Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

SKKN ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học dự án phần động cơ đốt trong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.43 MB, 92 trang )

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng thẩm định sáng kiến Sở Giáo Dục và Đào tạo Ninh Bình
I. Tác giả sáng kiến
- Họ tên: Phạm Thị Thu Hường
- Giáo viên môn Công nghệ (Kỹ thuật Cơng nghiệp)
- Trình độ đào tạo: Cử nhân sư phạm kỹ thuật
- Đơn vị công tác: Trường THPT Hoa Lư A
- Địa chỉ thường trú: Phố Hợp Thành, Thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình
- Email:
- Điện thoại: 0913.144.449
II. Tên sáng kiến
Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học dự án phần Động cơ đốt trong.
III. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
Sáng kiến được áp dụng trong lĩnh vực giảng dạy phần Động cơ đốt trong môn
Công nghệ lớp 11 THPT.
IV. Nội dung cơ bản của sáng kiến
1. Một số giải pháp cũ thường làm
Trong giáo dục, từ rất lâu chúng ta đã quen với các phương pháp dạy học
truyền thống(phương pháp dạy học cũ). PPDH truyền thống là những cách thức dạy
học quen thuộc được truyền từ lâu đời và được bảo tồn, duy trì qua nhiều thế hệ.
PPDH truyền thống là "Hệ thống ban phát kiến thức", là q trình chuyển tải thơng
tin từ đầu thầy sang đầu trò. Về cơ bản, phương pháp dạy học này lấy hoạt động của
người thầy là trung tâm. Thực hiện lối dạy này, giáo viên là chủ thể, là tâm điểm, là
người thuyết trình, diễn giảng, là "kho tri thức" sống, học sinh là khách thể, là quỹ
đạo, là người nghe, ghi chép và ghi nhớ. Giáo án dạy theo phương pháp này được
thiết kế kiểu đường thẳng theo hướng từ trên xuống. Do đặc điểm hàn lâm của kiến
thức nên nội dung bài dạy theo phương pháp truyền thống có tính hệ thống, tính logic
và tính chính xác cao. Xong do quá đề cao người dạy nên nhược điểm của PPDH
truyền thống là học sinh thụ động tiếp thu kiến thức, giờ dạy dễ đơn điệu, buồn tẻ,


kiến thức thiên về lý luận, ít chú ý đến kỹ năng thực hành của người học; do đó kỹ
năng hành dụng vào đời sống thực tế bị hạn chế như:
- Học sinh ít được thực hành, thí nghiệm trực quan nên xa rời kiến thức thực
tế, nhớ kiến thức một cách thụ động nên dễ bị lãng quên.
- Phương pháp dạy học truyền thống làm cho học sinh quen với việc để giáo
viên chủ động thông báo kiến thức, phân loại các dạng bài rồi từ đó theo mẫu để làm
vì vậy hạn chế tính sáng tạo và chủ động trong việc tiếp nhận kiến thức và sinh ra
tính “ngại” suy nghĩ, “ngại” tìm tịi phát hiện cái mới, trông chờ, ỷ lại vào sự gợi ý
của giáo viên.
- Khó kiểm sốt q trình học tập của học sinh (có nhiều tình huống bất ngờ
trong câu trả lời, thậm chí câu hỏi từ phía người học, vì vậy giờ học dễ lệch hướng do
1


câu hỏi vụn vặt, khơng nhất qn). Khó soạn và xây dựng đáp án cho các câu hỏi mở
(vì phương án trả lời của học sinh sẽ không giống nhau).
2. Những hạn chế của giải pháp cũ cần khắc phục.
- Từ trước đến nay, giáo viên quan tâm trước nhất đến việc hồn thành bổn
phận của mình là truyền đạt cho hết nội dung quy định trong thời hạn và sách giáo
khoa, cố gắng làm cho mọi học trò hiểu và nhớ những điều giáo viên giảng. Do đó đa
số giáo viên sử dụng phương pháp dạy học thuyết trình là chính. Cách dạy này tạo ra
cách học bị động, thiên về ghi nhớ, ít chịu suy nghĩ, khơng đáp ứng được xu hướng
phát triển năng động của tầng lớp đương đại.
- Trước đây căn cứ vào nội dung sách giáo khoa, phần Động cơ đốt trong môn
Công nghệ nội dung kiến thức dài, cấu tạo phức tạp, nguyên lí làm việc trừu tượng,
khó hiểu, khó hình dung. Bên cạnh đó phương pháp dạy của giáo viên chủ yếu là
phương pháp thuyết trình, đàm thoại. Trong kiều kiện nhà trường có rất ít đồ dùng
dạy học trực quan như tranh vẽ, vật thật và mơ hình dạy học, bên cạnh đó trang thiết
bị thí nghiệm, thực hành cịn nhiều hạn chế, làm cho chất lượng giờ dạy không cao,
học sinh có tư tưởng chán học, học lệch.

- Phương pháp dạy học truyền thống, giáo viên đóng vai trị là trung tâm, là
chuyên gia, nhiệm vụ chính là truyền đạt kiến thức. Học sinh tiếp nhận kiến thức gần
như là áp đặt, chưa thấy được bản chất cụ thể của vấn đề. Học sinh vẫn cịn mơ hồ
khi tìm hiểu ngun lý hoạt động của các cơ cấu, hệ thống động cơ đốt trong thì đã
hết giờ, giờ sau lại học bài mới...Với những giáo viên trẻ, mới ra trường khi giảng
dạy phần động cơ đốt trong cho học sinh, muốn học sinh hiểu bài, u thích mơn học
và định hướng nghề nghiệp cho học sinh thì đúng là mị kim đáy bể.
- Do đặc điểm hàn lâm của kiến thức nên nội dung bài dạy theo phương
pháp truyền thống có tính hệ thống, tính lơgic cao. Song do q đề cao người dạy
nên nhược điểm của PPDH truyền thống là học sinh thụ động tiếp thu kiến thức,
giờ dạy dễ đơn điệu, buồn tẻ, kiến thức thiên về lý luận, ít chú ý đến kỹ năng thực
hành của người học. Do đó kỹ năng thực hành và vận dụng vào đời sống thực tế bị
hạn chế.
- Những hình ảnh, tranh ảnh minh họa cho động cơ đốt trong không lột tả hết
các tính năng, cấu tạo cũng như chu trình hoạt động trong động cơ, làm cho học sinh
rất khó hình dung, khó hiểu và khó nhớ. Học sinh thụ động lĩnh hội tri thức, chủ yếu
là thừa nhận những kiến thức do giáo viên cung cấp hoặc nghiên cứu được trong sách
giáo khoa. Vì vậy khơng phát huy được tính chủ động và sáng tạo học tập của học
sinh.
- Động cơ đốt trong được ứng dụng rất nhiều trong cuộc sống. Các doanh
nghiệp, các trung tâm sản xuất, lắp ráp, sửa chữa và bảo dưỡng động cơ tuy nhiều
nhưng lại khơng có mối liên hệ chặt chẽ với nhà trường nên không hỗ trợ cho việc
giảng dạy của giáo viên cũng như quá trình học tập của học sinh. Do đó học sinh
cũng khơng có cơ hội để tiếp cận và nghiên cứu kĩ hơn về động cơ đốt trong.
3. Giải pháp mới cải tiến
3.1. Tính mới, tính sáng tạo của giải pháp mới
Khác với PPDH truyền thống, trong PPDH tích cực, giáo viên là người giữ vai
trị hướng dẫn, gợi ý, tổ chức, giúp cho người học tự tìm kiếm, khám phá những tri
thức mới theo kiểu tranh luận, hội thảo theo nhóm. Người thầy có vai trị là trọng tài,
2



cố vấn điều khiển tiến trình giờ dạy. PPDH này rất chú ý đến đối tượng học sinh, coi
trọng việc nâng cao quyền năng cho người học. Giáo viên là người nêu tình huống,
kích thích hứng thú, suy nghĩ và phân xử các ý kiến đối lập của học sinh; từ đó hệ
thống hố các vấn đề, tổng kết bài giảng, khắc sâu những tri thức cần nắm vững.
Giáo án dạy học theo phương pháp tích cực được thiết kế kiểu chiều ngang
theo hai hướng song hành giữa hoạt động dạy của thầy và học của trò. Ưu điểm của
PPDH tích cực rất chú trọng kỹ năng thực hành, vận dụng giải quyết các vấn đề thực
tiễn, coi trọng rèn luyện và tự học. Đặc điểm của dạy học theo phương pháp này là
giảm bớt thuyết trình, diễn giải; tăng cường dẫn dắt, điều khiển, tổ chức, xử lý tình
huống. u cầu của PPDH tích cực cần có các phương tiện dạy học, học sinh chuẩn
bị bài kỹ ở nhà trước khi đến lớp và phải mạnh dạn, tự tin bộc lộ ý kiến, quan điểm.
Giáo viên phải chuẩn bị kỹ bài giảng, thiết kế giờ dạy, lường trước các tình huống để
chủ động tổ chức giờ dạy có sự phối hợp nhịp nhàng giữa hoạt động của thầy và hoạt
động của trị.
Tính mới và sáng tạo nổi bật của giải pháp mới là tạo hứng thú học tập cho
học sinh. Hứng thú trong học tập được hiểu là thái độ đặc biệt của chủ thể đối với đối
tượng của hoạt động học tập, biểu hiện sự tập trung cao độ, ở sự say mê, hấp dẫn bởi
nội dung hoạt động học tập, vì sự cuốn hút về mặt tình cảm và ý nghĩa thiết thực của
nó trong đời sống cá nhân. Hứng thú được hình thành, duy trì và phát triển nhờ mơi
trường giáo dục với vai trị dẫn dắt, hướng dẫn, tổ chức của giáo viên. Giáo viên là
người có vai trị quyết định trong việc phát hiện, hình thành, bồi dưỡng hứng thú học
tập cho học sinh. Hiệu quả thực sự của việc dạy học là học sinh biết tự học; tự hoàn
thiện kiến thức và tự rèn luyện. Có nhiều nhóm biện pháp tạo hứng thú học tập cho
học sinh và chúng thuộc những bình diện khác nhau của quá trình dạy học.
Một trong các biện pháp tác động vào phương tiện, thiết bị dạy học là sử dụng
công nghệ thông tin kết hợp với cách sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học và
các kĩ thuật dạy học phát huy tính tích cực, sáng tạo. Công nghệ thông tin mở ra triển
vọng to lớn trong việc đổi mới các phương pháp và hình thức dạy học. Những

phương pháp dạy học theo cách tiếp cận kiến tạo, phương pháp dạy học theo dự án,
dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề càng có nhiều điều kiện để ứng dụng rộng rãi.
Các hình thức dạy học như dạy theo chủ đề, dạy theo nhóm cũng có những đổi mới
trong mơi trường cơng nghệ thơng tin.
Trong đó xác định mục tiêu đích thực của việc ứng dụng công nghệ thông tin
trong dạy học là: Nâng cao một bước cơ bản chất lượng học tập cho học sinh, tạo ra
một mơi trường giáo dục mang tính tương tác cao, khắc phục tình trạng “thầy đọc, trị
chép”, học sinh được khuyến khích và tạo điều kiện để chủ động tìm kiếm tri thức,
sắp xếp hợp lý quá trình tự học tập, tự rèn luyện của bản thân mình. Cơng nghệ thơng
tin giúp giáo viên nâng cao tính sáng tạo và trở nên linh hoạt hơn trong quá trình
giảng dạy của mình. Giáo viên khơng chỉ bó buộc trong khối lượng kiến thức có
trong sách giáo khoa mà cịn được tìm hiểu thêm nhiều kiến thức và ứng dụng mới,
những nội dung liên mơn, tích hợp với bài học.
Nhiệm vụ cần thiết mà mà mỗi giáo viên phải làm trong mỗi tiết học ở trường
cũng như ở nhà là tổ chức, điều khiển, giám sát để học sinh được hoạt động nhiều
hơn, thực hành nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn và quan trọng là được suy nghĩ nhiều
hơn trên con đường chiếm lĩnh nội dung học tập. Giáo viên phải tìm hiểu về cách
3


thức áp dụng công nghệ thông tin trong dạy học để biến những lớp học trở thành
những sân chơi thú vị, tươi vui và đầy bổ ích.
3.2. Nội dung của giải pháp mới
Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04/11/2013 của Hội nghị Trung ương 8 khóa
XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ
phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tính cực, chủ động, sáng
tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt
một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích học
sinh tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát
triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang hình thức học tập tập đa dạng,

chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy học”.
Để cơng cuộc đổi mới giáo dục có hiệu quả thì yêu cầu đổi mới phương pháp
dạy học bên cạnh đổi mới nội dung có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với nền giáo
dục nước ta hiện nay. Việc đổi mới phương pháp dạy học không chỉ ở những bộ mơn
được coi là quan trọng, chính yếu mà đòi hỏi đổi mới phải đồng bộ ở tất cả các mơn,
trong đó có mơn Cơng nghệ. Vì vậy, việc đổi mới phương pháp dạy học môn Công
nghệ hiện nay được đặc biệt quan tâm bởi nó sẽ góp phần đẩy mạnh sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hiện nay giáo dục phổ thông nước ta đang thực
hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực
của người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ
quan tâm học sinh vận dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, nhất
định phải thực hiện thành cơng việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “truyền
thụ một chiều” sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức rèn luyện kỹ năng, hình
thành năng lực và phẩm chất nhằm nâng cao chất lượng của các hoạt động dạy học và
giáo dục. Một trong những biện pháp đổi mới phương pháp dạy học, học sinh biết
cách học, cách vận dụng kiến thức đó là giáo viên phải tăng cường sử dụng phương
tiện đồ dùng trực quan dạy học và công nghệ thơng tin hợp lí hỗ trợ dạy học.
Giới hạn trong phạm vi giảng dạy thì giáo viên cần sử dụng đồng bộ một số
phương pháp dạy học đạt hiệu quả cao.
A. Cải tiến các phương pháp dạy học truyền thống
Các phương pháp dạy học truyền thống như thuyết trình, đàm thoại, luyện
tập luôn là những phương pháp quan trọng trong dạy học. Đổi mới phương pháp dạy
học khơng có nghĩa là loại bỏ các phương pháp dạy học truyền thống quen thuộc mà
cần bắt đầu bằng việc cải tiến để nâng cao hiệu quả, phát huy ưu điểm và hạn chế
nhược điểm của chúng. Để nâng cao hiệu quả của các phương pháp dạy học này
người giáo viên trước hết cần nắm vững những yêu cầu và sử dụng thành thạo các kĩ
thuật của chúng trong việc chuẩn bị cũng như tiến hành bài lên lớp, chẳng hạn như kĩ
thuật mở bài, kĩ thuật trình bày, giải thích trong khi thuyết trình, kĩ thuật đặt các câu
hỏi và xử lí các câu trả lời trong đàm thoại, hay kĩ thuật làm mẫu trong luyện tập. Để

việc sử dụng các kĩ thuật trên có hiệu quả khi dạy phần Động cơ đốt trong – Cơng
nghệ 11 thì giáo viên cần sử dụng cơng nghệ thơng tin vào trong q trình giảng dạy.
Từ khâu thu thập tài liệu, soạn giảng đến khâu tổ chức dạy học và khâu kiểm tra đánh
giá cũng như hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà. Giáo viên có thể sử dụng các
hình ảnh minh họa, các đoạn video tự quay các hoạt động trong thực tiễn để giới
4


thiệu khi vào bài mới sẽ làm tăng tính sinh động và hấp dẫn, khơi dậy hững thú học
tập của học sinh. Trong kĩ thuật trình bày, giải thích hoặc làm mẫu nếu giáo viên biết
lồng ghép các hình ảnh, các thước phim tư liệu thì rõ ràng, nhanh chóng và hiệu quả
hơn.
Tuy nhiên, các phương pháp dạy học truyền thống có những hạn chế tất yếu,
vì thế bên cạnh các phương pháp dạy học truyền thống cần kết hợp sử dụng các
phương pháp dạy học mới, đặc biệt là những phương pháp và kĩ thuật dạy học phát
huy tính tích cực và sáng tạo của học sinh. Chẳng hạn có thể tăng cường tính tích
cực nhận thức của học sinh trong thuyết trình, đàm thoại theo quan điểm dạy học
giải quyết vấn đề.
B. Kết hợp đa dạng các phương pháp dạy học
Khơng có một phương pháp dạy học tồn năng phù hợp với mọi mục tiêu và
nội dung dạy học. Mỗi phương pháp và hình thức dạy học có những ưu, nhựơc điểm
và giới hạn sử dụng riêng. Vì vậy việc phối hợp đa dạng các phương pháp và hình
thức dạy học trong tồn bộ q trình dạy học là phương hướng quan trọng để phát
huy tính tích cực và nâng cao chất lượng dạy học. Dạy học toàn lớp, dạy học nhóm,
nhóm đơi và dạy học cá thể là những hình thức xã hội của dạy học cần kết hợp với
nhau, mỗi một hình thức có những chức năng riêng. Tình trạng độc tơn của dạy học
tồn lớp và sự lạm dụng phương pháp thuyết trình cần được khắc phục, đặc biệt
thơng qua làm việc nhóm.
Trong thực tiễn dạy học ở trường trung học hiện nay, nhiều giáo viên đã cải
tiến bài lên lớp theo hướng kết hợp thuyết trình của giáo viên với hình thức làm việc

nhóm, góp phần tích cực hố hoạt động nhận thức của học sinh. Tuy nhiên hình thức
làm việc nhóm rất đa dạng, không chỉ giới hạn ở việc giải quyết các nhiệm vụ học tập
nhỏ xen kẽ trong bài thuyết trình, mà cịn có những hình thức làm việc nhóm giải
quyết những nhiệm vụ phức hợp, có thể chiếm một hoặc nhiều tiết học, sử dụng
những phương pháp chuyên biệt như phương pháp đóng vai, nghiên cứu trường
hợp, dự án. Mặt khác, việc bổ sung dạy học toàn lớp bằng làm việc nhóm xen kẽ
trong một tiết học mới chỉ cho thấy rõ việc tích cực hố “bên ngồi” của học sinh.
Muốn đảm bảo việc tích cực hố “bên trong” cần chú ý đến mặt bên trong của
phương pháp dạy học, vận dụng dạy học giải quyết vấn đề và các phương pháp dạy
học tích cực khác.
C. Phương pháp dạy học tích cực
Để nâng cao chất lượng giảng dạy cần phải thay đổi cách học của học sinh,
muốn thay đổi cách học của học sinh trước hết cần thay đổi cách dạy của giáo viên,
thay đổi cách tổ chức các hoạt động học, thay đổi cách kiểm tra - đánh giá, đó là cách
thức dạy học theo lối phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Vì thế
thường gọi là phương pháp dạy học (PPDH) tích cực. PPDH tích cực hướng tới việc
hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung
vào phát huy tính tích cực của người học chứ khơng phải là tập trung vào phát huy
tính tích cực của người dạy.
Khi áp dụng các phương pháp dạy học tích cực dạy phần Động cơ đốt trong
– Cơng nghệ 11, nên sử dụng các kĩ thuật dạy học tích cực kết hợp với ứng dụng
cơng nghệ thơng tin. Vì đặc điểm nổi bật của các phương pháp nay là học sinh
phải hoạt động nhiều hơn và phối hợp hợp tác nhóm nhiều hơn (kĩ năng hợp tác
5


nhóm là hạn chế của giới học sinh - sinh viên nói riêng và của nguồn lao động Việt
Nam nói chung), học sinh phải chủ động tìm kiếm tri thức, qua đó hình thành kĩ
năng nên sẽ mất nhiều thời gian hơn. Khi sử dụng công nghệ thông tin để dạy học
sẽ không những khắc phục được điều này mà còn làm tăng độ hấp dẫn và hứng thú

của học sinh thơng qua những thơng tin, hình ảnh, mơ hình, video clip trực quan,
sống động.
1. Một số phương pháp dạy học tích cực
1.1. Phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề
Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là PPDH trong đó giáo viên tạo ra
những tình huống có vấn đề, điều khiển học sinh phát hiện vấn đề, hoạt động tự giác,
tích cực, chủ động, sáng tạo để giải quyết vấn đề và thông qua đó chiếm lĩnh tri thức,
rèn luyện kĩ năng và đạt được những mục đích học tập khác. Đặc trưng cơ bản của
dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là "tình huống gợi vấn đề" vì "Tư duy chỉ bắt
đầu khi xuất hiện tình huống có vấn đề".
Tình huống có vấn đề (tình huống gợi vấn đề) là một tình huống gợi ra cho học
sinh những khó khăn về lí luận hay thực hành mà họ thấy cần có khả năng vượt qua,
nhưng không phải ngay tức khắc bằng một thuật giải, mà phải trải qua q trình tích
cực suy nghĩ, hoạt động để biến đổi đối tượng hoạt động hoặc điều chỉnh kiến thức
sẵn có.
Một số cách thơng dụng để tạo tình huống gợi vấn đề là:
+ Dự đoán những nhận xét trực quan, thực hành hoặc hoạt động thực tiễn.
+ Lật ngược vấn đề.
+ Xét tương tự.
+ Khái quát hóa.
+ Khai thác kiến thức cũ, đặt vấn đề dẫn đến kiến thức mới.
+ Giải bài tập mà chưa biết thuật giải trực tiếp.
+ Tìm sai lầm trong lời giải.
+ Phát hiện nguyên nhân sai lầm và sửa chữa sai lầm.
Trong dạy học, các cơ hội như vậy rất nhiều, do đó PPDH phát hiện và giải quyết vấn
đề có khả năng được áp dụng rộng rãi trong dạy học nhằm phát huy tính chủ động,
sáng tạo của học sinh.
1.2. Phương pháp dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ
Dạy học nhóm nếu được tổ chức tốt sẽ phát huy được tính tích cực, tính trách
nhiệm; phát triển năng lực cộng tác làm việc và năng lực giao tiếp của học sinh.

PPDH hợp tác trong nhóm nhỏ cịn được gọi bằng một số tên khác như
"Phương pháp thảo luận nhóm" hoặc PPDH hợp tác.
Đây là một PPDH mà học sinh được phân chia thành từng nhóm nhỏ riêng
biệt, chịu trách nghiệm về một mục tiêu duy nhất, được thực hiện thông qua nhiệm
vụ riêng biệt của từng người. Các hoạt động cá nhân riêng biệt được tổ chức lại, liên
kết với nhau nhằm thực hiện một mục tiêu chung.
Phương pháp thảo luận nhóm được sử dụng nhằm giúp cho mọi học sinh tham
gia một cách chủ động vào quá trình học tập, tạo cơ hội cho các em có thể chia sẻ
kiến thức, kinh nghiệm và phát biểu ý kiến để giải quyết các vấn đề có liên quan đến
nội dung bài học. Tạo cơ hội cho các em được giao lưu, học hỏi lẫn nhau, cùng nhau
hợp tác giải quyết những nhiệm vụ chung.
6


1.3. Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình
Nghiên cứu trường hợp điển hình là phương pháp sử dụng một câu chuyện có
thật hoặc chuyện được viết dựa trên những trường hợp thường xảy ra trong cuộc sống
thực tiễn để minh chứng cho một vấn đề hay một số vấn đề. Đơi khi nghiên cứu
trường hợp điển hình có thể được thực hiện trên video hay một băng catset mà khơng
phải trên văn bản viết.
1.4. Phương pháp trị chơi
Bản chất của phương pháp trò chơi là phương pháp tổ chức cho học sinh tìm
hiểu một vấn đề, thực hiện một nhiệm vụ học tập hay thể nghiệm những hành động,
những thái độ, những việc làm thơng qua một trị chơi học tập nào đó. Trị chơi học
tập là các hoạt động được diễn ra theo trình tự hoạt động của một trò chơi.
Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh được hoạt động bằng cách tự chơi
trò chơi trong đó mục đích của trị chơi chuyển tải mục tiêu của bài học. Luật chơi
(cách chơi) thể hiện nội dung và phương pháp học, đặc biệt là phương pháp học tập
có sự hợp tác và sự tự đánh giá.
Sử dụng trị chơi học tập để hình thành kiến thức, kĩ năng mới hoặc củng cố

kiến thức, kĩ năng đã học. Trong thực tế dạy học, giáo viên thường tổ chức trò
chơi học tập để củng cố kiến thức, kĩ năng. Tuy nhiên việc tổ chức cho học sinh
chơi các trò chơi để hình thành kiến thức, kĩ năng mới là rất cần để tạo hứng thú
học tập cho học sinh ngay từ khi bắt đầu bài học mới và cần được duy trì trong
suốt q trình học.
* Một số trị chơi thường được vận dụng.
+ Trị trơi giải ơ chữ.
Đây là trò chơi dành cho các đội hoặc cá nhân tùy theo mục đích của tiết học.
Giáo viên phải thiết kế ô chữ gắn với chủ đề nội dung bài học, mỗi ơ chữ phải
ẩn chứa một từ chìa khóa. Sau khi giải thành cơng hàng ngang thì giáo viên có thể
cho học sinh lựa chọn để trả lời ơ chữ hàng dọc, nếu trả lời đúng thì sẽ chiến thắng,
nếu sai thì chọn đội (hoặc cá nhân) tiếp theo.
+ Trò chơi con số may mắn.
Đây là trò chơi dành cho các đội.
Trên màn hình là những con số, mỗi con số là một câu hỏi. Đội nào bốc được
số nào thì trả lời câu hỏi ẩn sau con số ấy. Nếu trả lời đúng thì ghi được một điểm,
cịn nếu trả lời sai thì quyền trả lời sẽ thuộc về đội khác. Tuy nhiên, trong các số ấy
có số khơng chứa câu hỏi. Nếu đội nào bốc trúng thì vẫn được điểm.
+ Trị chơi đuổi hình bắt chữ.
Đây là trò chơi dành cho các đội hoặc cá nhân tùy theo mục đích của tiết học.
Căn cứ các hình ảnh đưa ra, mỗi cá nhân hoặc đội sẽ đoán được cụm từ hoặc
nội dung liên quan đến hình ảnh ấy.
+ Trò chơi ai nhanh hơn
Thường được sử dụng để thi đua giữa các tổ hoặc các đội.
Có thể chia lớp thành nhiều nhóm. Sau mỗi thơng tin, hình ảnh mà giáo viên
đưa ra, đội nào có tín hiệu trả lời nhanh nhất sẽ được quyền trả lời. Nếu trả lời đúng
sẽ được ghi một điểm, nếu trả lời sai quyền đó sẽ thuộc về những đội cịn lại (với
điều kiện, đội đó nhanh tay đưa tín hiệu xin trả lời trước).
+ Trò chơi tiếp sức.
7



Được thực hiện theo nhóm. Mỗi nhóm cử 3 – 5 người tham gia thành một đội.
Giáo viên đưa ra yêu cầu và định vị thời gian chung cho tất cả các đội. Tuy
nhiên mỗi cá nhân chỉ được quyền thực hiện một lượt chơi. Người sau có thể lên
sửa sai hoặc bổ sung cho người trước để đạt được một kết quả hoàn chỉnh nhất.
Trong một khoảng thời gian nhất định, đội nào ghi được nhiều kết quả đúng đội đó
sẽ thắng.
1.5. Phương pháp dạy học theo dự án (DHDA)
Dạy học theo dự án là một mơ hình dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Nó giúp
phát triển kiến thức và các kỹ năng liên quan thông qua những nhiệm vụ mang tính mở,
khuyến khích học sinh tìm tịi, hiện thực hố những kiến thức đã học trong quá trình
thực hiện và tạo ra những sản phẩm của chính mình. Chương trình dạy học theo dự án
được xây dựng dựa trên những câu hỏi định hướng quan trọng, lồng ghép các chuẩn nội
dung và tư duy bậc cao trong những bối cảnh thực tế.
Bài học thiết kế theo dự án chứa đựng nhiều kỹ thuật dạy học khác nhau, có thể
lơi cuốn được mọi đối tượng học sinh không phụ thuộc vào cách học của các em.
Trong các dự án tìm hiểu, học sinh sẽ được làm việc với các chuyên gia và những
thành viên trong cộng đồng để giải quyết vấn đề, hiểu sâu nội dung hơn. Các phương
tiện kỹ thuật cũng được sử dụng để hỗ trợ việc học. Trong q trình thực hiện dự án
có thể vận dụng nhiều cách đánh giá khác nhau để giúp học sinh tạo ra những sản
phẩm có chất lượng.
Dạy học theo dự án là một hình thức dạy học, trong đó học sinh dưới sự điều
khiển và giúp đỡ của giáo viên tự lực giải quyết một nhiệm vụ học tập mang tính
phức hợp khơng chỉ về mặt lý thuyết mà đặc biệt về mặt thực hành, thông qua đó tạo
ra các sản phẩm thực hành có thể giới thiệu, công bố được.
* Đặc điểm của phương pháp dạy học theo dự án
- Định hướng thực tiễn: Chủ đề của dự án xuất phát từ những tình huống của thực
tiễn xã hội, thực tiễn nghề nghiệp cũng như thực tiễn đời sống. Nhiệm của dự án cần
chứa đựng những vấn đề phù hợp với trình độ và khả năng nhận thức của người học.

Các dự án học tập có ý nghĩa thực tiễn xã hội, góp phần gắn việc học tập trong nhà
trường với thực tiễn đời sống, xã hội. Trong những trường hợp lí tưởng, việc thực
hiện các dự án có thể mang lại những tác động xã hội tích cực.
- Định hướng hứng thú người học: Học sinh được tham gia chọn đề tài, nội dung
học tập phù hợp với khả năng và hứng thú cá nhân. Ngoài ra, hứng thú của người học
cần được tiếp tục phát triển trong quá trình thực hiện dự án.
- Mang tính phức hợp, liên mơn: Nội dung dự án có sự kết hợp tri thức của nhiều
lĩnh vực hoặc nhiều môn học khác nhau nhằm giải quyết một nhiệm vụ, vấn đề mang
tính phức hợp.
- Định hướng hành động: Trong q trình thực hiện dự án có sự kết hợp giữa
nghiên cứu lý thuyết và vận dụng lý thuyết vào trong hoạt động thực tiễn, thực hành.
Thơng qua đó, kiểm tra, củng cố, mở rộng hiểu biết lý thuyết cũng như rèn luyện kỹ
năng hành động, kinh nghiệm thực tiễn của người học.
- Tính tự lực của người học: Trong dạy học theo dự án, người học cần tham gia
tích cực, tự lực vào các giai đoạn của quá trình dạy học. Điều đó cũng địi hỏi và
khuyến khích tính trách nhiệm, sự sáng tạo của người học. Giáo viên chủ yếu đóng
8


vai trò tư vấn, hướng dẫn, giúp đỡ. Tuy nhiên, mức độ tự lực cần phù hợp với kinh
nghiệm, khả năng của học sinh và mức độ khó khăn của nhiệm vụ.
- Cộng tác làm việc: Các dự án học tập thường được thực hiện theo nhóm, trong
đó có sự cộng tác làm việc và sự phân công công việc giữa các thành viên trong
nhóm. Dạy học theo dự án địi hỏi và rèn luyện tính sẵn sàng và kỹ năng công tác làm
việc giữa các thành viên tham gia, giữa học sinh và giáo viên cũng như với các lực
lượng xã hội khác tham gia trong dự án. Đặc điểm này cịn được gọi là học tập mang
tính xã hội.
- Định hướng sản phẩm: Trong quá trình thực hiện dự án, các sản phẩm được tạo
ra không chỉ giới hạn trong những thu hoạch lí thuyết, mà trong đa số trường hợp các
dự án học tập tạo ra những sản phẩm vật chất của hoạt động thực tiễn, thực hành.

Những sản phẩm này có thể sử dụng, cơng bố, giới thiệu.
Dựa theo các đặc điểm của phương pháp dạy học dự án ta thấy việc áp dụng
phương pháp này để dạy phần Động cơ đốt trong – Công nghệ 11 rất có hiệu quả.
* Một số lưu ý
- Các dự án học tập cần góp phần gắn việc học tập trong nhà trường với thực tiễn đời
sống, xã hội; có sự kết hợp giữa nghiên cứu lí thuyết và vận dụng lí thuyết vào hoạt
động thực tiễn, thực hành.
- Nhiệm vụ dự án cần chứa đựng những vấn đề phù hợp với trình độ và khả năng của
học sinh.
- Học sinh được tham gia chọn đề tài, nội dung học tập phù hợp với khả năng và
hứng thú cá nhân.
- Nội dung dự án có sự kết hợp tri thức của nhiều lĩnh vực hoặc môn học khác nhau
nhằm giải quyết một vấn đề mang tính phức hợp.
- Các dự án học tập thường được thực hiện theo nhóm, trong đó có sự cộng tác làm
việc và sự phân cơng cơng việc giữa các thành viên trong nhóm.
- Sản phẩm của dự án không giới hạn trong những bài thu hoạch lý thuyết mà sản
phẩm này có thể sử dụng, công bố, giới thiệu.
- Dạy học dự án rất thích hợp để tổ chức dạy học các ứng dụng kĩ thuật hay vận dụng
các kiến thức khoa học để giải quyết các vấn đề thực tiễn (phần Động cơ đốt trong –
Công nghệ 11).
- Dạy học dự án không phù hợp với các bài học địi hỏi sự trình bày chính xác, chặt
chẽ và hệ thống (đại lượng vật lí, định luật, thuyết vật lí).
* Các bước tổ chức dạy học dự án
* Công đoạn chuẩn bị
- Xây dựng ý tưởng.
- Lựa chọn chủ đề, tiểu chủ đề.
- Lập kế hoạch các nhiệm vụ học tập.
+ Hoạt động của giáo viên:
- Xây dựng bộ câu hỏi định hướng: xuất phát từ nội dung học và mục tiêu cần
đạt được.

- Thiết kế dự án: xác định lĩnh vực thực tiễn ứng dụng nội dung học, mục đích, ý
tưởng và tên dự án.
- Thiết kế các nhiệm vụ cho học sinh: làm thế nào để học sinh thực hiện xong thì
bộ câu hỏi được giải quyết và các mục tiêu đồng thời cũng đạt được.
9


- Chuẩn bị các tài liệu hỗ trợ giáo viên và học sinh cũng như các điều kiện thực
hiện dự án trong thực tế.
+ Hoạt động của học sinh:
- Làm việc nhóm để lựa chọn chủ đề dự án.
- Xây dựng kế hoạch dự án: xác định những công việc cần làm, thời gian dự kiến, vật
liệu, kinh phí, phương pháp tiến hành và phân cơng cơng việc trong nhóm.
- Chuẩn bị các nguồn thông tin đáng tin cậy để chuẩn bị thực hiện dự án.
- Cùng giáo viên thống nhất các tiêu chí đánh giá dự án.
* Cơng đoạn thực hiện dự án
- Thu thập thông tin.
- Thực hiện điều tra.
- Thảo luận với các thành viên trong nhóm.
- Tham vấn giáo viên hướng dẫn.
+ Hoạt động của giáo viên:
- Theo dõi, hướng dẫn, đánh giá học sinh trong quá trình thực hiện dự án.
- Liên hệ các cơ sở, khách mời cần thiết cho học sinh.
- Chuẩn bị cơ sở vật chất, tạo điều kiện thuận lợi cho các em thực hiện dự án.
- Bước đầu thông qua sản phẩm cuối của các nhóm học sinh.
+ Hoạt động của học sinh:
- Phân công nhiệm vụ các thành viên trong nhóm thực hiện dự án theo đúng kế
hoạch.
- Tiến hành thu thập, xử lý thông tin thu được.
- Xây dựng sản phẩm hoặc bản báo cáo.

- Liên hệ, tìm nguồn giúp đỡ khi cần.
- Thường xuyên phản hồi, thông báo thơng tin cho giáo viên và các nhóm khác.
* Công đoạn kết thúc dự án
-Tổng hợp các kết quả.
- Xây dựng sản phẩm.
- Trình bày kết quả.
- Phản ánh lại quá trình học tập.
+ Hoạt động của giáo viên:
- Chuẩn bị cơ sở vật chất cho buổi báo cáo dự án.
- Theo dõi, đánh giá sản phẩm dự án của các nhóm.
+ Hoạt động của học sinh:
- Chuẩn bị tiến hành giới thiệu sản phẩm.
- Tiến hành giới thiệu sản phẩm.
- Tự đánh giá sản phẩm dự án của nhóm.
- Đánh giá sản phẩm dự án của các nhóm khác theo tiêu chí đã đưa ra.
* Cơng đoạn đánh giá
+ Hoạt động của giáo viên:
- Chuẩn bị cơ sở vật chất cho buổi báo cáo dự án.
- Theo dõi, đánh giá sản phẩm dự án của các nhóm.
+ Hoạt động của học sinh:
- Tiến hành giới thiệu sản phẩm.
- Tự đánh giá sản phẩm dự án của nhóm.
10


- Đánh giá sản phẩm dự án của các nhóm khác theo tiêu chí đã đưa ra.
* Bộ câu hỏi định hướng
Bộ câu hỏi định hướng được biên soạn dựa trên bảng mô tả các mức độ yêu
cầu của câu hỏi, bài tập dùng trong dạy học và kiểm tra, đánh giá. Từ mục tiêu bài
học, có thể mơ tả các năng lực cần đạt theo bốn cấp độ tư duy là nhận biết, thông

hiểu, vận dụng thấp và vận dụng cao. Bộ câu hỏi giúp học sinh kết nối những khái
niệm cơ bản trong cùng một môn học hoặc giữa các môn học với nhau. Các câu hỏi
này tạo điều kiện để định hướng việc học tập của học sinh thơng qua các vấn đề kích
thích tư duy. Các câu hỏi định hướng giúp gắn các mục tiêu của dự án với các mục
tiêu học tập và chuẩn của chương trình.
Bộ câu hỏi định hướng bao gồm:
+ Câu hỏi khái quát là những câu hỏi mở, có phạm vi rộng, kích thích sự khám
phá, nhằm hướng đến những khái niệm lớn và lâu dài, đòi hỏi các kỹ năng tư duy bậc
cao và thường có tính chất liên mơn.
+ Câu hỏi bài học là những câu hỏi mở có liên hệ trực tiếp với dự án hoặc bài
học cụ thể, đòi hỏi các kỹ năng tư duy bậc cao, giúp học sinh tự xây dựng câu trả lời
và hiểu biết của bản thân từ thơng tin mà chính các em thu thập được.
+ Câu hỏi nội dung là những câu hỏi đóng có các câu trả lời “đúng” được xác
định rõ ràng, trực tiếp hỗ trợ việc dạy và học các kiến thức cụ thể. Chúng thường có
liên quan đến các định nghĩa, khái niệm hoặc yêu cầu nhớ lại thơng tin, giải thích một
số vấn đề, vận dụng các kiến thức tiếp thu được để giải một số bài tập áp dụng, hoặc
giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn (như các câu hỏi kiểm tra thông
thường).
* Đánh giá dự án
* Công tác đánh giá
Đánh giá dự án không chỉ đơn thuần là đánh giá sản phẩm của dự án mà còn
phải đánh giá mức độ hiểu, khả năng nhận thức và kĩ năng của học sinh đồng thời
theo dõi sự tiến bộ ở các em.
* Một số công cụ đánh giá
- Bài kiểm tra viết và kiểm tra nói: Các bài kiểm tra có thể đưa ra được những
minh chứng trực tiếp về khả năng tiếp thu kiến thức và thông hiểu kiến thức của học
sinh.
- Sổ ghi chép: Sổ ghi chép là những phản ảnh về việc học và những hồi đáp với
những gợi ý ở dạng viết. Ngoài những phản hồi, các gợi ý giúp thể hiện rõ các kỹ
năng tư duy cụ thể ở những phần quan trọng của dự án.

- Phỏng vấn và quan sát dựa trên kế hoạch đã chuẩn bị: Các cuộc phỏng vấn
miệng chính thức, được lên lịch với các thành viên trong nhóm để thăm dị sự hiểu
bài của học sinh. Thể thức câu hỏi phỏng vấn là yêu cầu học sinh giải thích và đưa ra
lý do về cách hiểu vấn đề. Các quan sát cũng được tiến hành tương tự nhưng dùng
cho việc đánh giá kỹ năng, tiến trình và sự thể hiện năng lực và cũng có thể được
thực hiện bởi học sinh.
- Sự thể hiện: là những bài báo cáo, các sản phẩm và các sự kiện mà học sinh
thiết kế và thực hiện để thể hiện quá trình học tập của các em.

11


- Kế hoạch dự án: Kế hoạch dự án giúp học sinh tự chủ trong học tập. Học sinh
xác định mục tiêu, thiết kế chiến lược để đạt mục tiêu, đặt thời gian biểu và xác định
các tiêu chí để đánh giá.
- Phản hồi qua bạn học: Phản hồi của bạn học giúp cho học sinh tiếp thu được
đặc điểm về chất lượng học tập qua đánh giá việc học của bạn học.
- Quan sát các nhóm làm việc để hỗ trợ đánh giá kĩ năng cộng tác.
- Các sản phẩm: Sản phẩm là những gì học sinh sáng tạo ra hoặc xây dựng nên
thể hiện việc học tập của các em.
Các công cụ đánh giá này phải được sử dụng trong suốt quá trình thực hiện dự
án, tại các thời điểm quan trọng hay vào giai đoạn cuối của dự án. Những kĩ thuật
đánh giá trên cung cấp thông tin có giá trị cho cả giáo viên và học sinh. Mỗi kĩ thuật
đưa ra những phương pháp và công cụ đồng nhất. Điều then chốt là phải hiểu được
các mục đích khác nhau của chúng, chúng được thiết kế như thế nào và cuối cùng, xử
lý kết quả thu được ra sao.
* Ưu điểm – Nhược điểm của phương pháp dạy học theo dự án
+ Ưu điểm:
- Người học là trung tâm của quá trình dạy học.
- Tập trung vào những mục tiêu học tập quan trọng gắn với các chuẩn.

- Được định hướng theo bộ câu hỏi khung chương trình.
- Hình thức đánh giá đa dạng và thường xuyên.
- Tính liên hệ với thực tế cao.
- Người học thể hiện sự hiểu biết của mình thơng qua sản phẩm và q trình
thực hiện.
- Cơng nghệ hiện đại hỗ trợ và thúc đẩy việc học của người học.
- Kĩ năng tư duy là yếu tố không thể thiếu trong phương pháp dạy học dự án.
- Gắn lý thuyết với thực hành, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội.
- Kích thích động cơ, hứng thú học tập của người học.
- Phát huy tính tự lực, tính trách nhiệm.
- Phát triển khả năng sáng tạo.
- Rèn luyện năng lực giải quyết những vấn đề phức hợp.
- Rèn luyện tính bền bỉ, kiên nhẫn.
- Rèn luyện năng lực cộng tác làm việc.
- Phát triển năng lực đánh giá.
Theo đánh giá chung, DHDA có những ưu điểm nổi trội sau: Gắn lý thuyết và
thực hành, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội; kích thích động cơ và hứng thú
cho người học; phát huy tính tự lực và tính trách nhiệm; phát triển khả năng sáng tạo;
rèn luyện khả năng giải quyết những vấn đề phức hợp; rèn luyện tính bền bỉ và kiên
nhẫn; rèn luyện năng lực cộng tác làm việc; rèn luyện năng lực đánh giá.
- Đặc biệt ưu điểm nôi bật nhất là tập trung vào một câu hỏi lớn hoặc một vấn
đề quan trọng có thể có nhiều quan điểm liên quan tới nhiều bộ mơn khác nhau. Đây
cịn là cơ hội đưa ra sáng kiến và thực hiện nhiều hoạt động khác nhau dựa trên các
thơng tin có thể tiếp cận được, địi hỏi thực hiện trong một thời gian nhất định nhằm
phát huy sự hợp tác.
- Giải pháp mới nhằm hướng dẫn học sinh tiếp cận kiến thức thông qua các
nhiệm vụ, tình huống mà giáo viên thiết kế. Dạy học theo hướng tiếp cận năng lực.
12



Người học phải là chủ thể của hoạt động học. Học thơng qua hành động và bằng hành
động, học có động cơ, học có mục đích. Nói về học, ơng cha ta từ xưa có câu học và
hành; học phải đi đôi với hành; trăm nghe không bằng một thấy hay tơi nghe tơi sẽ
qn, tơi nhìn tơi sẽ nhớ, tôi làm tôi sẽ hiểu. Ngày nay, các nghiên cứu về năng lực
nhận thức của con người cũng chỉ ra quan hệ mật thiết giữa thực hành với khả năng
ghi nhớ, thơng hiểu và vận dụng. Vì vậy trọng tâm của giải pháp mới là nghiên bài
học thông qua các hình ảnh trực quan sinh động và hướng dẫn học sinh chủ động lĩnh
hội tri thức .
+ Nhược điểm:
Tuy nhiên điều đó khơng có nghĩa là DHDA khơng có những nhược điểm.
Thực tiễn cho thấy, DHDA không phù hợp trong việc truyền thụ kiến thức lý thuyết
mang tính hệ thống cũng như rèn luyện hệ thống kỹ năng cơ bản. Mặt khác, DHDA
địi hỏi nhiều thời gian vì vậy phương pháp dạy này không thể thay thế cho phương
pháp thuyết trình và luyện tập, ... mà chỉ là hình thức dạy học bổ sung cần thiết cho
các phương pháp dạy học truyền thống.
Tóm lại, DHDA là hình thức dạy học quan trọng để thực hiện quan điểm dạy
học hiện đại như: Định hướng phát triển năng lực học sinh, định hướng người học,
định hướng hành động, dạy học giải quyết vấn đề và quan điểm dạy học tích hợp.
Bên cạnh đó, DHDA góp phần gắn lý thuyết với thực tiễn, tư duy và hành động, nhà
trường và xã hội; tham gia vào việc đào tạo năng lực làm việc tự lực, năng lực sáng
tạo, năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp, tinh thần trách nhiệm và khả năng
cộng tác của người học.
* Vai trò của giáo viên, học sinh và công nghệ trong dạy học dự án
* Vai trò của giáo viên
Khác với phương pháp dạy học truyền thống, giáo viên đóng vai trị trung
tâm, là chun gia và nhiệm vụ chính là truyền đạt kiến thức. Trong DHDA, giáo
viên chỉ là người hướng dẫn và tham vấn chứ không phải là “cầm tay chỉ việc”
cho học sinh. Theo đó, giáo viên khơng dạy nội dung cần học theo cách truyền
thống mà từ nội dung nhìn ra sự liên quan của nó tới các vấn đề của cuộc sống,
hình thành ý tưởng về một dự án liên quan đến nội dung học, tạo vai trò cho học

sinh trong dự án, làm cho vai trò của học sinh gần với nội dung cần học (thiết kế
các bài tập cho học sinh)…Tóm lại, giáo viên khơng cịn giữ vai trị chủ đạo
trong quá trình dạy học mà trở thành người hướng dẫn, người giúp đỡ học sinh,
tạo môi trường thuận lợi nhất cho các em trên con đường thực hiện dự án .
* Vai trò của học sinh
Học sinh là người quyết định cách tiếp cận vấn đề cũng như phương pháp và
các hoạt động cần phải tiến hành để giải quyết vấn đề đó. Học sinh tập làm quen với
việc phát hiện và giải quyết các vấn đề trong thực tiễn bằng các kĩ năng sống thông
qua làm việc theo nhóm. Chính học sinh là người lựa chọn các nguồn dữ liệu, chọn
cách thức thu thập dữ liệu, rồi phân tích, tổng hợp và tích lũy kiến thức từ q trình
làm việc đó. Học sinh hồn thành hoạt động học với các sản phẩm cụ thể (kết quả dự
án) và có cơ hội trình bày, bảo vệ sản phẩm đó. Học sinh cũng là người trình bày kiến
thức mới và các ứng dụng mà họ đã tích lũy thơng qua dự án. Cuối cùng, bản thân
học sinh là người đánh giá và được đánh giá dựa trên những gì đã thu thập được, dựa
13


trên tính khúc chiết, tính hợp lý trong cách thức trình bày của các em theo những tiêu
chí đã xây dựng trước đó.
* Vai trị của cơng nghệ thơng tin
Chỉ thị 58-CT/TW của Bộ Chính Trị đã khẳng định : " ...Đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ thông tin trong công tác giáo dục và đào tạo ở các cấp học, bậc học,
ngành học. Phát triển các hình thức đào tạo từ xa phục vụ cho nhu cầu học tập của
toàn xã hội".
Chỉ thị 29/2001/CT-BGD&ĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng
đã nêu rõ: “Đối với giáo dục và đào tạo, cơng nghệ thơng tin có tác động mạnh mẽ,
làm thay đổi phương pháp, phương thức dạy và học. Công nghệ thông tin là phương
tiện để tiến tới một xã hội học tập”.
Mặc dù công nghệ không phải là vấn đề cốt yếu đối với phương pháp
DHDA nhưng nó có thể nâng cao chất lượng học tập và đem lại cho học sinh cơ

hội để hòa nhập với thế giới bên ngồi, tìm thấy các nguồn tài ngun và tạo ra
sản phẩm minh họa sống động nhất, dễ truyền cảm nhất. Công nghệ sẽ giúp học
sinh nâng cao hứng thú và động lực học tập. Tạo cơ hội tốt hơn để học sinh tham gia
và hợp tác cùng nhau, phát triển kỹ năng xã hội và con người. Học sinh cũng có thể
xử lý và nắm bắt được nhiều thông tin thông qua bài giảng rõ ràng, hiệu quả và linh
hoạt. Công nghệ giúp học sinh trở nên sáng tạo và tự tin hơn khi thuyết trình trước
lớp.
Các phương tiện truyền thơng cùng với hệ thống mạng tồn cầu Internet đang
làm thay đổi cách con người tiếp cận tri thức : không chỉ đọc để biết , mà còn nghe,
thấy, cảm nhận sự kiện xảy ra ở xa như đang diễn ra trước mắt. Sự phát triển nhanh
chóng của công nghệ đã tạo ra một khối lượng thông tin khổng lồ, vượt các giới hạn
về thời gian và khơng gian. Chính vì thế, rèn luyện khả năng thu nhận, xử lý để hiểu
biết thông tin một cách nhanh chóng và chính xác là u cầu quan trọng hiện nay.
Phần Động cơ đốt trong với các nội dung kiến thức về cấu tạo và nguyên lý
làm việc rất phức tạp, trừu tượng, khó hiểu. Do đó cơng nghệ thơng tin là một
công cụ hỗ trợ rất hiệu quả khi dạy và học phần này. Bằng những hình ảnh trực
quan, bằng những video sống động, bằng những ứng dụng thực tế sẽ giúp học
sinh lĩnh hội tri thức nhanh hơn, hiểu rõ hơn và nhớ lâu hơn. Các em sẽ dễ dàng
nhận biết được các loại động cơ, các bộ phận, các cơ cấu, hệ thống và ứng dụng
của động cơ trong thực tế. Tìm hiểu cấu tạo của các chi tiết, các cơ cấu và hệ
thống của động cơ cụ thể, chính xác hơn. Đặc biệt khi nghiên cứu nguyên lí làm
việc của động cơ cấu như các cơ cấu, hệ thống thì cịn rõ ràng hơn cả khi quan
sát trong thực tế.
2. Một số kĩ thuật dạy học tích cực
Mỗi quan điểm dạy học có những phương pháp dạy học cụ thể phù hợp với nó;
mỗi phương pháp dạy học cụ thể có các kĩ thuật dạy học đặc thù. Tuy nhiên, có
những phương pháp dạy học cụ thể phù hợp với nhiều quan điểm dạy học, cũng như
có những kĩ thuật dạy học được sử dụng trong nhiều phương pháp dạy học khác
nhau.


14


2.1. Kĩ thuật chia nhóm
Khi tổ chức cho học sinh hoạt động theo nhóm, giáo viên nên sử dụng nhiều
cách chia nhóm khác nhau để gây hứng thú cho học sinh, đồng thời tạo cơ hội cho
các em được học hỏi, giao lưu với nhiều bạn khác nhau trong lớp. Mỗi nhóm nhỏ
thường từ 4 – 6 học sinh là phù hợp.
* Chia nhóm theo số điểm danh, theo các màu sắc, theo các loài hoa, các mùa trong
năm, theo tháng sinh, theo giới tính, theo sở thích, theo hình ghép,....
2.2. Kĩ thuật giao nhiệm vụ
- Giao nhiệm vụ phải cụ thể, rõ ràng:
+ Nhiệm vụ giao cho cá nhân, nhóm nào?
+ Nhiệm vụ là gì?
+ Địa điểm thực hiện nhiệm vụ ở đâu?
+ Thời gian thực hiện nhiệm vụ là bao nhiêu?
+ Phương tiện thực hiện nhiệm vụ là gì?
+ Sản phẩm cuối cùng cần có là gì?
+ Cách thức trình bày, đánh giá sản phẩm như thế nào?
- Nhiệm vụ phải phù hợp với: mục tiêu hoạt động, trình độ học sinh, thời gian,
khơng gian hoạt động và cơ sở vật chất, trang thiết bị.
2.3. Kĩ thuật đặt câu hỏi
Kĩ thuật đặt câu hỏi được dùng cho cả phương pháp đàm thoại và phương pháp
thảo luận. Trong dạy học theo phương pháp nhóm, giáo viên thường phải sử dụng câu
15


hỏi để gợi mở, dẫn dắt học sinh tìm hiểu, khám phá thông tin, kiến thức, kĩ năng mới,
để đánh giá kết quả học tập của học sinh; học sinh cũng phải sử dụng câu hỏi để hỏi
lại, hỏi thêm giáo viên và các học sinh khác về những nội dung bài học chưa sáng tỏ.

Sử dụng câu hỏi có hiệu quả đem lại sự hiểu biết lẫn nhau giữa học sinh - giáo
viên và học sinh - học sinh. Kĩ năng đặt câu hỏi càng tốt thì mức độ tham gia của học
sinh càng nhiều, học sinh sẽ học tập tích cực hơn.
Khi đặt câu hỏi cần đảm bảo các yêu cầu sau:
- Câu hỏi phải liên quan đến việc thực hiện mục tiêu bài học .
- Ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu.
- Đúng lúc, đúng chỗ.
- Phù hợp với trình độ học sinh
- Kích thích suy nghĩ của học sinh.
- Phù hợp với thời gian thực tế.
- Sắp xếp theo trình tự từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp.
- Không ghép nhiều câu hỏi thành một câu hỏi móc xích.
- Khơng hỏi nhiều vấn đề cùng một lúc.
2.4. Kĩ thuật động não
Một kĩ thuật hội ý bao gồm một nhóm người nhằm tìm ra lời giải cho
vấn đề đặc trưng bằng cách góp nhặt tất cả ý kiến của nhóm người đó nảy sinh
trong cùng một thời gian theo một nguyên tắc nhất định. Các ý kiến có thể rất
rộng và sâu cũng như khơng giới hạn bởi các khía cạnh nhỏ nhặt nhất của vấn
đề mà những người tham gia nghĩ tới.Trong động não thì vấn đề được đào bới
từ nhiều khía cạnh và nhiều cách nhìn khác nhau. Sau cùng các ý kiến sẽ được
phân nhóm và đánh giá.
2.5. Kĩ thuật thảo luận viết
Thảo luận viết là một biến thể của động não, tuy nhiên, trong thảo luận viết,
từng thành viên trình bày ý kiến của mình trên giấy trước khi gửi kết quả về cho thư
ký của nhóm. Mỗi thành viên có giấy và bút riêng để viết ra ý tưởng của mình.
Trong quá trình phát triển ý kiến, được phép tham khảo ý kiến của các bạn khác
cùng nhóm để phát triển ý tưởng.
2.6. Kỹ thuật động não không công khai
Động não khơng cơng khai là một hình thức biến đổi của thảo luận viết, mỗi
thành viên của nhóm cũng viết ra ý nghĩ của mình để giải quyết vấn đề, tuy nhiên

không công khai và không tham khảo người khác, sau đó nhóm mới tiến hành thảo
luận chung. Trong quá trình động não cá nhân khơng được tham khảo ý kiến của các
thành viên khác trong nhóm.
2.7. Kĩ thuật khăn trải bàn
- Học sinh được chia thành các nhóm nhỏ từ 4 đến 6 người. Mỗi nhóm sẽ có một
tờ giấy A0 đặt trên bàn, như là một chiếc khăn trải bàn.
- Chia giấy A0 thành phần chính giữa và phần xung quanh, tiếp tục chia phần xung
quanh thành 4 hoặc 6 phần tuỳ theo số thành viên của nhóm (4 hoặc 6 người).
- Mỗi thành viên sẽ suy nghĩ và viết các ý tưởng của mình (về một vấn đề nào đó mà
GV yêu cầu) vào phần cạnh “khăn trải bàn” trước mặt mình. Sau đó thảo luận nhóm, tìm
ra những ý tưởng chung và viết vào phần chính giữa “khăn trải bàn”
2.8. Kĩ thuật phòng tranh
16


Kĩ thuật này có thể sử dụng cho hoạt động cá nhân hoặc hoạt động nhóm.
- GV nêu câu hỏi vấn đề cho cả lớp hoặc cho các nhóm.
- Mỗi thành viên (hoạt động cá nhân) hoặc các nhóm (hoạt động nhóm) phác
hoạ những ý tưởng về cách giải quyết vấn đề trên một tờ bìa và treo lên tường xung
quanh lớp học như một triển lãm tranh.
- Học sinh cả lớp đi xem “triển lãm’’và có thể có ý kiến bình luận hoặc bổ
sung.
- Cuối cùng, tất cả các phương án giải quyết được tập hợp lại và tìm phương
án tối ưu.
2.9. Kĩ thuật các mảnh ghép
Là kĩ thuật tổ chức hoạt động học tập hợp tác kết hợp giữa cá nhân, nhóm và
liên kết giữa các nhóm nhằm giải quyết một nhiệm vụ phức hợp, kích thích sự tham
gia tích cực của học sinh, nâng cao vai trị của cá nhân trong quá trình hợp tác. Kĩ
thuật này được tổ chức thành hai vịng. Mỗi nhóm ở Vịng 2 góp mặt các thành viên
trong các nhóm ở Vịng 1. Các cá nhân khơng chỉ hồn thành nhiệm vụ ở Vòng 1 mà

còn phải truyền đạt kết quả và hồn thành nhiệm vụ ở Vịng 2.
Để thực hiện kĩ thuật này có hiệu quả thì phải đảm bảo ở bước thảo luận đầu
tiên, mọi thành viên đều có khả năng trình bày kết quả thảo luận của nhóm trước khi
tiến hành tách nhóm. Các chủ đề thảo luận ở hai vịng cần được chọn lọc kỹ lưỡng,
có tính độc lập với nhau.
2.10. Kĩ thuật "Bể cá"
Kỹ thuật bể cá là một kỹ thuật dùng cho thảo luận nhóm, trong đó một nhóm
thành viên ngồi giữa phịng và thảo luận với nhau, còn những thành viên khác ngồi
xung quanh ở vịng ngồi theo dõi cuộc thảo luận đó và sau khi kết thúc cuộc thảo
luận thì đưa ra những nhận xét về cách ứng xử của những thành viên đang thảo luận.
Trong nhóm thảo luận có thể có một vị trí khơng có người ngồi. Các thành viên tham
gia nhóm quan sát có thể thay nhau ngồi vào chỗ đó và đóng góp ý kiến vào cuộc
thảo luận, ví dụ ra một câu hỏi đối với nhóm thảo luận hoặc phát biểu ý kiến khi cuộc
thảo luận bị chững lại trong nhóm. Cách luyện tập này được gọi là phương pháp thảo
luận “bể cá”, vì những người ngồi vịng ngồi có thể quan sát những người thảo luận,
tương tự như xem những con cá trong một bể cá cảnh. Trong quá trình thảo luận,
những người quan sát và những người thảo luận sẽ thay đổi vai trò với nhau.
Bảng câu hỏi cho những người quan sát:
- Người nói có nhìn vào những người đang nói với mình khơng?
- Họ có nói một cách dễ hiểu khơng?
- Họ có để những người khác nói hay khơng?
- Họ có đưa ra được những luận điểm đáng thuyết phục hay khơng?
- Họ có đề cập đến luận điểm của người nói trước mình khơng?
- Họ có lệch hướng khỏi đề tài hay khơng?
- Họ có tơn trọng những quan điểm khác hay khơng?
2.11. Kĩ thuật Bản đồ tư duy (Sơ đồ tư duy)
Sơ đồ tư duy là một hình thức ghi chép có thể sử dụng màu sắc và hình ảnh để
mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Nhờ sự kết nối giữa các nhánh, ý tưởng được liên
kết, do vậy bao quát được phạm vi sâu rộng.
- Viết tên chủ đề ý tưởng chính ở trung tâm.

17


- Từ chủ đề/ ý tưởng chính ở trung tâm, vẽ các nhánh chính, trên mỗi nhánh
chính viết một nội dung lớn của chủ đề hoặc các ý tưởng có liên quan xoay quanh ý
tưởng trung tâm nói trên.
- Từ mỗi nhánh chính vẽ tiếp các nhánh phụ để viết tiếp những nội dung thuộc
nhánh chính đó.
- Tiếp tục như vậy ở các tầng phụ tiếp theo.
Có nhiều cách tổ chức thông tin theo sơ đồ: Sơ đồ thứ bậc, sơ đồ mạng, sơ
đồ chuỗi vv. Giáo viên cần để học sinh tự lựa chọn sơ đồ mà các em thích và phù
hợp với từng nội dung bài học. Giáo viên cần đưa câu hỏi gợi ý để thành viên
nhóm lập sơ đồ. Khuyến khích sử dụng biểu tượng, ký hiệu, hình ảnh và văn bản
tóm tắt.
2.12. Kĩ thuật chia sẻ nhóm đơi
Kỹ thuật này giới thiệu hoạt động làm việc nhóm đơi, phát triển năng lực tư
duy của từng cá nhân trong giải quyết vấn đề.
Giáo viên giới thiệu vấn đề, đặt câu hỏi mở, dành thời gian để học sinh suy
nghĩ. Sau đó học sinh thành lập nhóm đơi và chia sẻ ý tưởng, thảo luận, phân loại.
Nhóm đơi này lại chia sẻ tiếp với nhóm đơi khác hoặc với cả lớp. Điều quan trọng
là người học chia sẻ được cả ý tưởng mà mình đã nhận được, thay vì chỉ chia sẻ ý
kiến cá nhân.
2.13. Kĩ thuật ”đọc hợp tác” (cịn gọi là đọc tích cực)
Kĩ thuật này nhằm giúp học sinh tăng cường khả năng tự học và giúp giáo viên
tiết kiệm thời gian đối với những bài học/phần đọc có nhiều nội dung nhưng khơng
q khó đối với học sinh.
Cách tiến hành như sau:
- Giáo viên nêu câu hỏi/yêu cầu định hướng học sinh đọc bài/phần đọc.
- Học sinh làm việc cá nhân:
+ Đoán trước khi đọc: Để làm việc này, học sinh cần đọc lướt qua bài đọc/phần

đọc để tìm ra những gợi ý từ hình ảnh, tựa đề, từ/cụm từ quan trọng.
+ Đọc và đoán nội dung: Học sinh đọc bài/phần đọc và biết liên tưởng tới
những gì mình đã biết và đốn nội dung khi đọc những từ hay khái niệm mà các em
phải tìm ra.
+ Tìm ý chính: học sinh tìm ra ý chính của bài/phần đọc qua việc tập trung vào
các ý quan trọng theo cách hiểu của mình.
+ Tóm tắt ý chính.
- Học sinh chia sẻ kết quả đọc của mình theo nhóm 2, hoặc 4 và giải thích cho
nhau thắc mắc (nếu có), thống nhất với nhau ý chính của bài/phần đọc.
- Học sinh nêu câu hỏi để giáo viên giải đáp (nếu có).
Một số câu hỏi giáo viên thường dùng để giúp học sinh tóm tắt ý chính:
- Em có chú ý gì khi đọc ............ ?
- Em nghĩ gì về................... ?
- Em so sánh A và B như thế nào?
- A và B giống và khác nhau như thế nào?
2.14. Kĩ thuật “ Trình bày một phút”
Đây là kĩ thuật tạo cơ hội cho học sinh tổng kết lại kiến thức đã học và đặt
những câu hỏi về những điều còn băn khoăn, thắc mắc bằng các bài trình bày ngắn
18


gọn và cô đọng với các bạn cùng lớp. Các câu hỏi cũng như các câu trả lời học sinh
đưa ra sẽ giúp củng cố quá trình học tập của các em và cho giáo viên thấy được các
em đã hiểu vấn đề như thế nào.
- Cuối tiết học (thậm chí giữa tiết học), giáo viên yêu cầu học sinh suy nghĩ, trả
lời các câu hỏi ngắn liên quan đến bài học.
- Học sinh suy nghĩ và viết ra giấy. Các câu hỏi của học sinh có thể dưới nhiều
hình thức khác nhau.
- Mỗi học sinh trình bày trước lớp trong thời gian 1 phút về những điều các em
đã học được và những câu hỏi các em muốn được giải đáp hay những vấn đề các em

muốn được tiếp tục tìm hiểu thêm.
3. Tăng cường sử dụng phương tiện dạy học và công nghệ thông tin hợp lý hỗ
trợ dạy học
Phương tiện dạy học có vai trị quan trọng trong việc đổi mới phương pháp
dạy học, nhằm tăng cường tính trực quan và thí nghiệm, thực hành trong dạy học.
Việc sử dụng các phương tiện dạy học cần phù hợp với mối quan hệ giữa phương
tiện dạy học và phương pháp dạy học. Hiện nay, việc trang bị các phương tiện dạy
học mới cho các trường phổ thông từng bước được tăng cường. Tuy nhiên các
phương tiện dạy học tự làm của giáo viên ln có ý nghĩa quan trọng, cần được
phát huy.
Đa phương tiện và công nghệ thông tin vừa là nội dung dạy học vừa là phương
tiện dạy học trong dạy học hiện đại. Đa phương tiện và cơng nghệ thơng tin có nhiều
khả năng ứng dụng trong dạy học. Bên cạnh việc sử dụng đa phương tiện như một
phương tiện trình diễn, cần tăng cường sử dụng các phần mềm dạy học cũng như các
phương pháp dạy học sử dụng mạng điện tử (E-Learning). Phương tiện dạy học mới
cũng hỗ trợ việc tìm ra và sử dụng các phương pháp dạy học mới.
* Một số hình thức ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy - học
+ Giảng dạy bằng bài giảng điện tử
Giảng dạy bằng bài giảng điện tử theo cơng nghệ E-Learning có ưu điểm là tạo
hứng thú cho cả thầy và trò trong buổi học nhờ có sự truyền đạt và tiếp nhận bài
giảng thơng qua những hình thức phong phú, đa dạng như hình ảnh, âm thanh giúp
cho học sinh tiếp nhận bài giảng dễ hiểu hơn. Giáo viên không lo “cháy” giáo án vì
thời gian được kiểm sốt bằng máy, thời gian dành cho cơng việc viết bảng, vẽ hình,
treo tranh ảnh sẽ giảm xuống. Giáo viên được giảm nhẹ việc thuyết giảng, có điều
kiện trao đổi, thảo luận với học sinh về những vấn đề nảy sinh. Qua đó, học sinh
được kích thích khám phá tri thức qua thơng tin thu nhận được, có thể nêu câu hỏi
với giáo viên, giúp cho giờ học thêm sinh động. Giáo viên không phải soạn bài giảng
nhiều lần mà chỉ cần đầu tư cho lần soạn đầu tiên và cập nhật, chỉnh sửa cho bài
giảng tốt hơn vào những lần sau.
Tuy nhiên, việc dạy và học bằng bài giảng điện tử cũng có những hạn chế nhất

định. Muốn có một tiết dạy với bài giảng điện tử có hiệu quả, người thầy giáo phải
dành nhiều thời gian cho việc sưu tầm, chuẩn bị chu đáo về tài liệu, kiến thức để có
được những hình ảnh minh hoạ, âm thanh phục vụ cho bài giảng. Giáo viên phải biết
sử dụng thành thạo máy tính. Trên thực tế, việc dạy - học bằng bài giảng điện tử
không thể áp dụng với tất cả các nội dung của từng bài học, có những tiết dạy sẽ
khơng thể đạt hiệu quả tối đa nếu thiếu phương pháp dạy truyền thống, có những tiết
19


học sẽ không giúp học sinh hiểu và nhớ lâu nếu khơng được hỗ trợ bằng hình ảnh, âm
thanh, vì vậy giáo viên cần kết hợp nhuần nhuyễn giữa phương pháp giảng dạy bằng
bài giảng điện tử và cách dạy truyền thống để có thể phát huy tối đa hiệu quả của việc
dạy và học.
+ Tìm kiếm tài liệu, tra cứu thông tin trên mạng Internet
Ngày nay, giáo viên và học sinh phải có thói quen và khả năng tự học để bồi
dưỡng nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ, tích luỹ kiến thức. Tuy nhiên, người
dạy và người học thường gặp khó khăn trong việc tìm kiếm tài liệu, tra cứu thông tin
do các thư viện truyền thống chưa đáp ứng đủ nhu cầu học hỏi, tìm hiểu và nghiên
cứu của họ. Vì vậy, Internet và máy vi tính chính là một phương tiện giúp mỗi người
tự học tốt nhất. Giáo viên và học sinh có thể tìm kiếm, tra cứu tri thức về mọi lĩnh
vực.
+ Tham khảo sách điện tử, giáo trình điện tử
Đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng tăng cường hoạt động tự học, tự
nghiên cứu là vấn đề bức thiết đặt ra cho mỗi nhà giáo và học sinh. Để tăng cường
tính chất nghiên cứu, biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo của học sinh,
người dạy, với tư cách là người hướng dẫn quá trình cần phải chỉ ra cho học sinh cách
tìm kiếm, khai thác những nguồn học liệu mở trên mạng cơng nghệ thơng tin tồn
cầu. Có thể nói, với sách điện tử và giáo trình trên mạng Internet, mỗi giáo viên và
học sinh có thể tham nhiều tài liệu khác nhau ở bất cứ thời gian và không gian nào.
+ Sử dụng các thiết bị điện tử vào quá trình dạy học

Quá trình dạy - học cho sinh viên cần đẩy mạnh sử dụng các thiết bị nghe
nhìn để tăng hiệu quả tiếp thu, ghi nhớ bài giảng của sinh viên, giảm bớt việc ghi,
đọc, chép của giảng viên và học viên. Các nghiên cứu giáo dục cho thấy người học
chỉ nhớ được 10% những gì đã đọc, 20% những gì đã nghe, khoảng 50% những gì họ
nghe và thấy và khoảng 95% những gì họ được làm. Một số thiết bị thường dùng
trong nhà trường hiện nay là máy chiếu và máy tính nối mạng. Học sinh được học tập
thường xun trong mơi trường có các thiết bị điện tử sẽ luôn tăng hứng thú học tập,
phát huy khả năng tư duy sáng tạo. Phương pháp dạy và học có sự tham gia nhiều
hơn của học sinh bằng thảo luận nhóm, nêu ý kiến sẽ phát huy nhiều hơn tính chủ
động trong tiếp nhận kiến thức. Cùng một thời lượng như nhau, nhưng số lượng kiến
thức và kỹ năng học sinh thu nhận lại nhiều hơn, cụ thể, sinh động, sâu sắc hơn. Số
lượng bài tập thực hành của học sinh cũng được rèn luyện nhiều hơn. Từ đó, kỹ năng
tự học, tự nghiên cứu sẽ phát huy có hiệu quả cao hơn.
Trong phương pháp dạy học theo dự án thì học sinh khơng chỉ được đọc, được
nghe nhìn mà cịn được trực tiếp làm thành sản phẩm về một đơn vị kiến thức nào đó.
Do đó, học sinh sẽ hiểu bài nhanh hơn, thấu đáo hơn và rèn luyện được kĩ năng làm
việc với máy tính.
+ Gửi, nhận văn bản bằng thư điện tử
Thư điện tử hay email là một hệ thống chuyển nhận thư từ qua các mạng máy
tính. Một email có thể được gửi đi ở dạng mã hố hay dạng thơng thường và được
chuyển qua các mạng máy tính, đặc biệt là mạng Internet. Nó có thể chuyển mẫu
thơng tin (bằng chữ, hình ảnh, âm thanh, phim) từ một máy chủ tới một hay rất nhiều
máy nhận trong cùng một thời điểm. Điều này rất cần thiết trong việc trao đổi, liên
lạc giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh với học sinh và nó đặc biệt quan trọng
20


trong phương pháp dạy học dự án với kĩ thuật dạy học chia nhóm. Hiện nay, Bộ Giáo
dục và Đào tạo đã xây dựng hệ thống email có thể truy cập ở mọi nơi, mọi lúc, có thể
tải email về máy tính để bàn, laptop, máy tính bảng, thậm chí cả trên điện thoại.

Chúng ta có thể gửi email cho một nhóm đối tượng người sử dụng, như gửi email cho
một nhóm học sinh hoặc tồn thể học sinh của lớp. Với hệ thống email này, giáo viên
có thể cung cấp cho học sinh những tài liệu và hướng dẫn học sinh hoàn thành nhiệm
vụ học tập. Ngược lại, nếu học sinh có những khó khăn, thắc mắc cũng có thể chuyển
cho thầy, cơ giáo của mình để nhận được những hướng dẫn kịp thời. Mỗi khi học sinh
viết bài báo cáo thì có thể gửi qua email để giáo viên góp ý, sửa chữa trực tiếp trên
máy tính.
Nói tóm lại, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy - học cho học sinh
chính là một trong những hoạt động để đổi mới phương pháp dạy - học, đáp ứng yêu
cầu nâng cao chất lượng đào tạo trong thời kỳ hội nhập, tạo thuận lợi cho người học
có thể tích luỹ dần kiến thức theo khả năng và điều kiện của mình. Dưới tác động của
cơng nghệ thơng tin, q trình kỹ thuật hố hoạt động giảng dạy trong nhà trường đã
diễn ra và có những kết quả đáng chú ý.
V. HIỆU QUẢ KINH TẾ VÀ XÃ HỘI DỰ KIẾN ĐẠT ĐƯỢC
1. Hiệu quả về mặt kinh tế
Để đảm bảo cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học – thí nghiệm – thực hành, mơ
hình dạy học phần động cơ đốt trong thì kinh phí đâu tư có thế lên đến hàng trăm triệu
đồng, hoặc nếu tổ chức các buổi triển lãm, thăm quan, ngoại khóa cho học sinh để học
sinh có thể quan sát tìm hiểu về động cơ đốt trong ước tính kinh phí cũng vài chục triệu
đồng (Ví dụ: Trong năm học 2016-2017 trường THPT Yên Khánh B tổ chức cho 50 học
sinh đi tham quan nhà máy nhiệt điện tỉnh Ninh Bình, mặc dù đã được nhà máy hỗ trợ
kinh phí đi lại tham quan những cũng phải chi phí khoảng 30 triệu đồng. Trường THPT
Nho Quan C tổ chức cho học sinh đi học tập trải nghiệm, Trường THPT chuyên Lương
Văn Tụy tổ chức cho học sinh đi học tập trải nghiệm “Về nguồn” chi phí lên đến hàng
100 triệu đồng). Nhưng nếu ta áp dụng phương pháp dạy học theo dự án có ứng dụng
cơng nghệ thơng tin thì chi phí cho buổi học là rất nhỏ, bởi vì các em có thể tự mình liên
hệ, giao tiếp với các kỹ sư, công nhân, thợ sửa chữa, người lao động … hoặc lên mạng
tìm kiếm những mơ hình thí nghiệm ảo hoặc những hình ảnh động minh họa về cấu tạo,
nguyên lý hoạt động và cả những ứng dụng của động cơ đốt trong. Khi đó nhà trường
chỉ cần sắp xếp các phịng học ứng dụng cơng nghệ thơng tin có máy chiếu và máy tính

nối mạng là đủ. Hơn nữa các phòng học này còn được sử dụng cho nhiều tiết học, ở
nhiều môn học, trong nhiều năm học. Cùng với sự phát triển về khoa học kĩ thuật thì
chất lượng cuộc sống ngày càng nâng cao, học sinh cũng có điều kiện thuận lợi để
nghiên cứu bài học theo phương pháp mới đạt hiệu quả cao.
2. Hiệu quả về mặt xã hội
Sau quá trình thực nghiệm giải pháp mới để dạy phần Động cơ đốt trong –
Công nghệ 11, tôi thấy hầu hết học sinh được cuốn hút vào các hoạt động học tập do
giáo viên tổ chức và chỉ đạo. Thơng qua đó, tự lực khám phá những điều mình chưa
biết. Từ đó, học sinh vừa nắm được kiến thức, kĩ năng mới, vừa nắm được phương
pháp tìm ra kiến thức, kĩ năng đó, khơng rập theo khn mẫu có sẵn, được bộc lộ và
phát huy tiềm năng sáng tạo. Chúng ta sẽ đào tạo ra nguồn nhân lực có năng lực cao
đáp ứng các yêu cầu khắt khe của thị trường lao động đầy cạnh tranh trong một xã
21


hội công nghiệp, hiện đại. Khi các em nắm được phương pháp và kĩ năng sẽ chủ
động, sáng tạo tìm hiểu các tri thức mới, cần thiết, trên phạm vi rộng (kể cả ngồi
sách giáo khoa) phục vụ mục đích học tập của mình mà khơng phải phụ thuộc q
nhiều vào thầy cơ. Như vậy thì tình trạng dạy thêm, học thêm tràn lan như hiện nay
sẽ hạn chế được rất nhiều. Vì có cầu thì mới có cung, một khi học sinh khơng cịn
nhu cầu học thêm nữa thì các cấp lãnh đạo ngành giáo dục sẽ không phải đau đầu tìm
các biện pháp giảm tình trạng dạy thêm nữa. Đây là vấn đề nóng bỏng khơng chỉ thu
hút sự quan tâm của giáo viên, học sinh, phụ huynh, của ngành giáo dục, của các cấp
chính quyền mà cịn của tồn xã hội.
Thơng qua phương pháp dạy học tích cực nói chung, đặc biệt là dạy học dự án sẽ
tạo lập cho các em các kĩ năng sống rất cần thiết như kĩ năng giao tiếp, kĩ năng hòa nhập
với cộng đồng, kĩ năng lập kế hoạch, kĩ năng sử dụng cơng nghệ thơng tin, kĩ năng tìm
kiếm, tổng hợp, phân tích thơng tin, kĩ năng làm việc nhóm… và quan trọng hơn là tạo
ra cơ hội cho các em tự mình trải nghiệm khám phá, chia sẻ kinh nghiệm và tự học hỏi,
phát huy khả năng sáng tạo, gắn liền khoa học với thực tiễn. Giúp các em tự tin khẳng

định bản thân, biết trân trọng thành quả lao động, biết yêu thương chia sẻ và góp phần
định hướng nghề nghiệp của các em sau này.
Từ lâu, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học đã được thực hiện ở rất
nhiều nước phát triển trên thế giới. Hiện nay ở Việt Nam, tuy khoảng thời gian ứng
dụng công nghệ trong giảng dạy tại các trường học cịn ngắn, nhưng những lợi ích
của điều đó đã được thể hiện rõ nét. Chất lượng giáo viên được nâng cao, các phương
pháp giảng dạy được thay đổi theo chiều hướng tích cực. Chúng ta có thể hy vọng
vào một ngày không xa, nền giáo dục Việt Nam sẽ theo kịp được sự phát triển của
các nước có nền giáo dục hàng đầu trên thế giới.
 Rõ ràng, những cải tiến như trên sẽ khơng chỉ mang lại lợi ích cho người học và
người dạy mà cịn có ý nghĩa rất trọng với sự phát triển của cả xã hội và đất nước.
VI. ĐIỀU KIỆN VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
1. Điều kiện áp dụng
1.1 Giáo viên
Giáo viên phải được đào tạo chu đáo để thích ứng với những thay đổi về chức
năng, nhiệm vụ rất đa dạng và phức tạp của mình, nhiệt tình với cơng cuộc đổi mới
giáo dục. Giáo viên vừa phải có kiến thức chun mơn sâu rộng, có trình độ sư phạm
lành nghề, biết ứng xử tinh tế, biết sử dụng các công nghệ thông tin vào dạy học, biết
định hướng phát triển của học sinh theo mục tiêu giáo dục nhưng cũng đảm bảo được
sự chủ động của học sinh trong hoạt động nhận thức.
Trước yêu cầu đó, đội ngũ giáo viên hiện nay phải tự trang bị cho mình những
kiến thức và kĩ năng cần thiết, thường xuyên được bồi dưỡng chuyên môn thông qua
các lớp tập huấn, thường xuyên tự nghiên cứu và áp dụng công nghệ thông tin vào
dạy học .
1.2 Học sinh
Dưới sự chỉ đạo của giáo viên, học sinh phải dần dần có được những phẩm
chất và năng lực thích ứng với phương pháp dạy học tích cực như: giác ngộ mục đích
học tập, tự giác trong học tập, có ý thức trách nhiệm về kết quả học tập của mình và
kết quả chung của lớp, biết tự học và tranh thủ học ở mọi nơi, mọi lúc, bằng mọi
cách, phát triển các loại hình tư duy biện chứng, lơgíc, hình tượng, tư duy kĩ thuật, tư

22


duy kinh tế…Ngày nay, học sinh sống độc lập, tự chủ, có trách nhiệm hơn, biết
khẳng định vai trị của bản thân, biết chia sẻ và hợp tác, biết tự vươn lên trong học
tập cũng như trong cuộc sống.
1.3. Chương trình và sách giáo khoa
Phải giảm bớt khối lượng kiến thức nhồi nhét, tạo điều kiện cho thầy trò tổ
chức những hoạt động học tập tích cực; giảm bớt những thông tin buộc học sinh phải
thừa nhận và ghi nhớ máy móc, tăng cường các bài tốn nhận thức để học sinh tập
giải; giảm bớt những câu hỏi tái hiện, tăng cường loại câu hỏi phát triển trí thơng
minh; giảm bớt những kết luận áp đặt, tăng cường những gợi ý để học sinh tự nghiên
cứu phát triển bài học. Do đó theo chương trình sách giáo khoa hiện hành thì trong
các tiết dạy giáo viên khơng nhất thiết phải dạy hết nội dung của bài mà có thể giao
cho học sinh về nhà tìm hiểu những nội dung cịn lại theo sự hướng dẫn của giáo
viên.
1.4. Thiết bị dạy học
Thiết bị dạy học là điều kiện không thể thiếu được cho việc triển khai chương
trình, sách giáo khoa nói chung và đặc biệt cho việc triển khai đổi mới phương pháp
dạy học hướng vào hoạt động tích cực, chủ động của học sinh. Đáp ứng yêu cầu này
phương tiện thiết bị dạy học phải tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh thực hiện các
hoạt động độc lập hoặc các hoạt động nhóm.
Cơ sở vật chất của nhà trường cũng cần hỗ trợ đắc lực cho việc tổ chức dạy
học được thay đổi dễ dàng, linh hoạt, phù hợp với dạy học cá thể, dạy học hợp tác.
Chú ý lựa chọn danh mục thiết bị và chuẩn bị các thiết bị dạy học theo một số yêu
cầu để có thể phát huy vai trò của thiết bị dạy học. Chú trọng thiết bị thực hành giúp
học sinh tự tiến hành các bài thực hành thí nghiệm. Những thiết bị đơn giản có thể
được giáo viên, học sinh tự làm góp phần làm phong phú thêm thiết bị dạy học của
nhà trường.
Trong điều kiện các thiết bị dạy học không có đầy đủ hoặc khơng tự làm được

thì vai trị của công nghệ thông tin được phát huy mạnh mẽ. Thông qua các ứng dụng
của công nghệ thông tin giáo viên và học sinh tìm kiếm tài liệu học tập, cập nhật các
hình ảnh, video phong phú, đa dạng. Giáo viên có thể dễ dàng chuyển thể các hình
ảnh phức tạp thành hình vẽ đơn giản để thuận lợi cho việc nghiên cứu cấu tạo và
nguyên lí làm việc khi dạy phần động cơ đốt trong. Học sinh cũng có thể sử dụng
cơng nghệ thơng tin để tìm kiếm, xử lý thơng tin, viết báo cáo và thuyết trình các sản
phẩm được giao một cách rõ ràng, khoa học và đầy đủ hơn.
1.5. Đổi mới đánh giá kết quả học tập của học sinh.
Đánh giá là một khâu quan trọng khơng thể thiếu được trong q trình giáo
dục. Đánh giá thường nằm ở giai đoạn cuối cùng của một giai đoạn giáo dục và sẽ trở
thành khởi điểm của một giai đoạn giáo dục tiếp theo với yêu cầu cao hơn, chất
lượng mới hơn trong cả một quá trình giáo dục.
Đánh giá kết quả học tập là qúa trình thu thập và xử lý thơng tin về trình độ,
khả năng thực hiện mục tiêu học tập của học sinh, về tác động và ngun nhân của
tình hình đó nhằm tạo cơ sở cho những quyết định sư phạm của giáo viên và nhà
trường cho bản thân học sinh để học sinh học tập ngày một tiến bộ hơn.
Đổi mới phương pháp dạy học được chú trọng để đáp ứng những yêu cầu mới
của mục tiêu nên việc kiểm tra, đánh giá phải chuyển biến mạnh theo hướng phát
23


triển trí thơng minh sáng tạo của học sinh, khuyến khích vận dụng linh hoạt các kiến
thức kĩ năng đã học vào những tình huống thực tế, làm bộc lộ những cảm xúc, thái độ
của học sinh trước những vấn đề nóng hổi của đời sống cá nhân, gia đình và cộng
đồng. Khi nào việc kiểm tra, đánh giá chưa thốt khỏi quỹ đạo học tập thụ động thì
chưa thể phát triển dạy và học tích cực.
Thống nhất với quan điểm đổi mới đánh giá như trên việc kiểm tra, đánh giá sẽ
hướng vào việc bám sát mục tiêu của từng bài, từng chương và mục tiêu giáo dục của
môn học ở từng lớp cấp. Các câu hỏi bài tập sẽ đo được mức độ thực hiện các mục
tiêu được xác định.

Hướng tới yêu cầu kiểm tra đánh giá công bằng, khách quan kết quả học tập
của học sinh, bộ cơng cụ đánh giá sẽ được bổ sung các hình thức đánh giá khác như
đưa thêm dạng câu hỏi, bài tập trắc nghiệm; chú ý hơn tới đánh giá cả quá trình lĩnh
hội tri thức của học sinh, quan tâm tới mức độ hoạt động tích cực, chủ động của học
sinh trong từng tiết học, kể cả ở tiết tiếp thu tri thức mới lẫn tiết thực hành, thí
nghiệm. Điều này địi hỏi giáo viên bộ mơn đầu tư nhiều công sức hơn cũng như phải
công tâm hơn.
Hệ thống câu hỏi kiểm tra đánh giá cũng cần thể hiện sự phân hóa, đảm bảo
70% câu hỏi bài tập đo được mức độ đạt trình độ chuẩn - mặt bằng về nội dung học
vấn dành cho mọi học sinh THPT và 30% còn lại phản ánh mức độ nâng cao, dành
cho học sinh có năng lực trí tuệ và thực hành cao hơn.
1.6. Trách nhiệm quản lí
Hiệu trưởng chịu trách nhiệm trực tiếp về việc đổi mới phương pháp dạy học ở
trường mình, đặt vấn đề này ở tầm quan trọng đúng mức trong sự phối hợp các hoạt
động toàn diện của nhà trường. Hiệu trưởng cần trân trọng, ủng hộ, khuyến khích mỗi
sáng kiến, cải tiến dù nhỏ của giáo viên, đồng thời cũng cần biết hướng dẫn, giúp đỡ
giáo viên vận dụng các phương pháp dạy học tích cực thích hợp với mơn học, đặc điểm
học sinh, điều kiện dạy và học ở địa phương, làm cho phong trào đổi mới phương pháp
dạy học ngày càng rộng rãi, thường xuyên và có hiệu quả hơn.
2. Khả năng áp dụng
Trên cơ sở phân tích các điều kiện áp dụng ở trên, ta thấy chúng ta hồn
tồn có khả năng áp dụng tốt các phương pháp dạy học tích cực ở cấp trung học
phổ thông. Không cần thiết và bắt buộc phải áp dụng tất cả các phương pháp vào
một bài dạy mà giáo viên phải biết lựa chọn phương pháp dạy học nào phù hợp
với từng nội dung kiến thức trong bài, với từng bài trong chương trình. Trong mỗi
phương pháp, mỗi nội dung lại cần chọn các kĩ thuật dạy học tích cực phù hợp để
việc tổ chức các hoạt động học đạt kết quả cao nhất. Trong các phương pháp dạy
học tích cực, dạy học theo dự án là phương pháp dạy nhằm bắt nhịp với xu thế
hiện đại trong giáo dục để nâng cao năng lực học tập, tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của học sinh. Trong DHDA có thể tích hợp nhiều phương pháp dạy học tích

cực khác như phương pháp hợp tác trong nhóm, phương pháp phát hiện và giải
quyết vấn đề, phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình, phương pháp tổ
chức trị chơi,...Hiểu được nguyên lý DHDA, giáo viên sẽ tạo thêm được hứng thú
và động lực học tập cho học sinh, từ đó làm cho hoạt động dạy học vừa phong phú
vừa gắn bó với thực tiễn.
24


Tuy nhiên để nâng cao chất lượng giáo dục thì mỗi giáo viên phải biết kết hợp
đa dạng các phương pháp dạy học tích cực. Biết cải tiến các phương pháp dạy học
truyền thống. Biết sử dụng các kĩ thuật dạy học tích cực và sáng tạo. Phải tăng cường
sử dụng phương tiện dạy học và công nghệ thông tin hợp lí hỗ trợ dạy học. Phải chú
trọng phương pháp dạy học đặc thù bộ môn và bồi dưỡng phương pháp học tập tích
cực cho học sinh.
Khác với một số mơn khoa học tự nhiên khác, mơn Cơng nghệ nói chung và
phần Động cơ đốt trong – Công nghệ 11 nói riêng khi sử dụng cơng nghệ thơng tin
vào giảng dạy rất thuận lợi và có hiệu quả cao. Vì phần này có nội dung kiến thức
rộng; cấu tạo phức tạp, chi tiết; ngun lí làm việc trừu tượng, khó hiểu và có nhiều
ứng dụng thực tế. Do đó, khi dạy phần này cần phải chú trọng các phương pháp dạy
học đặc thù bộ môn là ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học dự án. Tuy nhiên,
việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học là một cơng việc lâu dài, khó khăn,
địi hỏi nhiều điều kiện về cơ sở vật chất, tài chính, năng lực của đội ngũ giảng viên.
Và hiện nay, hầu như tất cả giáo viên và các trường trung học phổ thông đều đáp ứng
được yêu cầu này.
Trên đây là nội dung cơ bản của sáng kiến: “ Ứng dụng công nghệ thông tin trong
dạy học dự án phần Động cơ đốt trong”. Những vấn đề cụ thể của quá trình triển khai các
giải pháp mới chúng tơi trình bày ở phị lục kèm theo. Nhóm tác giả mong nhận được sự
đóng góp ý kiến của các bạn đồng nghiệp, các nhà khoa học và quản lý giáo dục./.
Xin trân trọng cảm ơn!
XÁC NHẬN


TÁC GIẢ

CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Phạm Thị Thu Hường

25


×