pháp tập hợp CPSX là phương pháp hệ thống hoá các phương pháp
được sử dụng để tập hợp và phân loại các CPSX theo yếu tố hoặc theo khoản mục
trong phạm vi giới hạn của đối tượng hạch toán chi phí. Trong DN xây lắp có những
phương pháp tập hợp chi phí sau:
- Phương pháp tập hợp CPSX theo hạng mục công trình: hàng tháng, chi phí
sản xuất liên quan đến hạng mục công trình hay nhóm hạng mục công trình nào thì
tập hợp cho hạng mục công trình hay nhóm hạng mục công trình đó.
- Phương pháp tập hợp chi phí theo đơn đặt hàng: các CPSX phát sinh sẽ được
tập hợp và phân loại theo đơn đặt hàng riêng biệt. Khi đơn đặt hàng hoàn thành thì
tổng số chi phí phát sinh kể từ khi khởi công đến khi hoàn thành được tập hợp theo
đơn đặt hàng đó là giá thành thực tế của đơn đặt hàng đó.
- Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất theo đơn vị thi công: các đơn vị thi
công như công trường, các đội thi công, các tổ đội xây lắp thực hiện rộng rãi

phương pháp hạch toán kinh tế nội bộ. Theo phương pháp này, các chi phí phát sinh
được tập hợp theo mỗi đối tượng chịu chi phí như: HMCT, công trình, nhóm
HMCT... Cuối tháng, tổng hợp chi phí phát sinh thực tế ở từng đơn vị thi công để
xác định kết quả hạch toán kinh tế nội bộ. Khi các công trình, HMCT hoàn thành thì


Dương Thị Ngọc Tú – Kế toán 39B
phải tính riêng giá thành cho từng công trình hay HMCT đó bằng phương pháp
thích hợp.
2. Trình tự hạch toán chi phí sản xuất
Trình tự hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là thứ tự các
bước công việc cần tiến hành nhằm tập hợp CPSX để phục vụ cho việc tính giá
thành công trình được kịp thời. Trong XDCB, trình tự đó như sau:
Bước 1: Tập hợp các chi phí cơ bản có liên quan trực tiếp cho từng công trình,
HMCT.
Bước 2: Tính toán và phân bổ lao vụ của ngành sản xuất kinh doanh phụ có liên
quan trực tiếp cho công trình, HMCT trên cơ sở khối lượng lao vụ phục vụ và đơn
vị giá thành lao vụ.
Bước 3: Tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chung cho các công trình, HMCT có
liên quan theo tiêu thức phù hợp.
Bước 4: Xác định thiệt hại thực trong sản xuất ( thiệt hại sản phẩm hỏng, ngừng sản
xuất...) để tính vào CPSX trong kỳ.
Bước 5: Xác định chi phí dở dang cuối kỳ, từ đó tính giá thành công trình hoàn
thành.
3. Hạch toán chi phí sản xuất theo phương pháp kê khai thường xuyên
Phương pháp kê khai thường xuyên là phương pháp theo dõi, phản ánh
thường xuyên, liên tục, có hệ thống tình hình nhập - xuất - tồn vật tư, hàng hoá trên
sổ kế toán. Phương pháp này phù hợp với những DN có quy mô sản xuất lớn, mật
độ nghiệp vụ phát sinh nhiều nhằm tăng cường kiểm soát hoạt động hàng ngày tại
doanh nghiệp..

3.1. Tài khoản sử dụng.
 Tài khoản 621: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Tài khoản này dùng để tập hợp chi phí nguyên vật liệu dùng cho sản xuất phát sinh
trong kỳ, cuối kỳ kết chuyển sang tài khoản tập hợp chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm. Kết cấu của tài khoản này như sau:
Bên Nợ: Giá thực tế nguyên vật liệu dùng trực tiếp cho sản xuất chế tạo sản
phẩm.
Bên Có: - Kết chuyển chi phí nguyên vật liệu vào tài khoản 154 - Chi phí sản
xuất kinh doanh dở dang.
- Giá trị thực tế nguyên vật liệu sử dụng không hết nhập lại kho.
Tài khoản 621 cuối kỳ không có số dư. Tài khoản này được mở chi tiết cho
từng đối tượng tập hợp chi phí.
 Tài khoản 622: Chi phí nhân công trực tiếp
Tài khoản này dùng để tập hợp và kết chuyển chi phí về tiền công của công
nhân trực tiếp sản xuất vào tài khoản tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm. Kết cấu của tài khoản này như sau
Bên Nợ: Chi phí nhân công trực tiếp trong kỳ
Bên Có: Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp vào tài khoản 154
Tài khoản 622 cuối kỳ không có số dư và được mở chi tiết cho từng đối
tượng tập hợp chi phí.
Tài khoản 623: Chi phí máy thi công


Dương Thị Ngọc Tú – Kế toán 39B
Tài khoản này dùng để tập hợp và phân bổ chi phí sử dụng xe máy thi công
phục vụ trực tiếp cho hoạt động xây lắp công trình. Tài khoản này chỉ sử dụng để
hạch toán chi phí sử dụng xe máy thi công đối với trường hợp doanh ngiệp xây lắp
thực hiện xây lắp công trình theo phương thức thi công hỗn hợp vừa thủ công vừa
kết hợp bằng máy.
Trường hợp doanh nghiệp thực hiện xây lắp công trình hoàn toàn theo

phương pháp bằng máy thì không sử dụng tài khoản 623 mà doanh nghiệp hạch
toán các chi phí xây lắp trực tiếp vào các TK 621, 622,627.
Nội dung, kết cấu của TK 623 như sau:
Bên Nợ: Các chi phí liên quan đến máy thi công (chi phí nguyên vật liệu cho
máy hoạt động, chi phí tiền lương và các khoản phụ cấp lương, tiền công của công
nhân trực tiếp điều khiển máy, chi phí bảo dưỡng, sửa chữa máy thi công...)
Bên Có: Kết chuyển chi phí sử dụng máy thi công
Tài khoản 623 không có số dư cuối kỳ
Tài khoản 623 có 6 tài khoản cấp 2.
- TK 6231: Chi phí nhân công
- TK 6232: Chi phí vật liệu
- TK 6233: Chi phí dụng cụ sản xuất
- TK 6234: Chi phí khấu hao máy thi công
- TK 6237: Chi phí dịch vụ mua ngoài
- TK 6238: Chi phí bằng tiền khác
 Tài khoản 627: chi phí sản xuất chung
Tài khoản này được dùng để tập hợp toàn bộ chi phí liên quan đến việc phục
vụ, quản lý , chế tạo sản phẩm phát sinh trong các phân xưởng bộ phận, tổ đội sản
xuất. Kết cấu của tài khoản như sau:
Bên Nợ:Tập hợp chi phí sản xuất chung trong kỳ
Bên Có: Phân bổ vào tài khoản 154
Tài khoản này cuối kỳ không có số dư và được mở cho từng đối tượng, từng
hoạt động, từng phân xưởng, từng tổ đội.
TK 627 có 6 tiểu khoản cấp 2
- TK 6271: Chi phí nhân công phân xưởng
- TK 6272: Chi phí vật liệu
- TK 6273: Chi phí công cụ, dụng cụ sản xuất
- TK 6274: Chi phí khấu hao TSCĐ
- TK 6277: Chi phí dịch vụ mua ngoài
- TK 6278: Chi phí khác bằng tiền

Tài khoản 154: Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang
Tài khoản 154 được sử dụng để tập hợp chi phí trong kỳ liên quan đến sản
xuất, chế tạo sản phẩm phục vụ cho việc tính giá thành sản phẩm. Ngoài ra, tài
khoản 154 còn phản ánh các chi phí liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh
phụ, thuê ngoài gia công tự chế.
Bên Nợ: Chi phí sản xuất chế tạo sản phẩm trong kỳ
Bên Có: Giá trị phế liệu thu hồi, sản phẩm hỏng không sửa chữa được.
Dư Nợ: Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang cuối kỳ.


Dương Thị Ngọc Tú – Kế toán 39B
Tài khoản 154 được hạch toán chi tiết cho từng đối tượng tập hợp chi phí sản
xuất
3.2. Trình tự hạch toán.
a. Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Chi phí NVL trực tiếp là những chi phí về NVL chính, vật liệu phụ, các cấu
kiện hoặc các bộ phận rời, vật liệu luân chuyển tham gia cấu thành nên thực thể sản
phẩm xây lắp (không kể vật liệu phụ cho máy móc, phương tiện thi công và những
vật liệu tính trong chi phí sản xuất chung). Giá trị vật liệu được hạch toán vào khoản
mục này ngoài giá trị thực tế còn có cả chi phí thu mua vận chuyển từ nơi mua về
nơi nhập kho vật liệu hoặc xuất thẳng đến chân công trình.
Nguyên vật liệu sử dụng cho xây dựng HMCT nào phải được tính trực tiếp
cho HMCT đó trên cơ sở chứng từ gốc theo số lượng thực tế đã sử dụng và theo giá
xuất thực tế. Trường hợp NVL xuất dùng có liên quan đến nhiều công trình, không
thể tổ chức hạch toán riêng được thì kế toán áp dụng phương pháp phân bổ chi phí
cho các công trình theo tiêu thức thích hợp dựa trên công thức:
Chi phí vật liệu
phân bổ cho từng
đối tượng
Tỷ lệ (hay

hệ số) phân
bổ

Tổng tiêu thức
phân bổ cho từng
đối tượng

=

=

x

Tỷ lệ (hay
hệ số) phân
bổ

Tổng chi phí vật liệu cần
phân bổ
Tổng tiêu thức phân bổ của tất cả các
đối tượng

Vật tư mua về có thể được nhập kho hoặc xuất thẳng ra công trình. Trường
hợp công trình thi công nhận vật tư từ kho vật tư của DN thì căn cứ vào nhu cầu sản
xuất thi công, định mức hao phí vật liệu các đơn vị thi công sẽ xin lĩnh vật tư sử
dụng. Sau khi được các phòng ban liên quan xét duyệt, phòng cung ứng vật tư làm
phiếu xuất kho cho đơn vị sử dụng.
PHIẾU XUẤT KHO
Ngày... tháng... năm
Nợ TK:

Có TK:
Họ tên người nhận hàng:........................................................................
Địa chỉ (Bộ phận):..................................................................................
Lý do xuất kho:......................................................................................
Xuất tại kho:...........................................................................................

STT

Tên sản
hàng hoá

phẩm

Đơn
tính

vị Số lượng
Đơn
Yêu cầu Thực xuất giá

Tổng cộng
Cộng thành tiền (viết bằng chữ):

Thành
tiền


Dương Thị Ngọc Tú – Kế toán 39B
Phụ trách bộ phận
Phụ trách

Người nhận
Thủ kho
sử dụng
cung tiêu
Khi xuất vật tư thủ kho sẽ ghi số thực xuất của cột trên phiêú xuất. Sau mỗi lần
xuất vật tư, thủ kho phải căn cứ vào số liệu trong phiếu ghi số thực xuất vào thẻ
kho. Cuối tháng, thủ kho phải ghi lại phiếu của đơn vị lĩnh, kiểm tra đối chiếu với
thẻ kho và chuyển lên phòng cung ứng vật tư và phòng kế toán. Cuối kỳ hạch toán
kiểm kê số vật liệu còn lại nơi sản xuất để ghi giảm trừ chi phí vật liệu đã tính cho
từng đối tượng hạch toán chi phí.
Thông qua kết quả hạch toán chi phí vật liệu hao phí thực tế theo từng nơi phát
sinh cho từng đối tượng chịu phí, thường xuyên kiểm tra đối chứng với định mức và
dự toán để phát hiện kịp thời những lãng phí mất mát hoặc khả năng tiết kiệm vật
liệu, xác định nguyên nhân, người chịu trách nhiệm để xử lý hoặc khen thưởng kịp
thời nhằm phấn đấu tiết kiệm chi phí vật liệu hạ giá thành sản phẩm xây lắp.
Để hạch toán chi phí NVL trực tiếp, kế toán sử dụng tài khoản 621- Chi phí NVL
trực tiếp. Tài khoản này được mở cho từng công trình, HMCT.
Trình tự hạch toán chi phí NVL như sau:
- Khi xuất kho, kế toán sẽ ghi:
Nợ T K 621: Chi phí NVL trực tiếp ( giá chưa có thuế GTGT)
Có T K 152
- Trường hợp NVL không về nhập kho mà xuất dùng trực tiếp
Nợ T K 621: Chi phí NVL trực tiếp
Nợ T K 133: thuế GTGT đầu vào được khấu trừ
Có T K 331, 111, 112: vật liệu mua ngoài
- Tạm ứng chi phí để thực hiện giá trị khoán xây lắp nội bộ ( trưòng hợp đơn vị
nhận khoán không tổ chức hạch toán kế toán riêng): khi bản quyết toán tạm
ứng về giá trị khối lượng xây lắp đã hoàn thành bàn giao được duyệt.
Nợ T K 621: Chi phí NVL trực tiếp
Nợ T K 133: Thuế GTGT được khấu trừ (nếu có)

Có T K 141: Tạm ứng (1413)
- Nếu vật liệu sử dụng không hết nhập lại kho
Nợ T K 152
Có T K 621
- Cuối kỳ căn cứ vào giá trị kết chuyển hoặc phân bổ nguyên vật liệu cho từng
hạng mục kế toán ghi vào khoản mục cho chi phí vật liệu cuối kỳ hạch toán
bằng bút toán sau:
Nợ T K 154: Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang
Có T K 621
b.Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp
Chi phí nhân công trực tiếp của DN xây lắp là những khoản thù lao phải trả
cho người lao động trực tiếp tham gia quá trình hoạt động xây lắp ( bao gồm cả các
khoản phải trả cho người lao động thuộc quản lý của DN và cho lao động thuê ngoài
theo loại công việc) gồm tiền lương, tiền công lao động và các khoản trích trên tiền
lương theo quy định. Chi phí nhân công trực tiếp không bao gồm các khoản BHXH,
BHYT, KPCĐ tính trên quỹ lương công nhân trực tiếp của hoạt động xây lắp.
Nội dung của hạch toán lao động tiền lương:


Dương Thị Ngọc Tú – Kế toán 39B
Hạch toán thời gian lao động: Việc hạch toán thời gian lao động được tính
theo từng loại công nhân viên, theo từng công việc được giao cho từng đối tượng
hạch toán chi phí và giá thành.
Theo dõi thời gian lao động được tiến hành trên bảng chấm công. Các chứng
từ này sau khi được kiểm tra, xác nhận ở đội sản xuất, các phòng ban có liên quan
được chuyển lên phòng kế toán. Kế toán tiền lương lấy đây là cơ sở tính lương theo
dõi trên tài khoản chi phí có liên quan.
Hạch toán khối lượng công việc giao khoán: Chứng từ ban đầu sử dụng để
hạch toán là: “Hợp đồng giao khoán”. Hợp đồng giao khoán được ký theo từng phần
công việc, giai đoạn công việc theo HMCT hoàn thành và được xác nhận kết quả rồi

chuyển về phòng kế toán làm căn cứ tính lương.
Tính luơng, trả lương và tổng hợp phân bổ tiền lương: Hàng tháng, căn cứ
vào bảng chấm công, hợp đồng giao khoán và các chứng từ có liên quan khác để
làm chứng từ thanh toán luơng và kiểm tra việc trả luơng cho cán bộ công nhân
viên. Bảng thanh toán luơng độc lập hàng tháng theo từng đội sản xuất, bộ phận thi
công và các phòng ban. Việc tổng hợp phân bổ tiền luơng vào các tài khoản chi phí
vào các đối tượng sử dụng được thực hiện trên Bảng phân bổ tiền lương và bảo
hiểm xã hội.
Trình tự hạch toán lao động tiền luơng
- Hàng tháng căn cứ vào bảng tính lương tính ra số tiền công, tiền luơng và
phụ cấp phải trả trực tiếp cho công nhân trực tiếp cho hoạt động xây lắp, kế toán
ghi:
Nợ TK 622 ( Chi tiết theo dõi công trình, HMCT)
Có TK 334: Tổng tiền lương phải trả cho công nhân trực tiếp
- Tạm ứng chi phí nhân công để thực hiện giá trị khoán xây lắp nội bộ (trường
hợp đơn vị nhận khoán không tổ chức hạch toán kế toán riêng), khi bản quyết toán
tạm ứng về giá trị khối lượng xây lắp hoàn thành đã bàn giao được duyệt, ghi:
Nợ TK 622:Chi phí nhân công trực tiếp
Có TK 141: Tạm ứng (1413)
- Cuối kỳ kế toán, tính phân bổ và kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp và
các khoản trích theo lương theo đối tượng tập hợp CPSX, ghi:
Nợ TK 154(1541): khoản mục chi phí nhân công trực tiếp
Có TK 622
c.Hạch toán khoản mục chi phí máy thi công
Máy móc thi công là những máy móc thiết bị chạy bằng động cơ được sử
dụng trực tiếp cho công tác thi công như: máy xúc, máy đóng cọc, máy trộn bê tông,
máy vận thăng, máy đầm.... Chi phí sử dụng MTC là những chi phí có liên quan
trực tiếp đến việc sử dụng xe và MTC.
Do đặc điểm hoạt động của MTC trong XDCB mà chi phí MTC được chia làm hai
loại cơ bản:

Chi phí thường xuyên gồm: luơng chính, lương phụ của công nhân điều
khiển máy, phục vụ máy... (không bao gồm các khoản trích về BHXH, BHYT,
KPCĐ tính trên lương phải trả công nhân sử dụng MTC); chi phí NVL; chi phí công
cụ, dụng cụ; chi phí khấu hao TSCĐ; chi phí dịch vụ mua ngoài (chi phí sửa chữa
nhỏ, điện nước, bảo hiểm xe, máy...); chi phí khác bằng tiền.


Dương Thị Ngọc Tú – Kế toán 39B
Chi phí tạm thời sử dụng MTC gồm: chi phí sửa chữa lớn MTC; chi phí công
trình tạm thời cho MTC (lều, lán, bệ, đường ray chạy máy....)
Để hạch toán và xác định chi phí sử dụng MTC chính xác, kịp thời cho các
đối tượng sử dụng chi phí, trước hết phải tổ chức tốt khâu hạch toán công việc hàng
ngày của máy trên phiếu theo dõi hoạt động của xe, MTC. Phiếu này áp dụng cho
tất cả các loại xe làm nhiệm vụ thi công. Định kỳ mỗi xe được phát một nhật trình
do công nhân điều khiển máy ghi rõ tên máy, đối tượng phục vụ, khối luợng hoàn
thành, số ca lao động thực tế... Cuối tháng chuyển về phòng kế toán làm căn cứ để
kiểm tra, xác định chi phí sử dụng máy và các đối tượng xây lắp có liên quan.
Việc hạch toán cụ thể chi phí sử dụng MTC phụ thuộc vào hình thức sử dụng
MTC.
∗ Nếu tổ chức đội MTC riêng biệt và có phân cấp hạch toán cho đội máy có tổ
chức hạch toán kế toán riêng thì việc hạch toán được tiến hành như sau:
+ Hạch toán các chi phí liên quan tới hoạt động của đội MTC, ghi:
Nợ TK 621, 622, 627
Có các TK liên quan
+ Hạch toán chi phí sử dụng máy và tính giá thành ca máy thực hiện trên TK 154 Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang căn cứ vào giá thành ca máy ( theo giá thành
thực tế hoặc theo giá khoán nội bộ) cung cấp cho các đối tượng xây lắp ( công trình,
HMCT); tuỳ theo phương thức tổ chức hạch toán và mối quan hệ giữa đội MTC với
đơn vị xây lắp công trình, ghi:
+ Nếu DN thực hiện theo phương thức cung cấp lao vụ máy lẫn nhau giữa các bộ
phận, ghi:

Nợ TK 623 (6238)
Có TK 154
+ Nếu DN thực hiện theo phương thức bán lao vụ máy lẫn nhau giữa các bộ phận,
ghi:
Nợ TK 623 (6238)
Nợ TK 133 (1331) - Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ (nếu có)
Có các TK 511, 512
Có TK 3331 (3311) - Thuế GTGT đầu ra phải nộp (nếu có)
∗ Nếu không tổ chức đội MTC riêng biệt hoặc có tổ chức đội MTC riêng nhưng
không tổ chức kế toán riêng cho đội MTC thì toàn bộ chi phí sử dụng máy ( cả
chi phí thường xuyên và tạm thời như: phụ cấp lương, phụ cấp lưu động của xe,,
MTC) sẽ hạch toán như sau:
+ Căn cứ vào số tiền lương ( lương chính, lương phụ... không bao gồm các khoản
BHXH, BHYT, KPCĐ), tiền công phải trả cho công nhân điều khiển máy, phục vụ
máy, ghi:
Nợ TK 623 (6231)
Có TK 334, 111
+ Khi xuất kho hoặc mua NVL, nhiên liệu, vật liệu phụ sử dụng cho xe, MTC, ghi:
Nợ TK 623 (6232)
Nợ TK 133 (nếu được khấu trừ thuế GTGT)
Có các TK 111, 112, 331, 152, 153...


Dương Thị Ngọc Tú – Kế toán 39B
+ Khấu hao xe, MTC ở đội MTC, ghi:
Nợ TK 623 (6234)
Có TK 214
+ Chi phí dịch vụ mua ngoài phát sinh ( sửa chữa MTC thuê ngoài, tiền điện, nước,
tiền thuê TSCĐ, chi phí phải trả cho nhà thầu phụ...), ghi:
Nợ TK 623 (6237)

Nợ TK 133 (nếu được khấu trừ thuế GTGT)
Có các T K 111, 112, 331...
+ Chi phí khác bằng tiền phát sinh, ghi:
Nợ TK 623 (6238)
Nợ TK 133 (nếu được khấu trừ thuế GTGT)
Có các TK 111,112...
+ Căn cứ vào bảng phân bổ chi phí sử dụng MTC ( chi phí thực tế ca máy) tính cho
từng công trình, HMCT, ghi:
Nợ TK 154 (1541) - Khoản mục chi phí sử dụng MTC
Có TK 623
+ Trường hợp tạm ứng chi phí MTC để thực hiện giá trị khoán xây lắp nội bộ
( trường hợp đơn vị nhận khoán không tổ chức hạch tán kế toán riêng): khi bản
quyết toán tạm ứng về giá trị khối lượng xây lắp hoàn thành bàn giao được duyệt,
ghi:
Nợ TK 623
Có TK 141 (1413)
d.Hạch toán khoản mục chi phí sản xuất chung
Chi phí sản xuất chung phản ánh chi phí của đội, công trường xây dựng gồm:
lương nhân viên quản lý đội xây dựng; tiền ăn giữa ca của nhân viên quản lý đội
xây dựng, của công nhân xây lắp; khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ được tính theo
tỷ lệ (%) quy định hiện hành tiền lương phải trả cho công nhân trực tiếp xây lắp,
nhân viên sử dụng MTC và nhân viên quản lý đội ( thuộc biên chế DN); khấu hao
TSCĐ dùng chung cho hoạt động của đội và những chi phí khác liên quan đến hoạt
đông của đội (chi phí không có thuế GTGT đầu vào được khấu trừ thuế).
Nếu chi phí sản xuất chung có liên quan đến nhiều đối tượng thì cuối kỳ cần
phân bổ chi phí SXC cho các đối tượng. Việc phân bổ chi phí này có thể dựa vào
tiền lương của công nhân xây lắp hoặc có thể dựa vào chi phí MTC. Tuỳ theo điều
kiện sản xuất đặc thù của mình mà DN có thể lựa chọn các biện pháp phân bổ khác
nhau. Để hạch toán chi phí SXC, kế toán sử dụng TK 627 - Chi phí sản xuất chung
Phương pháp hạch toán cụ thể chi phí sản xuất chung như sau:

+ Khi tính tiền lương , các khoản phụ cấp trả cho nhân viên của đội, ghi:
Nợ TK 627: Chi phí sản xuất chung (6271)
Có TK 334
+ Khi trích BHXH, BHYT,, KPCĐ theo tỷ lệ quy đinh hiện hành trên tiền
lương phải trả cho công nhân trực tiếp xây lắp, nhân viên sử dụng MTC, nhân viên
quản lý đội, ghi:
Nợ TK 627 (6271)
Có TK 338 (3382, 3383, 3384)
+ Hạch toán chi phí NVL, CCDC cho đội xây dựng, ghi:


Dương Thị Ngọc Tú – Kế toán 39B
Nợ TK 627 (6272,6273)
Có TK 152, 153
+ Khấu hao máy móc thiết bị sản xuất thuộc đội xây dựng, ghi:
Nợ TK 627(6274)
Có TK 214
Đồng thời ghi đơn Nợ TK 009
+ Chi phí điện, nước, điện thoại thuộc đội xây dựng, ghi:
Nợ TK 627 (6278)
Nợ TK 133 - VAT được khấu trừ (nếu có)
Có TK 111, 112, 335
Cuối kỳ, hạch toán kết chuyển chi phí sản xuất chung vào sản phẩm dở dang,
ghi:
Nợ TK 154
Có TK 627
4. Hạch toán chi phí sản xuất theo phương pháp kiểm kê định kỳ
Phương pháp kiểm kê định kỳ để phản ánh hàng tồn kho là phương pháp
phản ánh không thường xuyên liên tục tình hình biến động tăng, giảm của tất cả các
loại hàng tồn kho và các loại thích ứng để xác định giá trị hàng tồn kho xuất sử

dụng trong kỳ phải dựa vào kết quả kiểm kê định kỳ.
4.1. Tài khoản sử dụng
Để tập hợp chi phí sản xuất theo phương pháp kiểm kê định kỳ, kế toán sử
dụng tài khoản 631 - Giá thành sản phẩm với kết cấu như sau:
Bên Nợ: - Phản ánh giá trị dở dang, chưa hoàn thành hoặc đã hoàn thành
nhưng chưa bàn giao đầu kỳ.
-Chi phí sản xuất thực tế phát sinh trong kỳ
Bên Có: - Kết chuyển giá trị làm dở dang, chưa hoàn thành hoặc đã hoàn
thành nhưng chưa bàn giao cuối kỳ.
-Giá thành thực tế của sản phẩm hoàn thành bàn giao trong kỳ
TK 631 cuối kỳ không có số dư. Ngoài ra, kế toán còn sử dụng TK 611
(6111)- mua nguyên vật để hạch toán.
TK 154 - Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang, kết cấu như sau
Bên Nợ: - Các chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp,
chi phí sử dụng MTC, chi phí sản xuất chung phát sinh trong kỳ liên quan đến giá
thành sản phẩm xây lắp trong kỳ
- Giá thành xây lắp của nhà thầu phụ hoàn thành bàn giao cho nhà thầu chính
chưa được xác định tiêu thụ trong kỳ kế toán.
Bên Có: - Giá thành sản phẩm xây lắp hoàn thành bàn giao .
-Giá thành xây lắp của nhà thầu phụ hoàn thành bàn giao cho nhà thầu chính
được xác định tiêu thụ trong kỳ kế toán.
Số dư bên Nợ: - Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang cuối kỳ.
-Giá thành xây lắp của nhà thầu phụ hoàn thành bàn giao cho nhà thầu chính
chưa được xác định bàn giao trong kỳ kế toán.
4.2. Trình tự hạch toán
a.Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp


Dương Thị Ngọc Tú – Kế toán 39B
Để phản ánh các chi phí vật liệu dùng cho xây dựng công trình, kế toán sử

dụng TK 621 - Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Các chi phí được phản ánh trên TK
621 không ghi theo chứng từ xuất dùng nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ mà ghi
một lần vào chứng từ hạch toán sau khi tiến hành kiểm kê và xác định nguyên vật
liệu tồn kho và hàng mua đi đường.
Giá trị thực
tế nguyên
vật liệu xuất
dùng

=

Giá trị thực
tế nguyên
vật liệu tồn
đầu kỳ

+

Giá trị
thực tế
NVL nhập
trong kỳ

-

Giá trị thực
tế NVL tồn
cuối kỳ

Để xác định giá trị NVL thực tế xuất dùng cho các nhu cầu sản xuất, chế tạo

sản phẩm, phục vụ bán hàng hay quản lý DN phải căn cứ vào mục đích sử dụng
từng loại NVL, tỷ lệ phân bổ, kinh nghiệm hoặc dự toán. Đây là nhược điểm lớn
nhất của phương pháp này đối với công tác quản lý bởi vì ta không thể biết về tình
hình cụ thể xuất sử dụng NVL như thế nào.
Nội dung hạch toán tập hợp chi phí sản xuất theo phương pháp kiểm kê định
kỳ được phản ánh qua sơ đồ sau:


Dương Thị Ngọc Tú – Kế toán 39B

Sơ đồ hạch toán chi phí sản xuất
Nguyên vật liệu tồn cuối kỳ
TK 151, 152, 153
cuối kỳ

TK 611 (6111)

TK 621
TK 631

Nguyên vật liệu
tồn đầu kỳ
Giá trị vật liệu

TK 331, 111, 112

Kết chuyển

xuất trong kỳ
Nguyên vật liệu

nhập trong kỳ
VAT khấu
trừ

TK 1331

b.Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp, chi phí máy thi công, chi phí sản xuất
chung
Việc hạch toán chi phí nhân công trực tiếp, chi phí máy thi công, chi phí sản
xuất chung tương tự như phương pháp kê khai thường xuyên.
III. Tổng hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
1. Tổng hợp chi phí sản xuất để tính giá thành sản phẩm hoàn thành
1.1. Theo phương pháp kê khai thường xuyên
Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp được
thực hiện trên TK 154 - Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang.
Ngoài ra, toàn bộ giá thành của sản phẩm hoàn thành bàn giao trong kỳ được
phản ánh trên TK 632 - Giá vốn hàng bán.
Giá thành sản phẩm xây lắp được xây dụng trên cơ sở tổng cộng các chi phí
phát sinh từ lúc khởi công đến khi hoàn thành. Giá thành công tác xây lắp trong kỳ
được tính theo công thức:
Giá
thành
xây
lắp

=

Chi phí sản
xuất kinh
doanh dở

dang đầu
kỳ

+

Chi phí sản
xuất kinh
doanh
phát sinh
trong kỳ

-

Chi phí sản
xuất kinh
doanh dở
dang cuối
kỳ


Dương Thị Ngọc Tú – Kế toán 39B
Sơ đồ hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
TK 621

TK 154

TK 632

TK 911


Kết chuyển CP nvltt

TK 622

Kết chuyển giá
thành
sản phẩm hoàn
thành

K/c CP NCTT

Kết chuyển giá
thành
xác định kết quả
KD

TK 623

1.2.

K/c CP MTC

TK 627
K/c CP SXC

TK 631

TK 154

CP SXKDD đầu kỳ


TK 154

TK 911

CP SXKD DD cuối kỳ
TK 632

TK 621
K/c CP NVL

Giá trị sản phẩm xây
lắp
hoàn thành trong kỳ

TK 622
K/c CP NC

TK 623

1.2CP
Theo
phương pháp kiểm kê định kỳ
K/c
MTC

K/c CP SXC

Kết chuyển giá thành
xác đinh kết quả KD



Dương Thị Ngọc Tú – Kế toán 39B

2. Kiểm kê, đánh giá sản phẩm dở dang trong xây lắp
Sản phẩm dở dang trong kinh doanh xây lắp chính là các công trình, HMCT
tới cuối kỳ hạch toán còn chưa hoàn thành hoặc đã hoàn hành nhưng chưa tiến hành
bàn giao cho chủ đầu tư. Xác định giá thành sản phẩm dở dang phải tiến hành kiểm
kê thực tế và tiến hành phân bổ. Phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang phụ thuộc
vào phương thức bàn giao và thanh toán giữa đơn vị xây lắp và chủ đầu tư.
Nếu quy định thanh toán theo điểm dừng kỹ thuật hợp lý thì sản phẩm dở
dang là khối lượng xây lắp tới cuối kỳ hạch toán vẫn chưa đạt tới điểm dừng kỹ
thuật hợp lý đã quy định và được đánh giá theo chi phí thực tế đã phát sinh trên cơ
sở phân bổ chi phí thực tế phát sinh của công trình, HMCT đó cho các giai đoạn
công việc đã hoàn tất và còn dở dang theo tỷ lệ với giá dự toán của chúng.
Nếu quy định cho sản phẩm xây dựng khi hoàn thành toàn bộ thì giá trị sản
phẩm dở dang được xác định bằng toàn bộ các chi phí sản xuất phát sinh từ lúc khởi
công đến cuối kỳ hạch toán.
Xác định giá trị thực tế sản phẩm dở dang cuối kỳ được tính theo công thức
sau:
Chi phí
thực tế
khối
lượng
xây lắp
dở dang
cuối kỳ

=


Chi phí thực tế
khối lượng xây
dựng dở dang
ĐK
Giá thành khối
lượng xây lắp
hoàn thành
trong kỳ theo

+

+

Chi phí thực tế
khối lượng xây
lắp phát sinh
trong kỳ
Giá trị dự toán
khối lượng xây
lắp dở dang CK

x

Giá trị dự
toán khối
lượng xây
lắp dở
dang CK



Dương Thị Ngọc Tú – Kế toán 39B

3. Hạch toán các khoản thiệt hại trong xây dựng
Hoạt động XDCB rất dễ có sai sót. Thiệt hại trong sản xuất xây lắp bao gồm
thiệt hại phá đi làm lại và thiệt hại ngừng sản xuất. Toàn bộ giá trị thiệt hại được tập
hợp vào TK 154, TK 1421 hay TK 627. Khi thiệt hại xảy ra, bên nhận thầu và chủ
đầu tư tiến hành phân tích, tìm ra nguyên nhân, trách nhiệm để có biện pháp xử lý
kịp thời. Thiệt hại có thể do xây lắp sai hay chất lượng vật liệu không bảo đảm hay
thiệt hại có thể do chủ đầu tư gây ra như: thay đổi so với hợp đồng, tiền vốn không
đủ
Việc hạch toán thiệt hại về ngừng sản xuất giống như trong DN công nghiệp.
Với những khoản chi phí về ngừng sản xuất theo kế hoạch dự kiến, kế toán theo dõi
ở tài khoản 335 - Chi phí phải trả. Trường hợp ngừng sản xuất bất thường, các chi
phí bỏ ra trong thời gian này do không được chấp thuận nên phải theo dõi riêng trên
TK 142- Chi phí trả trước. Cuối kỳ, sau khi trừ phần thu hồi (nếu có), giá trị thiệt
hại thực tế sẽ được xử lý theo quyết định tuỳ thuộc nguyên nhân gây thiệt hại. Cách
hạch toán được phản ánh qua sơ đồ sau:
TK 334, 338, 152, 214,
111...

TK 335

Chi phí thực tế ngừng
sản xuất trong kế
hoạch

TK 627, 642
Trích trước chi phí về
ngừng
sản xuất theo kế hoạch


TK 142
Chi phí thực tế
ngừng
sản
xuất ngoài kế hoạch

TK 138, 334
Giá trị bồi thường

TK 821
Tính vào chi phí bất
thường

Đối với thiệt hại về phá đi làm lại kế toán cần mở sổ theo dõi riêng và hạch
toán như sau:
Nếu thiệt hại do đơn vị xây lắp gây ra: sau khi xác định giá trị thiệt hại và
cách xử lý, kế toán phân giá trị thiệt hại thành từng khoản và ghi:
Nợ TK 111, 112, 152 - Giá trị phế liệu thu hồi
Nợ TK 1388, 334 - Giá trị cá nhân phải bồi thường


Dương Thị Ngọc Tú – Kế toán 39B
Nợ TK 821 - Giá trị tính vào chi phí bất thường
Nợ TK 415 - Thiệt hại trừ vào dự phòng
Có TK 154 - Giá trị thiệt hại
Nếu thiệt hại do chủ đầu tư yêu cầu và chịu bồi thường:
Nợ TK 111, 112, 152 - Giá trị phế liệu thu hồi
Nợ TK 131 - GIá trị chủ đầu tư đồng ý bồi thường
Có TK 154 - Tổng giá trị thiệt hại

Trong trường hợp thiệt hại xảy ra trong thời gian bảo hành sản phẩm, chi phí
thiệt hại được tập hợp vào TK 621, 622, 627, 154 ( chi tiết theo công trình bảo
hành). Toàn bộ chi phí bảo hành phát sinh trong kỳ sẽ được trừ vào kết quả của kỳ
mà nó phát sinh ra. Kế toán ghi:
Nợ TK 632
Có TK 154 ( chi phí bảo hành công trình thực tế phát sinh)
Các tài khoản 621, 622, 627, 154 được chi tiết theo từng công trình bảo hành.
4. Tính giá thành cho sản phẩm hoàn thành trong doanh nghiệp xây lắp
4.1. Đối tượng tính giá thành sản phẩm xây lắp
- Xác định đúng đối tượng tính giá thành là công việc cần thiết cho việc tính
giá thành sản phẩm xây lắp. Để xác định đúng đối tượng tính giá thành, phải căn cứ
vào đặc điểm sản xuất hoàn thành mà doanh nghiệp tiến hành, xem xét doanh
nghiệp tổ chức hoạt động như thế nào, quy trình công nghệ, tính chất sản phẩm ra
sao....
- Đối tượng tính giá thành: Từ những căn cứ trên, trong doanh nghiệp xây
lắp, đối tượng tính giá thành trùng với đối tượng tập hợp chi phí sản xuất. Đó có thể
là công trình, HMCT, Đơn đặt hàng xây lắp đã hoàn thành. Đây là căn cứ để kế toán
mở các phiếu tính giá thành và lập theo từng đối tượng phục vụ cho quá trình kiển
tra tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm, tính toán hiệu quả, xác định
chính xác thu nhập.
4.2. Kỳ tính giá thành
Kỳ tính giá thành là mốc thời gian bộ phận kế toán giá thành phải tổng hợp
số liệu để tính giá thành thực tế cho các đối tượng tính giá thành.
Kỳ tính giá thành trong xây dựng cơ bản phụ thuộc vào đặc điểm tổ chức
sản xuất, chu kỳ sản xuất và hình thức nghiệm thu bàn giao khối luợng sản phẩm
hoàn thành. Xác định kỳ tính giá thành cho từng đối tượng thích hợp sẽ giúp tổ chức
công việc tính giá thành được khoa học hợp lý, đảm bảo. Thông thường, đối với
những doanh nghiệp có chu kỳ sản xuất ngắn thì kỳ tính giá thành là hàng tháng,
còn đối với những doanh nghiệp mà có sản phẩm là vật kiến trúc thì kỳ tính giá
thành là thời gian mà sản phẩm xây lắp được gọi là hoàn thành và nghiệm thu, bàn

giao thanh toán cho bên A.
4.3. Phương pháp tính giá thành sản phẩm xây lắp
Phương pháp tính giá thành là phương pháp sử dụng số liệu từ phần tập hợp
CPSX của kế toán để tính ra tổng giá thành và giá thành đơn vị sản phẩm hay lao vụ
đã hoàn thành theo các khoản mục giá thành đã quy định.


Dương Thị Ngọc Tú – Kế toán 39B
Hiện nay, Việt Nam có rất nhiều phương pháp tính giá thành. Tuy nhiên,
doanh nghiệp phải lựa chọn phương pháp tính giá thành cho sản phẩm của doanh
nghiệp phù hợp với đặc điểm sản xuất, quy trình công nghệ, tính chất sản phẩm theo
những cách sau:
- Phương pháp tính giá thành trực tiếp:
Hiện nay, phương pháp này được sử dụng phổ biến trong các đơn vị xây lắp
bởi tính chất đơn chiếc của sản phẩm xây lắp và bởi sự phù hợp giữa đối tượng tập
hợp CPSX và tính giá thành sản phẩm. Mặt khác, áp dụng phương pháp này sẽ cung
cấp kịp thời số liệu về giá thành sản phẩm xây lắp trong mỗi kỳ báo cáo với cách
tính đơn giản và dễ dàng thực hiện.
Z = Dđk + C - Dck
Trong đó: Z: Tổng giá thành sản phẩm
Dđk: Giá trị công trình dở dang đầu kỳ
C: Tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ
Dck: Giá trị công trình dở dang cuối kỳ
- Phương pháp tổng cộng chi phí: Phương pháp này thích hợp với việc xây
lắp các công trình lớn, phức tạp, quá trình sản xuất có thể được tiến hành thông qua
các đội sản xuất khác nhau mới hoàn thành được sản phẩm. Trong trường hợp này,
Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là các đội sản xuất, còn đối tượng tính giá thành
là sản phẩm hoàn thành cuối cùng.
Z = Dđk + C1 + C +............................+ C - Dck
Trong đó: C,C,...., C là chi phí sản xuất ở từng đội sản xuất hay từng HMCT

của một công trình.
- Phương pháp tính giá thành theo đơn đặt hàng:
Doanh nghiệp có thể ký với bên giao thầu hợp đồng nhận thầu thi công gồm
nhiều công việc khác nhau mà không cần hạch toán riêng từng công việc. Khi đó,
đối tượng tập hợp CPSX và đối tượng tính giá thành đều là đơn đặt hàng. Toàn bộ
chi phí thực tế tập hợp riêng cho từng đơn đặt hàng kể từ khi khởi công đến khi
hoàn thành toàn bộ chính là giá thành của đơn đặt hàng đó.
Do việc tính giá thành sản phẩm trong các đơn vị xây lắp chỉ tiến hành khi
đơn đặt hàng hoàn thành nên kỳ tính giá thành thường không thống nhất với kỳ báo
cáo. Đối với những đơn đặt hàng đến kỳ báo cáo chưa hoàn thành thì tổng CPSX đã
tập hợp được theo đơn đó chính là tổng giá thành sản phẩm xây lắp cần tính. Tuy
nhiên, trong một số trường hợp, theo yêu cầu của công tác quản lý cần xác định khối
lượng công việc hoàn thành trong kỳ thì đối với những đơn đặt hàng chỉ mới hoàn
thành một phần, việc xác định sản phẩm xây lắp dở dang của đơn đặt hàng đó có thể
dựa vào giá thành kế hoạch hoặc theo mức độ hoàn thành của đơn đặt hàng.
- Phương pháp tính giá thành theo định mức :
Giá thành định mức công trình xây lắp được xác định trên cơ sở các định
mức kinh tế - kỹ thuật hiện hành và dự toán CPSX được duyệt để ra giá thành định
mức cho sản phẩm. Tuỳ theo từng trường hợp cụ thể mà tính giá thành định mức,
bao gồm giá thành định mức của toàn bộ các chi tiết cấu thành nên công trình xây
lắp hoặc giá thành sản phẩm của từng giai đoạn công trình, HMCT hoặc có thể tính
luôn cho sản phẩm xây lắp.


×