Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Giải pháp thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công nghệ tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (746.79 KB, 77 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
VIỆN CHIẾN LƢỢC VÀ CHÍNH SÁCH
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

NGUYỄN QUỲNH NGA

GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN CÁC TỔ CHỨC
ĐỊNH GIÁ CÔNG NGHỆ TẠI VIỆT NAM

Ngành: Quản lý khoa học và công nghệ
Mã số: 834 04 12

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRỊNH MINH TÂM

HÀ NỘI, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài luận văn: “Giải pháp thúc đẩy phát triển các tổ
chức định giá công nghệ tại Việt Nam” này là công trình nghiên cứu thực sự của
cá nhân tôi cùng với sự hướng dẫn tận tình của giáo viên hướng dẫn khoa học
TS.Trịnh Minh Tâm. Các tư liệu sử dụng trong luận văn đều được trích dẫn nguồn
gốc rõ ràng, không sao chép của người khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình./.


Hà Nội, tháng 8 năm 2018
Học viên

Nguyễn Quỳnh Nga

i


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÁC TỔ CHỨC
ĐỊNH GIÁ CÔNG NGHỆ .................................................................................. 9
1.1. Cơ sở lý luận .................................................................................................. 9
1.2. Thực tiễn về các tổ chức định giá công nghệ tại một số nước trên thế giới 27
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ CÁC TỔ CHỨC ĐỊNH GIÁ CÔNG
NGHỆ TẠI VIỆT NAM.................................................................................... 38
2.1. Thực trạng hoạt động định giá công nghệ trong thị trường KH&CN Việt
Nam ..................................................................................................................... 38
2.2. Thực trạng về hoạt động của các tổ chức định giá công nghệ tại Việt Nam 46
CHƢƠNG 3: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN CÁC
TỔ CHỨC ĐỊNH GIÁ CÔNG NGHỆ TẠI VIỆT NAM .............................. 51
3.1. Phân tích những nét tương đồng và khác biệt trong chính sách của Việt
Nam và một số nước về phát triển các tổ chức định giá công nghệ ................... 51
3.2. Đề xuất giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công
nghệ tại Việt Nam ............................................................................................... 57
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................... 68
PHỤ LỤC ........................................................................................................... 72

ii



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Tên viết tắt

Tên tiếng Anh

Nghĩa tiếng Việt

Science and Technology

Khoa học và công nghệ

CGCN

Technology Transfer

Chuyển giao công nghệ

KT-XH

Socio- economic

KH&CN

Kinh tế - xã hội
Sở hữu trí tuệ

SHTT


Intellectual Property

ĐGCN

Technology Valuation

Định giá công nghệ

KQNC

Research Results

Kết quả nghiên cứu

TSTT

IP Asset

SXKD

Business and Production

Sản xuất kinh doanh

NSNN

State budget

Ngân sách Nhà nước


VBPL

Legal documents

R&D

Tài sản trí tuệ

Văn bản pháp lý

Research and development Nghiên cứu và phát triển

iii


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Những bất cập giữa năng lực của các viện nghiên cứu và triển khai
với cầu về công nghệ của các doanh nghiệp................................................... 42

DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 2.1: Tỷ lệ phần trăm về mức độ chia sẻ thông tin ................................. 47
Hình 2.2: Tỷ lệ phần trăm nhân lực trong các tổ chức trung gian ................. 48

iv


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với vai trò là thước đo sức cạnh tranh và khả năng phát triển của nền
kinh tế nói chung, doanh nghiệp nói riêng trong tương lai, công nghệ trở

thành một trong những dòng tài sản vô hình được trao đổi, thương mại hóa
trên thị trường công nghệ. Yếu tố đầu vào cơ bản cho việc trao đổi, thương
mại hóa này chính là việc biết được giá trị của công nghệ - kết quả của quá
trình định giá công nghệ.
Luật sở hữu trí tuệ và Luật chuyển giao công nghệ đã được ban hành,
trong đó có một vấn đề đang nổi cộm là trong quá trình chuyển giao công
nghệ hoặc cổ phần hóa, liên doanh, … đối với các doanh nghiệp thì tài sản
công nghệ sẽ được định giá như thế nào? Những gì thị trường cần là giá trị
của công nghệ như là một sản phẩm được giao dịch trên thị trường, và điều
này đòi hỏi một giá trị công bằng và khách quan mà không chịu ảnh hưởng
bởi các công ty cụ thể sở hữu nó. Bởi vậy, sự xuất hiện của các tổ chức định
giá công nghệ là một xu thế tất yếu trong điều kiện nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Tại Việt Nam, công tác định giá công nghệ đã được Bộ Khoa học và
Công nghệ quan tâm và chỉ đạo nhiều năm nay. Tuy nhiên, hiện nay hoạt
động định giá công nghệ còn sơ khai, đơn lẻ và chưa hình thành được mạng
lưới cho hoạt động này, các doanh nghiệp Việt Nam chưa có thói quen thuê tư
vấn định giá công nghệ trong các khâu của quy trình chuyển giao công nghệ,
đa phần chỉ là mua máy móc thiết bị, đội ngũ thực hiện hoạt động định giá
công nghệ chưa được đào tạo một cách chuyên nghiệp,…
Chính vì vậy, việc xem xét một cách bài bản về các tổ chức định giá
công nghệ sẽ mang lại lợi ích lớn cho việc ban hành các chính sách nhằm
quản lý, hỗ trợ việc hình thành, hoạt động cũng như thúc đẩy sự phát triển của

1


các tổ chức này. Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp, giúp cho các doanh
nghiệp có điều kiện thuận lợi trong quá trình đổi mới công nghệ, phát triển thị
trường công nghệ và tạo điều kiện thuận lợi góp phần đẩy nhanh quá trình cổ

phần hóa doanh nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1.

Nƣớc ngoài
Thị trường KH&CN cũng chứa đựng các thành tố cơ bản như các loại

thị trường khác, bao gồm: sản phẩm và dịch vụ KH&CN; chủ thể tham gia thị
trường như người cung (người bán), người cầu (người mua) sản phẩm và dịch
vụ KH&CN và đặc biệt cũng có các tổ chức trung gian tư vấn, cung cấp các
dịch vụ (bao gồm định giá công nghệ).
Tại Hàn Quốc, hoạt động định giá công nghệ cũng đã trở nên mạnh
mẽ với sự ra đời của Luật Xúc tiến chuyển giao công nghệ vào năm 2000.
Đạo luật này đã khuyến khích các trường đại học và các viện nghiên cứu công
thành lập các Văn phòng cấp phép công nghệ (TLO) cùng với các tổ chức
tương ứng của họ, đồng thời tập trung vào việc xúc tiến chuyển giao và
thương mại hoá kết quả nghiên cứu. Bởi vậy, Hàn Quốc đã xuất hiện nhiều tổ
chức dịch vụ xúc tiến chuyển giao công nghệ như: Trung tâm đổi mới công
nghệ vùng, công viên công nghệ, các doanh nghiệp nhân rộng kết quả nghiên
cứu, các trung tâm chuyển giao công nghệ thuộc các trường đại học… Tiêu
biểu phải kể đến là Trung tâm chuyển giao công nghệ Hàn Quốc (Korea
Technology Transefer Center – KTTC) – một tổ chức xúc tiến chuyển giao
công nghệ hàng đầu tại Hàn Quốc. KTTC có nhiệm vụ kết nối thương mại và
công nghệ với việc thúc đẩy cạnh tranh trong các lĩnh vực chuyển giao công
nghệ, đánh giá, định giá và đầu tư. Các dịch vụ của KTTC bao gồm:
- Dịch vụ xúc tiến chuyển giao công nghệ: Để tìm kiếm đối tác, KTTC
xem xét các công nghệ sẽ bán, ước tính giá trị thương mại (định giá), khả
năng tồn tại của thị trường, các xu hướng công nghiệp và xác định tiềm năng,

2



đối tác chuyển giao quyền sử dụng. KTTC hỗ trợ việc chào bán công nghệ
thông qua việc tạo ra sự khác biệt với hệ thống đại diện pháp lý có chuyên
môn cao, giỏi trong đàm phán và thỏa thuận trên nhiều lĩnh vực công nghệ
khác nhau.
- Dịch vụ đánh giá công nghệ: KTTC nghiên cứu tính khả thi của công
nghệ trong giai đoạn đầu thông qua phân tích về kinh tế, kỹ thuật, tiếp thị,
thực hiện kinh doanh và đánh giá công nghệ.
- Dịch vụ hợp nhất và mua lại: KTTC thúc đẩy việc hợp nhất và mua lại
công nghệ có sức hấp dẫn của công ty, phòng thí nghiệm, các kết quả nghiên
cứu được đầu tư mạo hiểm… để tìm đối tác tốt nhất cho việc ký kết hợp đồng.
Cung cấp các chiến lược cơ cấu lại doanh nghiệp (bao gồm việc mua, bán,
tách và sát nhập doanh nghiệp); cung cấp thông tin liên quan đến chuyển dịch
cơ cấu sở hữu; các dịch vụ pháp lý, thuế, kế toán hoặc các dịch vụ trọn gói.
Tại Trung Quốc, Luật thúc đẩy chuyển hoá thành tựu KH&CN của
Trung Quốc được ban hành năm 1996. Luật này quy định chi tiết quyền và
nghĩa vụ của Chính phủ, chủ sở hữu kết quả KH&CN, doanh nghiệp, các tổ
chức trung gian tham gia kinh doanh, môi giới và các tổ chức đầu tư tài chính
trong kết nối với việc thương mại hoá công nghệ. Điều 18 Luật này quy định:
“Cơ quan môi giới làm dịch vụ đại lý hoặc trung gian cho hai bên trong giao
dịch công nghệ phải xin phép kinh doanh theo quy định liên quan của Nhà
nước; cán bộ quản lý nghiệp vụ trong cơ quan này phải xin giấy chứng nhận
tư cách hành nghề theo quy định liên quan của Nhà nước”. Điều 11 của Điều
lệ Quản lý thị trường công nghệ Bắc Kinh quy định: “Cơ quan trung gian
công nghệ và người kinh doanh công nghệ dùng thông tin công nghệ để phục
vụ theo yêu cầu của hai bên đương sự phải đề nghị Văn phòng Quản lý thị
trường công nghệ thành phố Bắc Kinh thẩm định tư cách nghề nghiệp; Văn
phòng này tiến hành thẩm định và cấp giấy chứng nhận tư cách, đồng thời đề
nghị Bộ, ngành quản lý hành chính công thương nghiệp cho đăng ký”. Có thể


3


nhận thấy một đặc điểm chung ở Trung Quốc là nhà nước quản lý hoạt động
tư vấn (định giá công nghệ) khá chặt chẽ. Các cá nhân, tổ chức hoạt động, tư
vấn chuyển giao công nghệ thường phải được cấp giấy phép. Và đồng thời,
Trung Quốc cũng có những chính sách khuyến khích phát triển hoạt động tư
vấn công nghệ (định giá công nghệ) như: Nghị quyết của Trung ương Đảng
cộng sản và Chính phủ Trung Quốc về tăng cường sáng tạo công nghệ, phát
triển KH&CN cao, thực thi ngành nghề hóa vào tháng 8/1999 khẳng định
“Đối với thu nhập từ tư vấn công nghệ, dịch vụ công nghệ trong chuyển giao
công nghệ, triển khai công nghệ được miễn thuế doanh nghiệp”.
2.2.

Trong nƣớc
Thị trường KH&CN là một bộ phận của nền kinh tế thị trường có vai

trò to lớn cho việc phát triển kinh tế xã hội đất nước. Do đó, phát triển thị
trường KH&CN là một trong những nội dung trọng tâm của chiến lược phát
triển KH&CN ở Việt Nam từ nay đến năm 2020.
Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 01/11/2012 của Ban chấp hành TW
Đảng khoá XI về phát triển KH&CN phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế. Một trong những nhiệm vụ và giải pháp Phát triển thị
trường KH&CN là “Phát triển mạng lưới các tổ chức dịch vụ kỹ thuật khoa
học và công nghệ, môi giới, chuyển giao, tư vấn, đánh giá và định giá công
nghệ. Đầu tư xây dựng các sàn giao dịch công nghệ quốc gia tại Hà Nội,
thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng liên thông với hệ thống các trung tâm ứng
dụng và chuyển giao công nghệ của các tỉnh, thành phố, kết nối với các sàn

giao dịch công nghệ khu vực và thế giới”.
Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11/4/2012 của Thủ tướng Chính
phủ: “Nhà nước đầu tư xây dựng một số trung tâm dịch vụ khoa học và công
nghệ, chuyển giao công nghệ làm nòng cốt cho hệ thống tổ chức dịch vụ môi

4


giới, chuyển giao, tư vấn, đánh giá, định giá, thẩm định, giám định công
nghệ”.
Cũng giống như các loại thị trường khác, khi thị trường KH&CN mới
hình thành và còn ở mức sơ khai thì hoạt động mua bán, trao đổi sản phẩm
KH&CN thường trực tiếp diễn ra giữa cung (người bán) và cầu (người
mua). Lúc này vai trò của các tổ chức trung gian như các tổ chức định giá
sản phẩm công nghệ còn rất mờ nhạt. Tuy nhiên, khi nền kinh tế ngày càng
phát triển, thị trường ngày càng mở rộng thì mối quan hệ giữa các chủ thể
tham gia thị trường sẽ ngày càng phức tạp hơn. Người cung sản phẩm
KHCN cần có một cách nhanh nhất các thông tin cần thiết về nhu cầu thị
trường, bảo đảm giao dịch mua – bán phù hợp với luật lệ và khi cần có thể
giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ đối với sản phẩm KH&CN. Ngược
lại, người có nhu cầu đối với sản phẩm KHCN không thể biết hết được
thông tin về các loại hình sản phẩm KHCN hết sức phong phú đang có mặt
trên thị trường nên cần sự giúp đỡ chọn lựa để mua sản phẩm KHCN phù
hợp với giá rẻ nhất. Tới lúc này, các tổ chức trung gian như các tổ chức
định giá sản phẩm công nghệ mới thực sự phát triển nhanh chóng. Nói cách
khác, thị trường nói chung và thị trường KHCN nói riêng càng phát triển
thì càng cần đến hoạt động tư vấn và dịch vụ KHCN.
Về chính sách quản lý và phát triển hoạt động định giá trong thời gian
qua, hiện có ít các quy định riêng cho các hoạt động này. Chủ yếu vẫn là các
quy định chung điều chỉnh những hoạt động mà định giá công nghệ là một

loại hình trong đó. Trong Luật chuyển giao công nghệ số 07/2017/QH14 được
ban hành ngày 19/6/2017, tại Chương IV, mục 3, Điều 45 có quy định chi tiết
về các loại hình dịch vụ chuyển giao công nghệ (bao gồm môi giới, tư vấn
chuyển giao công nghệ; đánh giá, thẩm định giá, giám định công nghệ; xúc
tiến chuyển giao công nghệ) và hướng dẫn thi hành các quy định chung về
dịch vụ chuyển giao công nghệ. Trong Bộ luật dân sự, quy định tại Mục 7 là

5


về hoạt động dịch vụ nói chung. Trong Thông tư 06/2014/TT-BTC của Bộ tài
chính ban hành ngày 07/01/2014 quy định rõ về tiêu chuẩn thẩm định giá số
13. Các quy định tại Nghị định số 87/2002/NĐ-CP về cung cấp các dịch vụ tư
vấn là chung cho nhiều hoạt động tư vấn – trừ tư vấn pháp luật. Các quy định
về tư vấn pháp luật chuyển giao công nghệ trong Luật Dân sự được quy định
chung cho các hoạt động hành nghề luật sư. Chính vì vậy, rất cần có những
quy định cụ thể hơn, trực tiếp hơn vào các đặc thù của loại hình hoạt động
này. Về hoạt động định giá công nghệ, Bộ KH&CN đã có Thông tư số
31/2011/TT-BKHCN ngày 15/11/2011 hướng dẫn nội dung và phương thức
hoạt động của các tổ chức định giá công nghệ. Thông tư đã quy định hành
lang pháp lý hướng dẫn cho hoạt động của các tổ chức định giá công nghệ.
Tuy nhiên, Thông tư chưa cụ thể hoá các điều kiện và tiêu chuẩn của tổ chức
định giá cũng như chuyên gia định giá công nghệ vì đây phải được coi là một
nghiệp vụ và hoạt động có điều kiện cần được quản lý và cấp phép hoạt động
theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới. Hơn nữa, so với kinh nghiệm
của nhiều nước, bên cạnh các quy định đã có, chúng ta còn thiếu vắng một số
chính sách quan trọng, đặc biệt là những biện pháp hỗ trợ của nhà nước nhằm
thúc đẩy hoạt động của tổ chức định giá công nghệ.
Về tình hình nghiên cứu phát triển mạng lưới hoạt động tư vấn: Ở Việt
Nam đã có một số công trình nghiên cứu và chính sách như:

- Đề tài cấp cơ sở: “Nghiên cứu một số loại hình tổ chức chuyển giao
công nghệ trong viện nghiên cứu và phát triển và trường đại học” - Viện
Chiến lược và Chính sách KH&CN - Bộ KH&CN (năm 2006), Chủ nhiệm đề
tài: Nguyễn Lan Anh.
- Đề án: “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động định giá
công nghệ, đề xuất nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động định giá
công nghệ tại Việt Nam” - Vụ Đánh giá Thẩm định và Giám định công nghệ Bộ KH&CN (năm 2010), Chủ nhiệm đề án: Ngô Thị Vân.

6


- Đề tài cấp Bộ: “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng cơ
chế chính sách về quản lý, hỗ trợ hình thành và hoạt động của các tổ chức
định giá, đánh giá công nghệ, môi giới chuyển giao công nghệ” – Viện Đánh
giá khoa học và Định giá công nghệ - Bộ KH&CN (năm 2014), Chủ nhiệm đề
tài: Trịnh Minh Tâm.
Tuy nhiên, các đề tài, đề án trên chỉ nghiên cứu ở một số khía cạnh nhất
định mà chưa nghiên cứu toàn diện và đề xuất được những giải pháp và khung
pháp lý nhằm hỗ trợ phát triển cho hệ thống các tổ chức này. Do vậy, cần có
những nghiên cứu xây dựng giải pháp thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá
công nghệ để từ đó rút ra kiến nghị về một số mô hình và giải pháp đối với việc
quản lý, hỗ trợ phát triển hoạt động của các tổ chức định giá công nghệ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Tìm hiểu hoạt động định giá công nghệ; đề xuất giải pháp về nội dung
quản lý của nhà nước, hỗ trợ hình thành và hoạt động của các tổ chức định giá
công nghệ nhằm thúc đẩy phát triển các tổ chức này tại Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng áp dụng: Các tổ chức định giá công nghệ. Các cơ quan quản
lý nhà nước, các doanh nghiệp, các nhà quản lý chính sách.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu, tìm hiểu việc định giá công nghệ của

một số nước và ở Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Sử dụng phương pháp kế thừa, phương pháp điều tra thu thập, phân tích
thông tin, dữ liệu, lấy ý kiến chuyên gia trong quá trình đề xuất việc xây dựng giải
pháp về quản lý, hỗ trợ phát triển các tổ chức định giá công nghệ ở Việt Nam.
- Tiếp cận các tài liệu, văn bản trong nước và quốc tế kết hợp với nghiên
cứu thực tế.

7


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Định giá công nghệ là lĩnh vực mới, do vậy cần tăng cường nghiên
cứu hoạt động định giá công nghệ; đề xuất giải pháp về nội dung quản lý nhà
nước, hỗ trợ hình thành và hoạt động của các tổ chức định giá công nghệ
nhằm thúc đẩy phát triển các tổ chức này tại Việt Nam. Chính vì vậy, luận
văn “Giải pháp thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công nghệ tại Việt
Nam” là vấn đề cấp thiết phục vụ cho công tác quản lý công nghệ của các cơ
quan Nhà nước và kết quả của luận văn có thể là tài liệu tham khảo đối với
các ngành quan tâm đến vấn đề này. Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp,
giúp cho các doanh nghiệp có điều kiện thuận lợi trong quá trình đổi mới
công nghệ, phát triển thị trường công nghệ và tạo điều kiện thuận lợi góp
phần đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận
văn có kết cấu gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về các tổ chức định giá công nghệ.
Chƣơng 2: Thực trạng về các tổ chức định giá công nghệ tại Việt Nam.
Chƣơng 3: Đề xuất giải pháp thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công
nghệ tại Việt Nam.


8


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
CÁC TỔ CHỨC ĐỊNH GIÁ CÔNG NGHỆ
1.1.

Cơ sở lý luận

1.1.1. Cơ sở lý luận về chuyển giao công nghệ
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia 28, công nghệ là sự tạo ra,
sự biến đổi, việc sử dụng kiến thức về các công cụ, máy móc, kỹ thuật, kỹ
năng nghề nghiệp, hệ thống, phương pháp tổ chức, nhằm giải quyết một vấn
đề, cải tiến một giải pháp đã tồn tại, đạt một mục đích, hay thực hiện một
chức năng cụ thể. Công nghệ cũng có thể chỉ là một tập hợp những công cụ,
gồm máy móc, những sự sắp xếp hay những quy trình. Công nghệ có ảnh
hưởng đáng kể lên khả năng kiểm soát và thích nghi của con người vào môi
trường tự nhiên của mình. Thuật ngữ công nghệ có thể được dùng theo nghĩa
chung hay cho những lĩnh vực cụ thể. Như vậy, công nghệ ở đây có phạm vi
rộng nên chưa thực sự làm rõ được bản chất của khái niệm công nghệ.
Để nhấn mạnh tri thức, kiến thức là một trong các hình thức biểu hiện
của công nghệ, Trần Ngọc Ca (1998) đã nghiên cứu và tập hợp các quan niệm
về công nghệ của một số học giả trên thế giới, cụ thể:
- Công nghệ là dạng kiến thức có thể áp dụng được vào việc sản xuất
ra các sản phẩm và sáng tạo ra các sản phẩm mới.
- Công nghệ là cách thức mà qua đó các nguồn lực được chuyển thành
hàng hóa.
- Công nghệ là tập hợp các kiến thức về một quy trình và/hoặc các kỹ

thuật chế biến cần thiết để sản xuất ra vật liệu, cấu kiện và sản phẩm công
nghiệp hoàn chỉnh.

9


- Công nghệ là nguồn lực bao gồm kiến thức được áp dụng để nâng
cao hiệu quả sản xuất và tiếp thị cho những sản phẩm và dịch vụ đang có và
tạo ra những sản phẩm và dịch vụ mới.
- Công nghệ là kiến thức không sờ mó được và không phân chia được
và có lợi về mặt kinh tế khi sử dụng để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ.
- Công nghệ là sự áp dụng khoa học vào công nghiệp bằng cách sử
dụng những nghiên cứu và cách xử lý một cách có hệ thống và có phương
pháp.
Để nhấn mạnh công nghệ như một hệ thống và có ứng dụng rộng rãi
trong đời sống xã hội, Đặng Nguyên và Thu Hà (2002) đã tập hợp các khái
niệm về công nghệ và đưa ra 8P công nghệ:
- Công nghệ là một hệ thống mà xã hội phải hy sinh những nhu cầu và
mong muốn của mình.
- Công nghệ bao gồm một phạm vi rộng lớn các hoạt động và các
chức năng trong doanh nghiệp được ủy thác sản xuất các sản phẩm mới và
hoàn thiện cùng những quá trình, vật liệu và các bí quyết đối với công ty.
- Công nghệ dựa trên những kiến thức lý thuyết, thực tế và kỹ năng để
tạo ra các sản phẩm và các dịch vụ cũng như những hệ thống phân phối và sản
xuất.
- Công nghệ là một hệ thống chuyển đổi các bí quyết độc quyền thành
sự thương mại hóa sản phẩm. Điều này bao gồm cả những hoạt động sản xuất,
chất lượng được đảm bảo, con người, quá trình thông tin, hợp thành một thể
thống nhất dưới dạng những dự án.
- 8P công nghệ bao gồm: Công nghệ là các sản phẩm (P1- Product);

Công nghệ là quá trình (P2- Process); Công nghệ là sự sở hữu các bí quyết
(P3- Proprietary); Công nghệ là sự triển khai (P4- Processing); Công nghệ là
sự đảm bảo (P5- Promise); Công nghệ là con người (P6- People); Công nghệ
là một dự án (P7- Project); Công nghệ mở đường cho lợi nhuận (P8- Profit).

10


Cùng với sự phát triển của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo,
quan niệm về công nghệ cũng được đưa ra bởi các tổ chức quốc tế có uy tín.
Mỗi một tổ chức lại có cách tiếp cận khác nhau, dựa trên mục tiêu sử dụng
khác nhau.
- Theo Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hợp Quốc (UNIDO),
công nghệ là việc áp dụng khoa học vào công nghiệp bằng cách sử dụng các
kết quả nghiên cứu và xử lý nó một cách có hệ thống và có phương pháp.
- Theo Ủy ban Kinh tế và Xã hội châu Á - Thái Bình Dương (ESCAP,
1989), công nghệ là kiến thức có hệ thống về quy trình kỹ thuật để chế biến
vật liệu và thông tin; công nghệ bao gồm kỹ năng, kiến thức, thiết bị, phương
pháp và các hệ thống dùng trong việc tạo ra hàng hóa và cung cấp dịch vụ.
- Theo Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát triển
(UNCTAD, 1972), công nghệ là đầu vào cần thiết cho sản xuất và như vậy
nó được mua và bán trên thị trường như một hàng hóa được thể hiện ở một
trong các dạng sau: tư liệu sản xuất và đôi khi là các sản phẩm trung gian,
được mua và bán trên thị trường, đặc biệt là gắn với các quyết định định đầu
tư; nhân lực và thông thường là nhân lực có trình độ và đôi khi là nhân lực có
trình độ cao và chuyên sâu, với khả năng sử dụng đúng thiết bị và kỹ thuật và
làm chủ được bộ máy giải quyết vấn đề và sản xuất thông tin; thông tin, dù đó
là thông tin kỹ thuật hay thông tin thương mại, được đưa ra trên thị trường
hay được giữ bí mật như một phần của hoạt động độc quyền.
- Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD, 1996), công

nghệ được hiểu là một tập hợp các kỹ thuật, mà bản thân chúng được định
nghĩa là một tập hợp các hành động và quy tắc lựa chọn chỉ dẫn việc ứng
dụng có trình tự các kỹ thuật đó mà theo hiểu biết của con người thì sẽ đạt
một kết quả định trước trong một hoàn cảnh nhất định.
- Theo Ngân hàng Thế giới (WB, 1985), công nghệ là phương pháp
chuyển hóa các nguồn lực thành sản phẩm, gồm ba yếu tố: thông tin và

11


phương pháp; phương tiện, công cụ sử dụng phương pháp để thực hiện việc
chuyển hóa; sự hiểu biết phương pháp hoạt động như thế nào và tại sao.
- Theo cách tiếp cận của một số nhà quản lý công nghiệp Nhật Bản,
công nghệ bao gồm năm yếu tố, đó là quản lý, tiền vốn, thị trường, máy móc,
nguyên vật liệu.
Tại Việt Nam, một số tài liệu được sử dụng trong nghiên cứu và giảng
dạy thời gian qua, quan niệm về công nghệ thường đề cập tới các yếu tố cấu
thành công nghệ, dựa trên quan điểm của Sharif (1986) và Ramanathan
(1995). Theo đó một công nghệ gồm 4 thành phần: (i) Phần kỹ thuật: công
nghệ hàm chứa trong các dạng vật thể như máy móc, thiết bị, phương tiện và
cấu trúc hạ tầng; (ii) Phần con người: công nghệ hàm chứa trong các kỹ năng
công nghệ của con người, nó bao gồm kiến thức, kinh nghiệm do học hỏi và
tích lũy được trong quá trình sử dụng công nghệ; (iii) Phần thông tin: công
nghệ hàm chứa trong các dạng dữ liệu đã được tư liệu hóa để sử dụng trong
các hoạt động của công nghệ; (iv) Phần tổ chức: công nghệ hàm chứa trong
khung thể chế để xây dựng lên cấu trúc tổ chức như quy định về quyền hạn,
trách nhiệm, sự phối hợp của các cá nhân trong hoạt động công nghệ.
Dựa trên các quan điểm về công nghệ ở trên, có bốn khía cạnh cần
được bao quát trong định nghĩa về công nghệ (Trường Đại học Kinh tế Quốc
dân, 2010):

- Công nghệ là “máy biến đổi”, đề cập tới khả năng làm ra sản phẩm,
dịch vụ đáp ứng và thỏa mãn được yêu cầu kinh tế, xã hội, đây là khác biệt
giữa khoa học và công nghệ; công nghệ không tồn tại mãi mãi vì một công
nghệ muốn xuất hiện thì phải hiệu quả hơn công nghệ cũ, còn khoa học là
những phát minh, khám phá mang tính bền vững, khía cạnh này đã nhấn
mạnh không chỉ tầm quan trọng của công nghệ trong việc giải quyết các vấn
đề thực tế, mà còn nhấn mạnh sự phù hợp của mục đích kinh tế trong việc áp
dụng công nghệ;

12


- Công nghệ là “công cụ”, đề cập tới công nghệ là sản phẩm của con
người, cho nên con người có thể làm chủ được nó;
- Công nghệ là “kiến thức”, đề cập tới công nghệ không nhất thiết phải
nhìn thấy được và nhấn mạnh rằng các công nghệ giống nhau thì chưa chắc đã
cho kết quả như nhau, vì thế muốn sử dụng công nghệ có hiệu quả thì nhất
thiết con người phải được đào tạo về kỹ năng, kiến thức và được cập nhật
thông tin;
- Công nghệ là “hàm chứa trong các dạng hiện thân của nó”, đề cập tới
công nghệ dù là kiến thức những vẫn được mua, bán, trao đổi trên thị trường
và tuân theo quy luật thị trường.
Việc thống nhất khái niệm về công nghệ là cần thiết, bởi vì không thể
thực hiện được các hoạt động liên quan tới công nghệ nếu chưa hiểu được
chúng là gì. Luật Khoa học và công nghệ (2000, sửa đổi 2013) và Luật
Chuyển giao công nghệ (2017) của Việt Nam có giải thích “Công nghệ là giải
pháp, quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm theo hoặc không kèm theo công cụ,
phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm”. Đây là hành lang
pháp lý quan trọng cho các hoạt động về công nghệ ở Việt Nam. Ngoài ra,
một số thuật ngữ gắn với công nghệ cũng được Luật Chuyển giao công nghệ

giải thích: “Công nghệ cao là công nghệ có hàm lượng cao về nghiên cứu
khoa học và phát triển công nghệ; tạo ra các sản phẩm, dịch vụ có chất lượng
và giá trị gia tăng cao; có khả năng hình thành các ngành sản xuất, dịch vụ
mới hoặc hiện đại hoá ngành sản xuất, dịch vụ hiện có. Công nghệ mới là
công nghệ lần đầu tiên được tạo ra tại Việt Nam. Công nghệ tiên tiến là công
nghệ hàng đầu, có trình độ công nghệ cao hơn trình độ công nghệ cùng loại
hiện có”.
Việc phân loại công nghệ mang tính tương đối do tính đa dạng của
công nghệ, tùy theo mục đích sử dụng công nghệ có thể được phân loại như
sau:

13


Thứ nhất, theo trình độ công nghệ sản xuất:
Trình độ công nghệ sản xuất là mức đạt được của công nghệ sản xuất
và được đánh giá theo bốn mức 16: tiên tiến, trung bình tiên tiến, trung bình
và lạc hậu. Trình độ công nghệ tiên tiến: có hệ số đóng góp công nghệ từ 0,65
trở lên và tổng số điểm các thành phần công nghệ bằng hoặc trên 75 điểm.
Trình độ công nghệ trung bình tiên tiến: có hệ số đóng góp công nghệ từ 0,5
trở lên và tổng số điểm các thành phần công nghệ từ 60 điểm đến dưới 75
điểm. Trình độ công nghệ trung bình: có hệ số đóng góp công nghệ từ 0,3 trở
lên và tổng số điểm các thành phần công nghệ từ 35 điểm đến dưới 60 điểm.
Trình độ công nghệ lạc hậu: có hệ số đóng góp công nghệ nhỏ hơn 0,3 hoặc
tổng số điểm các thành phần công nghệ nhỏ hơn 35 điểm.
Về nguyên tắc đánh giá, công nghệ sản xuất được chia thành bốn
nhóm cơ bản: nhóm thiết bị công nghệ thể hiện trong máy móc, công cụ,
phương tiện viết tắt là T (Technoware); nhóm nhân lực thể hiện trong năng
lực tiếp thu kỹ thuật công nghệ phục vụ sản xuất viết tắt là H (Humanware);
nhóm thông tin thể hiện trong các tài liệu, dữ liệu thông tin viết tắt là I

(Infoware); nhóm tổ chức, quản lý thể hiện trong công tác tổ chức, quản lý
viết tắt là O (Orgaware). Sử dụng thang điểm chung (100 điểm) để đưa về
cùng một mặt bằng đánh giá, sau đó căn cứ vào tổng số điểm đạt được của các
tiêu chí để phân loại trình độ công nghệ.
Thứ hai, theo hệ thống ngành kinh tế:
Hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam gồm 5 cấp 9: Ngành cấp 1
gồm 21 ngành được mã hóa theo bảng chữ cái lần lượt từ A đến U; ngành cấp
2 gồm 88 ngành, mỗi ngành được mã hóa bằng hai số theo từng ngành cấp 1
tương ứng; ngành cấp 3 gồm 242 ngành, mỗi ngành được mã hóa bằng ba số
theo từng ngành cấp 2 tương ứng; ngành cấp 4 gồm 437 ngành, mỗi ngành
được mã hóa bằng bốn số theo từng ngành cấp 3 tương ứng; ngành cấp 5 gồm

14


642 ngành, mỗi ngành được mã hóa bằng năm số theo từng ngành cấp 4
tương ứng.
Tùy theo ngành kinh tế ta lại có các loại công nghệ tương ứng. Ví dụ
theo nhóm ngành kinh tế cấp 1 thì có công nghệ nông nghiệp, lâm nghiệp,
thủy sản, khai khoáng, công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghệ sản xuất và
phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước, điều hòa không khí,...
Thứ ba, theo sản phẩm tạo ra: mỗi một loại sản phẩm tạo ra lại tương
ứng với một loại công nghệ. Ví dụ: công nghệ xi măng, công nghệ thông tin,
công nghệ ô tô, công nghệ bán dẫn.
Thứ tư, theo quan điểm môi trường: có các loại công nghệ như công
nghệ ô nhiễm, công nghệ xanh, công nghệ thân thiện với môi trường, công
nghệ không chất thải, công nghệ sạch và công nghệ sạch hơn,...
Thứ năm, theo đặc thù công nghệ: có công nghệ phần cứng và công
nghệ phần mềm.
Thứ sáu, theo đầu ra công nghệ: có công nghệ sản phẩm và công nghệ

quá trình.
Ngoài ra, có thể phân chia công nghệ thành: công nghệ khuyến khích
chuyển giao, công nghệ hạn chế chuyển giao và công nghệ cấm chuyển giao.
Theo UNIDO (Tổ chức phát triển công nghiệp Liên Hợp Quốc) thì
chuyển giao công nghệ được hiểu là quá trình truyền bá công nghệ từ nước
này qua nước khác ngoài nước sản sinh ra nó hay nói cách khác đó là quá
trình chuyển và nhận công nghệ qua biên giới. Quá trình này bao gồm những
công việc sau đây:
- Chuyển giao những phương pháp nguyên tắc, nguyên lý của công
nghệ đó.
- Chuyển giao những bí quyết và thông tin có liên quan.
- Chuyển giao máy móc trang thiết bị.

15


- Chuyển giao những hiểu biết thông qua đào tạo đội ngũ công nhân
lành nghề nắm vững về công nghệ được chuyển giao.
- Truyền bá về thị trường nhất là thị trường xuất khẩu.
Còn việc chuyển và nhận công nghệ giữa các đơn vị các khu vực kinh
tế và địa lý trong một quốc gia thì được gọi là hỗ trợ công nghệ, giúp đỡ công
nghệ hay phát triển công nghệ sở tại.
Chuyển giao công nghệ (CGCN) là chuyển giao quyền sở hữu hoặc
quyền sử dụng một phần hoặc toàn bộ công nghệ từ bên có quyền CGCN
sang bên nhận công nghệ. Còn hoạt động CGCN bao gồm CGCN và dịch vụ
CGCN.
Dịch vụ CGCN bao gồm:
- Môi giới chuyển giao công nghệ: là hoạt động hỗ trợ bên có công
nghệ, bên cần công nghệ trong việc tìm kiếm đối tác ký kết hợp đồng CGCN.
- Tư vấn chuyển giao công nghệ: là hoạt động hỗ trợ các bên trong

việc lựa chọn công nghệ, đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng CGCN.
- Đánh giá công nghệ: là hoạt động xác định trình độ, giá trị, hiệu quả
kinh tế và tác động kinh tế - xã hội, môi trường của công nghệ.
- Định giá công nghệ: là hoạt động xác định giá công nghệ.
- Giám định công nghệ: là hoạt động kiểm tra, xác định các chỉ tiêu
của công nghệ đã được chuyển giao so với các chỉ tiêu của công nghệ được
quy định trong hợp đồng CGCN.
- Xúc tiến CGCN: là hoạt động thúc đẩy, tạo và tìm kiếm cơ hội
chuyển giao công nghệ, cung ứng dịch vụ quảng cáo, trưng bày, giới thiệu
công nghệ, tổ chức chợ, hội chợ, triển lãm công nghệ, trung tâm giao dịch
công nghệ.
Nhu cầu trao đổi, mua bán công nghệ đã hình thành nên thị trường
công nghệ rất sôi động kéo theo đó là sự xuất hiện của các tổ chức hoạt động
chuyển giao công nghệ với những dịch vụ CGCN góp phần đưa công nghệ từ

16


bên bán và bên mua được thuận lợi và dễ dàng hơn. Những tổ chức này được
gọi chung là tổ chức môi giới công nghệ hay tổ chức trung gian CGCN. Và
trên thế giới đã có rất nhiều tổ chức môi giới công nghệ phát triển và cũng
khẳng định được tên tuổi của mình, đồng thời góp phần làm đa dạng hóa thị
trường công nghệ thế giới.
Nội dung hoạt động của các tổ chức tư vấn chuyển giao công nghệ
gồm 17: (1) Tìm kiếm đối tác cung cấp công nghệ và xem xét, đánh giá khả
năng thương mại hoá công nghệ. (2) Xem xét năng lực tiếp nhận công nghệ
của tổ chức, cá nhân có nhu cầu tư vấn chuyển giao công nghệ. (3) Tìm kiếm,
xem xét và lựa chọn công nghệ được chuyển giao phù hợp với các quy định
của pháp luật và các cơ chế chính sách ưu tiên, thúc đẩy, khuyến khích hoạt
động chuyển giao công nghệ. (4) Xem xét tính phù hợp của sản phẩm do công

nghệ tạo ra trên cơ sở: Đánh giá các khả năng, yếu tố về thị trường; Các tiêu
chuẩn, chất lượng của sản phẩm; Hiệu quả kinh tế - xã hội và phát triển bền
vững. (5) Hỗ trợ việc lập, soạn thảo dự án đầu tư công nghệ và thiết bị, phân
tích, tính toán quy mô sản xuất, giá thành công nghệ, cung cấp, lắp đặt thiết
bị, nhà xưởng, nguyên vật liệu và các chi phí liên quan. (6) Thay mặt các bên
chuyển giao công nghệ chuẩn bị hồ sơ và đăng ký Hợp đồng chuyển giao
công nghệ. (7) Giám sát, đánh giá quá trình đàm phán, soạn thảo, phương
thức, ký kết và hỗ trợ thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ. (8) Các nội
dung tư vấn khác về hoạt động chuyển giao công nghệ.
1.1.2. Cơ sở lý luận về định giá công nghệ và tổ chức định giá công nghệ
1.1.2.1. Khái niệm về định giá công nghệ
Khi nghiên cứu về định giá công nghệ trên thế giới, các học giả đã đưa
ra nhiều khái niệm khác nhau về định giá công nghệ. Theo O. Spasic (2013),
chuyên gia của WIPO: “Định giá công nghệ là quá trình xác định và đo lường
lợi nhuận tài chính và những rủi ro của công nghệ trong một hoàn cảnh cụ
thể” 3. Theo quan điểm này, rủi ro là một trong những yếu tố quan trọng cần
17


xem xét trong định giá, đặc biệt trong giai đoạn hình thành công nghệ nhân tố
thời gian và kinh phí đầu tư là nhân tố quyết định, cụ thể: Về thời gian, cần
bao nhiêu thời gian để đưa công nghệ ra thị trường (thương mại hóa)? Đôi khi
công nghệ đột phá lại là “quá sớm” đối với thị trường. Về kinh phí, chúng ta
cần đầu tư thêm bao nhiêu nữa?. Như vậy, nếu một công nghệ càng cần nhiều
thời gian và tiền bạc để đưa ra thị trường (thương mại hóa) thì càng ít giá trị.
Theo một nghiên cứu của Yiche Grace Chen, Đại học Yuan –Ze y, Đài
Loan – Trung Quốc thì: “Định giá công nghệ là việc định giá đặc tính kỹ
thuật được đánh giá bởi những người mua hoặc những người bán hàng cho
giá trị đích thực của nó.” 8 Nhiệm vụ của định giá công nghệ là xác định lợi
ích kinh tế tối đa của công nghệ qua việc sử dụng các thông tin hiệu quả cũng

như sử dụng các phương pháp định giá phù hợp.
Tóm lại, có thể hiểu định giá công nghệ là hoạt động xác định giá của
công nghệ.
Về vị trí, vai trò của Tổ chức định giá công nghệ: Tổ chức định giá
công nghệ là tổ chức dịch vụ chuyển giao công nghệ có thực hiện hoạt động
dịch vụ định giá công nghệ. Như vậy, có thể thấy được vai trò rất quan trọng
của Tổ chức định giá công nghệ, với vai trò như một tổ chức trung gian trong
thị trường khoa học và công nghệ. Các tổ chức này góp phần thúc đẩy và đưa
công nghệ từ bên bán đến bên mua được thuận lợi hơn.
1.1.2.2. Nội dung và phương pháp định giá công nghệ của các tổ chức định
giá công nghệ
Nội dung hoạt động của các tổ chức định giá gồm 18: Khi định giá
công nghệ, cần xem xét công nghệ theo các nội dung cơ bản sau: (1) Đặc tính
cơ bản của công nghệ. (2) Tính ưu việt của công nghệ khi sử dụng. (3) Những
vấn đề liên quan khác khi sử dụng công nghệ: Phạm vi chuyển giao công
nghệ, tính hợp lý khi sử dụng nguyên vật liệu có sẵn trong nước, tại địa
phương khi áp dụng công nghệ. (4) Khi định giá các công nghệ trong từng
18


ngành hoặc nhóm ngành cụ thể có thể xem xét thêm các nội dung khác phù
hợp với đặc thù của ngành hoặc nhóm ngành đó.
Về phương pháp định giá công nghệ, việc định giá công nghệ dựa trên
03 cách tiếp cận chủ yếu được áp dụng là: tiếp cận chi phí; tiếp cận thị trường
và tiếp cận thu nhập.
Phương pháp thị trường:
Kỹ thuật định giá công nghệ theo phương pháp thị trường như sau:
- Xác định mức giá giao dịch, giá niêm yết hoặc giá chào bán của ít nhất
03 công nghệ so sánh đã được giao dịch thành công hoặc đang được mua, bán
trên thị trường vào thời điểm định giá trên cơ sở các thông tin, dữ liệu trong

hồ sơ định giá.
- Lựa chọn đơn vị so sánh chuẩn và xây dựng bảng phân tích, so sánh đối
với mỗi đơn vị so sánh chuẩn.
- Phân tích, xác định các yếu tố khác biệt giữa công nghệ so sánh và
công nghệ cần định giá bằng kỹ thuật phân tích định lượng (xác định mức
điều chỉnh là giá trị tuyệt đối hoặc tỷ lệ phần trăm) hoặc kỹ thuật phân tích
định tính (xác định kết quả điều chỉnh là dãy số lớn hơn – có dấu điều chỉnh
là âm hoặc nhỏ hơn – có dấu điều chỉnh là dương).
- Điều chỉnh mức giá của các công nghệ so sánh căn cứ vào mức độ
chênh lệch của các yếu tố so sánh định lượng hoặc các yếu tố so sánh định
tính bằng kỹ thuật lập bảng. (Việc điều chỉnh mức giá của các công nghệ so
sánh căn cứ vào mức độ chênh lệch của các yếu tố so sánh định tính được
thực hiện theo nguyên tắc sau: những yếu tố thuộc công nghệ so sánh kém
hơn với công nghệ cần định giá thì điều chỉnh tăng mức giá tính theo đơn vị
chuẩn của công nghệ so sánh (cộng); những yếu tố thuộc công nghệ so sánh
vượt trội hơn so với công nghệ cần định giá thì điều chỉnh giảm mức giá tính
theo đơn vị chuẩn của công nghệ so sánh (trừ); những yếu tố thuộc công nghệ
so sánh giống với công nghệ cần định giá thì giữ nguyên mức giá của công

19


nghệ so sánh (không điều chỉnh) và theo phương thức sau: Điều chỉnh theo số
tuyệt đối đối với chênh lệch các yếu tố so sánh định lượng: những yếu tố nào
liên quan đến giao dịch có quan hệ nguyên nhân – kết quả thì nhân với nhau;
những yếu tố nào cùng ảnh hưởng đến giá trị công nghệ thì cộng với nhau,
hoặc điều chỉnh theo tỷ lệ phần trăm đối với chênh lệch các yếu tố so sánh
định tính: những yếu tố nào liên quan đến giao dịch có quan hệ nguyên nhân –
kết quả thì nhân với nhau; những yếu tố liên quan đến công nghệ có quan hệ
tương tác thì cộng với nhau).

- Xác định giá trị thị trường của công nghệ trên cơ sở các mức giá chỉ
dẫn: Giá trị thị trường của công nghệ được xác định bằng bình quân các mức
giá điều chỉnh của các công nghệ so sánh.
Phương pháp chi phí
Kỹ thuật định giá công nghệ theo phương pháp chi phí như sau:
Xác định chi phí tái tạo (CRN) hoặc chi phí thay thế (COR):
Chi phí tái tạo được xác định bằng tổng chi phí trực tiếp, chi phí gián
tiếp và các chi phí khác. Các thông tin, dữ liệu đầu vào phục vụ việc xác định
các chi phí nói trên gồm có:
- Các khoản chi phí trực tiếp:
+) Chi phí cho đơn đăng ký công nghệ như chi phí nộp đơn, thẩm định,
cấp bằng độc quyền, kể cả chi phí dịch thuật tài liệu, chi phí thuê luật sư, đại
diện;
+) Chi phí duy trì hiệu lực bằng độc quyền công nghệ;
+) Chi phí bảo vệ quyền đối với công nghệ;
+) Các chi phí trực tiếp khác liên quan đến công nghệ.
- Các khoản chi phí gián tiếp:
+) Chi phí nghiên cứu và triển khai, kể cả chi phí cho nhân lực, nguyên
vật liệu đầu vào, thiết bị kiểm tra và thí nghiệm, quá trình thử nghiệm, thông
tin, dữ liệu, năng lượng;

20


×