Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Quản lý tài sản công tại bệnh viện hữu nghị việt đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG THU THỦY

QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG
TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ VIỆT ĐỨC
Ngành: Quản lý Kinh tế
Mã số: 8 34 04 10

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN THỊ HOÀI LÊ

HÀ NỘI, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là do tự bản thân thực hiện có sự hỗ trợ từ giáo
viên hướng dẫn và không sao chép các công trình nghiên cứu của người khác. Các
dữ liệu thông tin thứ cấp sử dụng trong nghiên cứu này là có nguồn gốc và trích dẫn
rõ ràng.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này!

Tác giả

Hoàng Thu Thủy


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG TẠI CÁC
BỆNH VIỆN .......................................................................................................... 7
1.1 Cơ sở lý luận về quản lý tài sản công ...................................................................7
1.2 Quản lý tài sản công tại bệnh viện ......................................................................17
1.3 Nghiên cứu một số bài học kinh nghiệm để quản lý tốt tài sản công tại một số
bệnh viện, cơ sở y tế và bài học rút ra .......................................................................27
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG TẠI BỆNH VIỆN
HỮU NGHỊ VIỆT ĐỨC ..................................................................................... 30
2.1. Tổng quan về Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức....................................................30
2.2. Thực trạng quản lý và sử dụng tài sản công tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức .......36
2.3. Đánh giá công tác quản lý tài sản công tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức .......58
CHƯƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM TĂNG CƯỜNG
QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ VIỆT ĐỨC ...... 63
3.1 Định hướng phát triển và định hướng quản lý tài sản công tại Bệnh viện Việt
Đức thời gian tới .......................................................................................................63
3.2. Giải pháp nhằm tăng cường quản lý tài sản công một số giải pháp chủ yếu
nhằm tăng cường quản lý tài sản công tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức ...............65
3.3 Một số kiến nghị..................................................................................................72
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 76


DANH MỤC VIẾT TẮT

Viết tắt

Nghĩa đầy đủ

BHYT


Bảo hiểm y tế

BV

Bệnh viện

ĐVSNCL

Đơn vị sự nghiệp công lập

KCB

Khám chữa bệnh

KTV

Kỹ thuật viên

NH

Ngân hàng

NSNN

Ngân sách nhà nước

NVYT

Nhân viên y tế


SCL

Sửa chữa lớn

TSCĐ

Tài sản cố định

TSNN

Tài sản nhà nước

TTB

Trang thiết bị

TTBYT

Trang thiết bị y tế

VT- TBYT

Vật tư – Thiết bị y tế


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Tình hình thực hiện các chỉ tiêu chuyên môn của Bệnh viện Việt Đức
giai đoạn 2013 - 2017 ........................................................................................... 34
Bảng 2.2: Cơ cấu tài sản cố định hữu hình của Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức giai

đoạn 2013 – 2017 .................................................................................................. 39
Bảng 2.3. Danh mục trang thiết bị liên kết ............................................................ 48
Bảng 2.4: Công suất sử dụng trang thiết bị Y tế tại Bệnh viện Việt Đức .............. 51
Bảng 2.5: Mức độ đáp ứng nhu cầu về trang thiết bị y tế tại các khoa, đơn vị ...... 52
Bảng 2.6: Số lượng trang thiết bị hư hỏng cần sửa chữa ....................................... 55
Bảng 2.7: Số lượng trang thiết bị thanh lý ............................................................ 58


DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức của Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức ............................. 33
Sơ đồ 2.2: Quy trình mua sắm tài sản công tại Bệnh viện Việt Đức ..................... 42
Biểu đồ 2.1: Tổng thu của Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức giai đoạn .................... 36
2013 – 2017 .......................................................................................................... 36
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu tài sản công của Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức thời điểm
31/12/2017 ............................................................................................................ 37
Biểu đồ 2.3: Số đơn vị tham gia dự thầu bình quân/gói thầu mua sắm tài sản công
.............................................................................................................................. 43
Biểu đồ 2.4: Tình hình vốn NSNN đầu tư cho tài sản công của Bệnh viện Việt Đức
giai đoạn 2013 – 2017 ........................................................................................... 45
Biểu đồ 2.5: Tình hình vốn phát triển sự nghiệp của Bệnh viện đầu tư cho tài sản
công của Bệnh viện Việt Đức giai đoạn 2013 – 2017 ........................................... 46
Biểu đồ 2.6: Cơ cấu nguồn vốn đầu tư cho tài sản công của Bệnh viện Việt Đức
giai đoạn 2013 – 2017 ........................................................................................... 47
Biểu đồ 2.7: Tỷ lệ hao mòn TSCĐ của Bệnh viện Việt Đức ................................. 57


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Về lý luận: Tài sản trong các bệnh viện công lập thường có giá trị lớn, quy
mô nhiều nên quản lý rất phức tạp. Trong quá trình hoạt động, bệnh viện dựa vào

thiết bị, dụng cụ và các tài sản khác để cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe chất
lượng cho bệnh nhân. Điều đó bao gồm không chỉ là thiết bị y tế được sử dụng
trong chăm sóc trực tiếp, mà còn là máy tính và các tài sản khác mà các bệnh viện
dựa vào để quản lý hồ sơ bệnh nhân, thanh toán y tế và các quá trình khác diễn ra
trong hoạt động. Tài sản, trang thiết bị y tế của các bệnh viện là một trong những
yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả, chất lượng của công tác y tế, hỗ trợ tích cực
cho người thầy thuốc trong công tác phòng bệnh và chữa bệnh. Do đó, các tài sản
luôn được bệnh viện chú trọng đầu tư.
Tuy nhiên, quản lý tài sản hiệu quả là yêu cầu đặt ra cho các bệnh viện để
đảm bảo cung cấp dịch vụ hiệu quả và giảm thiết bị bị mất và bị đánh cắp. Bởi lẽ,
quản lý tài sản tốt sẽ nâng cao chất lượng KCB, giảm được kinh phí đầu tư, nâng
cao tuổi thọ của thiết bị, hỗ trợ công tác chuyên môn, cho cán bộ y tế.
Đặc biệt, tài sản công tại các bệnh viện có nhiều đặc thù khác biệt so với tài
sản công tại các đơn vị khác. Không chỉ khác bởi đây là những tài sản gắn liền với
hoạt động khám chữa bệnh mà các khác bởi cơ chế quản lý các tài sản này. Điển
hình là nguồn hình thành tài sản công tại các bệnh viện không chỉ gồm nguồn
NSNN cấp trực tiếp mà còn hình thành từ các nguồn khác có nguồn gốc từ NSNN.
Trong quá trình quản lý, sử dụng, các bệnh viện được thu một phần viện phí để bù
đắp chi phí hình thành nên các tài sản này. Chính vì vậy, công tác quản lý tài sản
công tại các bệnh viện cũng có nhiều đặc trưng nhất định.
Về thực tiễn: Có thể thấy, công tác quản lý tài sản của các bệnh viện công
lập hiện nay còn rất nhiều hạn chế. Trước đó, Kiểm toán chuyên đề công tác đầu tư,
mua sắm, quản lý và sử dụng trang thiết bị y tế năm 2015, Kiểm toán Nhà nước đã
phát hiện ra những sự lãng phí rất lớn trong việc mua sắm thiết bị khám chữa bệnh
như một số đơn vị có thiết bị chưa hết thời gian tính hao mòn nhưng đã bị hỏng,

1


không sử dụng được. Thậm chí nhiều Bệnh viện có nhiều thiết bị được đầu tư mới

nhưng chưa đưa vào sử dụng hoặc mới đưa vào sử dụng đã hỏng gây lãng phí lớn.
Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức là bệnh viện tuyến đầu của Trung ương nên
có quy mô lớn, trang thiết bị y tế tiên tiến và hiện đại do được Nhà nước chú trọng
đầu tư. Tuy nhiên, do quy mô lớn nên công tác quản lý tài sản công của Bệnh viện
tương đối phức tạp và khó khăn. Các năm qua, công tác quản lý tài sản của Viện đã
gặp phải không ít tồn tại, hạn chế. Trong năm 2017, Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức
là 1 trong 12 bệnh viện công lập bị Bộ Y tế yêu cầu phải rà soát, kiểm tra, đánh giá
thực trạng việc tổ chức quản lý, đấu thầu mua sắm và khai thác sử dụng trang thiết
bị y tế (thiết bị và hóa chất, vật tư tiêu hao y tế) tại đơn vị mình. Đồng thời, giải
trình và làm rõ trách nhiệm của các cá nhân, tập thể có liên quan, kịp thời chấn
chỉnh, xử lý sai phạm nếu có. Đặc biệt, hiện nay tài sản công gắn liền với quyền sử
dụng đất của Bệnh viện ở cơ sở 1 đang khai thác hết công suất, không đáp ứng dủ
nhu cấu sử dụng, trong khi dự án cơ sở 2 đã chậm tiến độ lên tới 3 năm.
Trước thực trạng hiện nay, Bệnh viện cần phải nhanh chóng tìm hiểu những
thuận lợi, khó khăn đồng thời đề xuất giải pháp tăng cường quản lý, nâng cao chất
lượng, hiệu quả đầu tư, sử dụng trang thiết bị y tế trong thời gian tới; và khẩn
trương chấn chỉnh, có phương án khắc phục các hạn chế trong công tác quản lý tài
sản công của mình.
Xuất phát từ các lý do trên, tôi đã chọn đề tài “Quản lý tài sản công tại
Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quản lý tài sản công trong các bệnh viện công lập là vấn đề có ý nghĩa quan
trọng đối với các bệnh viện nên đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu, điển
hình như:
Nguyễn Văn Điều (2015), Tăng cường quản lý tài sản công tại Bệnh viện Đa
khoa tỉnh Bắc Giang, luận văn thạc sỹ, Học viện Nông nghiệp Việt Nam. Luận văn
đã hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý tài sản công. Trên cơ sở đánh
giá thực trạng quản lý tài sản công tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bắc Giang, đề xuất
một số giải pháp nhằm tăng cường quản lý tài sản công tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh
Bắc Giang trong thời gian tới. Ngoài việc sử dụng dư liệu thứ cấp, luận văn còn

2


điều tra khảo sát Ban lãnh đạo, các trưởng phó các khoa, phòng, các cán bộ công
nhân viên liên quan đến quản lý Tài sản công, các bệnh nhân và người nhà bệnh
nhân được sử dụng Tài sản công của Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bắc Giang.
Hoàng Đình Sơn (2015), Nâng cao hiệu quả sử dụng trang thiết bị y tế tại
Bệnh viện Bãi Cháy tỉnh Quảng Ninh, Luận văn thạc sĩ Quản lý kinh tế, Trường Đại
học Thái Nguyên, Thái Nguyên. Trên cơ sở đánh giá thực trạng hiệu quả sử

dụng trang thiết bị y tế tại bệnh viện Bãi Cháy, luận văn đã đề xuất một số
giải pháp nâng cao hiệu qua sử dụng trang thiết bị y tế tại bệnh viện Bãi Cháy
trong thời gian tới. Tác giả kiến nghị định hướng tập trung đầu tư TTBYT để
phát triển một số chuyên khoa mũi nhọn trên cơ sở chức năng nhiệm vụ và
khả năng phát triển của bệnh viện để phát huy tối đa hiệu quả đầu tư, hiệu quả
sử dụng TTBYT, đáp ứng yêu cầu khám chữa bệnh ngày càng cao của nhân
dân trong tỉnh và các vùng phụ cận.
Trần Xuân Thắng (2016), Hoàn thiện công tác quản lý trang thiết bị y tế tại
Bệnh viện Đa khoa tỉnh ĐắkLắk, Luận văn thạc sĩ Quản trị kinh doanh, Trường Đại
học Quốc tế Hồng Bàng, Thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đánh giá thực trạng
quản lý trang thiết bị y tế tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh ĐắkLắk, luận văn cũng đã đề
xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý trang thiết bị y tế tại Bệnh
viện Đa khoa tỉnh ĐắkLắk trong thời gian tới.
Trương Thị Hồng Linh (2018), Hoàn thiện công tác quản lý trang thiết bị y tế
tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Trị, luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Kinh tế
Huế. Đề tài tập trung nghiên cứu các nội dung cơ bản và các vấn đề liên quan đến
quản lý TTBYT tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Trị. Đề tài cung cấp cho các nhà
quản lý Bệnh viện các nội dung về cơ sở lý luận quản lý TTBYT, phân tích đánh giá
đúng thực trạng về công tác quản lý TTBYT tại Bệnh viện trong thời gian qua. Trên
cơ sở đó đưa ra các kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân còn tồn đọng

trong công tác quản lý TTBYT trong thời gian qua, từ đó đề xuất các giải pháp
nhằm hoàn thiện công tác TTBYT trong thời gian tới. Nhằm phản ánh rõ thực trạng
công tác quản lý TTBYT tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Trị từ hoạt động đầu tư
đến hoạt động thanh lý tài sản trong toàn bệnh viện, đồng thời xây dựng các giải

3


pháp phù hợp trong quản lý TTBYT tại bệnh viện. Đề tài tiến hành điều tra khảo sát
trực tiếp cán bộ quản lý tại Bệnh viện về các vấn đề liên quan đến nội dung nghiên
cứu. Cụ thể là 3 đối tượng chính: điều dưỡng, bác sỹ, kỹ thuật viên (KTV), là những
người tham gia công tác quản lý trang thiết bị y tế trong cả bốn giai đoạn: đầu tư,
mua sắm; sử dụng; sửa chữa, bảo dưỡng và khấu hao, thanh lý tại bệnh viện.
Hội thiết bị Y tế Việt Nam (2017), Báo cáo Hội thảo thường niên “Nâng cao
năng lực quản lý trang thiết bị y tế, cập nhật thông tin khoa học- công nghệ, kỹ
thuật thiết bị y tế”, Đà Nẵng. Trong nghiên cứu đánh giá của Hội, các tác giả đã
đánh giá tình hình quản lý trang thiết bị y tế của ngành y tế hiện nay. Tuy nhiên, kết
quả nghiên cứu tập trung vào việc ứng dụng công nghệ thông tin, khoa học và công
nghệ trong quản lý thiết bị y tế.
Như vậy, mặc dù có một số đề tài nghiên cứu về quản lý tài sản công trong
các bệnh viện công lập nhưng nhìn chung chưa nhiều. Bên cạnh đó, các công trình
này chủ yếu nghiên cứu tại các bệnh viện tuyến huyện hoặc tỉnh nên quy mô nhỏ,
cơ chế quản lý tài chính có những khác biệt nhất định so với các bệnh viện tuyến
đầu. HIện tại, cũng chưa có một trong công trình nghiên cứu nào về quản lý tài sản
công tại Bệnh viện hữu nghị Việt Đức. Do vậy, công trình nghiên cứu của tác giả là
hoàn toàn cần thiết và không trùng lắp với các công trình khác đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản
về quản lý tài sản công trong các bệnh viện, đánh giá thực trạng quản lý tài sản công
tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức và đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường quản

lý tài sản công tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức.
Nhiệm vụ cụ thể:
- Nghiên cứu và tổng hợp một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về
quản lý tài sản công tại các bệnh viện.
- Đánh giá thực trạng tình hình quản lý, khai thác và sử dụng tài sản công tại
Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức.
- Phân tích ưu, nhược điểm, những khó khăn cũng như thuận lợi trong việc
quản lý tài sản công tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện, tăng cường quản lý tài sản công
4


tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
 Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
- Lý luận và thực tiễn về quản lý tài sản công tại Bệnh viện Hữu nghị Việt
Đức (bao gồm quản lý quá trình đầu tư mua sắm, khai thác, sử dụng và sửa chữa,
vận hành, bảo trì và khấu hao tài sản công).
 Phạm vi nghiên cứu:
-

Về thời gian: Nghiên cứu từ năm 2013-2017, định hướng đến năm 2022.

-

Về không gian: Luận văn nghiên cứu tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Thu thập dữ liệu thứ cấp: Về thu thập thông tin, Luận văn sử dụng các
thông tin thứ cấp từ các báo cáo tài chính, quy chế quản lý tài sản, quy chế chi tiêu

nội bộ và các báo cáo khác của Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, …Các thông tin trích
dẫn trong luận văn được ghi chú nguồn trích dẫn rõ ràng và được liệt kê trong danh
mục tài liệu tham khảo.
Dữ liệu thứ cấp bên trong của luận văn được thu thập tại bàn thông qua mạng
internet, thu thập từ các cơ sở dữ liệu của Thư viện trường Học viện khoa học Xã
hội và các trường đại học khác khối kinh tế, tại Thư viện Đại học quốc gia, trang
thông tin của các cơ quan Nhà nước,…, bao gồm: các sách chuyên khảo, bài báo,
bài nghiên cứu, các luận án, luận văn,… có liên quan tới đề tài, các báo cáo của các
cơ quan Nhà nước,…
Phương pháp thu thập tài liệu khi thực hiện giúp tác giả không chỉ thu thập
các tài liệu để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài mà còn đánh giá, phân tích thực
trạng quản lý tài sản công của Bệnh viện Việt Đức.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết, tài liệu
+ Phân tích nguồn tài liệu (tạp chí và báo cáo khoa học, tác phẩm khoa học,
tài liệu lưu trữ thông tin đại chúng, luận văn, luận án,…). Tác giả tiến hành phân
tích các nguồn tài liệu khác nhau và lựa chọn nguồn tài liệu có giá trị khoa học cao
để xây dựng cơ sở lý luận cho luận văn bao gồm các giáo trình của các trường đại
học khối kinh tế, sách chuyên khảo liên quan tới đề tài.

5


+ Phân tích nội dung (theo cấu trúc logic của nội dung): dựa trên đề cương
chi tiết đã được xây dựng, tác giả tiến hành nghiên cứu các nội dung cụ thể, lựa
chọn các nội dung phù hợp với đề tài nghiên cứu.
Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết giúp tác giả chọn lọc các lý
luận cần thiết để xây dựng cơ sở lý luận trong chương 1 của luận văn.
- Phương pháp so sánh
So sánh bằng số tuyệt đối: là kết quả của phép trừ giữa trị số của kỳ phân tích
so với kỳ gốc của các chỉ tiêu kinh tế, kết quả so sánh thể hiện khối lượng, quy mô

tăng (giảm) của các hiện tượng kinh tế.
So sánh bằng số tương đối: là kết quả của phép chia giữa trị số của kỳ phân
tích so với kỳ gốc của các chỉ tiêu kinh tế, kết quả so sánh thể hiện kết cấu, mối
quan hệ tỷ lệ, tốc độ phát triển, mức độ phổ biến của các hiện tượng kinh tế.
Phương pháp so sánh được sử dụng để phân tích các số liệu, dữ liệu liên quan
nhằm đánh giá được tình hình quản lý tài sản công của Bệnh viện trong chương 2.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận: hệ thống hóa những vấn đề lý luận về công tác quản lý tài
sản công tại các bệnh viện công lập.
- Ý nghĩa thực tiễn: Đánh giá thực trạng công tác quản lý tài sản công của
Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức.
Chỉ ra những hạn chế, tồn tại và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện công
tác quản lý tài sản công của Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức.
7. Kết cấu của luận văn
Đề tài ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo sẽ có 3
nội dung chính thông qua 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý tài sản công tại các bệnh viện;
Chương 2: Thực trạng quản lý tài sản công tại Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức;
Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lý tài sản công tại Bệnh viện Hữu Nghị
Việt Đức.

6


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG TẠI CÁC BỆNH VIỆN
1.1 Cơ sở lý luận về quản lý tài sản công
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm về tài sản công
1.1.1.1 Khái niệm
Ở Pháp, “Tài sản quốc gia được hiểu là toàn bộ tài sản và quyền hạn đối với

động sản và bất động sản thuộc về Nhà nước” (Điều 1 Bộ luật Tài sản nhà nước
năm 1998).
Ở Việt Nam, Điều 17 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Đất đai, rừng núi,
sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi vùng biển, thềm lục địa
và vùng trời, phần vốn do Nhà nước đầu tư vào xí nghiệp, công trình thuộc các
ngành, lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc
phòng, an ninh cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước đều
thuộc sở hữu toàn dân”.
Điều 200 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định tài sản thuộc hình thức sở hữu
Nhà nước như sau: "Tài sản thuộc hình thức sở hữu Nhà nước bao gồm đất đai,
rừng tự nhiên, rừng trồng có nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, núi, sông, hồ,
nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi từ nhiên ở vùng biển, thềm lục
địa và vùng trời, phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, công
trình thuộc các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại
giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác do pháp luật quy định".
Tiếp đó, tại các Điều 239, 240, 241, 246, 254 và 644 của Bộ luật Dân sự
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005, Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình
sự năm 2003, Điều 17 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002, Điều 35
Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 đã quy định cụ thể các tài sản khác thuộc
sở hữu nhà nước do pháp luật quy định bao gồm: Các tang vật, phương tiện vi phạm
hành chính, vật chứng trong vụ án hình sự bị tịch thu sung quỹ Nhà nước; vật bị
chôn dấu, chìm đắm được tìm thấy, vật vô chủ, vật không xác định được ai là chủ
sở hữu, vật do người khác đánh rơi, bỏ quên được xác lập quyền sở hữu của Nhà
nước theo quy định của pháp luật, di sản không người thừa kế hoặc có nhưng không
được quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, tài sản do tổ chức, cá nhân trong và
ngoài nước biếu tặng Chính phủ hoặc tổ chức Nhà nước...
7


Theo Điều 3, Luật Tài sản công ban hành năm 2017 thì “Tài sản công là tài sản

thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, bao
gồm: tài sản công phục vụ hoạt động quản lý, cung cấp dịch vụ công, bảo đảm quốc
phòng, an ninh tại cơ quan, tổ chức, đơn vị; tài sản kết cấu hạ tầng phục vụ lợi ích
quốc gia, lợi ích công cộng; tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân; tài sản công
tại doanh nghiệp; tiền thuộc ngân sách nhà nước, các quỹ tài chính nhà nước ngoài
ngân sách, dự trữ ngoại hối nhà nước; đất đai và các loại tài nguyên khác”.
Như vậy, tài sản công là những tài sản được hình thành từ nguồn ngân sách nhà
nước, tài sản được xác lập quyền sở hữu của Nhà nước theo quy định của pháp luật.
1.1.1.2 Đặc điểm tài sản công
Tài sản công rất phong phú về số lượng chủng loại, mỗi loại tài sản có đặc điểm,
tính chất, công dụng khác nhau song chúng đều có những đặc điểm chung sau:
Thứ nhất: Tài sản công được đầu tư xây dựng, mua sắm bằng kinh phí của
ngân sách nhà nước, có nguồn từ ngân sách nhà nước hoặc từ các nguồn vốn đầu tư
khác (trừ một số tài sản đặc biệt như: đất đai, tài sản được xác lập sở hữu Nhà nước
được chuyển giao).
Bên cạnh đó là những tài sản được hình thành từ nguồn viện trợ không hoàn
lại, tài sản do dân đóng góp xây dựng và tài sản được xác lập quyền sở hữu Nhà
nước. Đối với tài sản này, ngân sách nhà nước không trực tiếp đầu tư xây dựng và
mua sắm mà chỉ giao tài sản cho các cơ quan sử dụng. Nhưng các tài sản này trước
khi giao cho các bệnh viện sử dụng, đều phải xác lập quyền sở hữu Nhà nước. Khi
các tài sản này được xác lập quyền sở hữu Nhà nước, thì giá trị của các tài sản đều
được ghi thu cho ngân sách nhà nước. Như vậy, suy cho cùng các tài sản được xác
lập quyền sở hữu Nhà nước, tài sản viện trợ không hoàn lại, tài sản do dân đóng góp
giao cho các cơ quan hành chính sử dụng vẫn có nguồn gốc hình thành từ ngân sách
Nhà nước.
Thứ hai: Sự hình thành và sử dụng tài sản công phải phù hợp với chức năng,
nhiệm vụ của từng cơ quan. Đối với cơ quan quản lý nhà nước, tài sản công chỉ
đơn thuần là điều kiện vật chất, là phương tiện để cơ quan nhà nước thực hiện
chức năng quản lý kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng. Tài sản công của các cơ
quan này lớn nhất là trụ sở làm việc (công trường), các phương tiện giao thông vận

tải phục vụ đi lại công tác, các trang thiết bị, máy móc và phương tiện làm việc. Số
lượng tài sản công cần phải có tuỳ thuộc vào cơ cấu tổ chức bộ máy và biên chế cán
8


bộ, công chức, viên chức của mỗi cơ quan, đơn vị.
Thứ ba: Vốn đầu tư xây dựng và mua sắm tài sản công không thu hồi được
trong quá trình sử dụng tài sản công. Thực tế các nước trên thế giới cho thấy khoảng
80% chi NSNN là chi chuyển giao và có rất ít khoản chi là chi thanh toán, được
hoàn trả trực tiếp. Khác với doanh nghiệp kinh doanh, tài sản công trong cơ quan
chủ yếu là những tài sản trong lĩnh vực tiêu dùng của cải vật chất, không thuộc lĩnh
vực sản xuất kinh doanh; trong quá trình sử dụng không tạo ra sản phẩm, hàng hoá,
dịch vụ để đưa ra thị trường; do đó, không chuyển giá trị bị hao mòn vào giá thành
của sản phẩm hoặc chi phí lưu thông. Vì thế, trong quá trình sử dụng, tuy tài sản bị
hao mòn nhưng không trích khấu hao được (đối với tài sản cố định), vì giá trị của
nó không được chuyển dần sang giá trị của sản phẩm vật chất, dịch vụ để hình thành
bộ phận giá trị mới cần phải thu hồi. Do không thực hiện trích khấu hao tài sản cố
định, nên nguồn vốn đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản không thu hồi được trong
quá trình sử dụng và không có nghĩa vụ tài chính với ngân sách nhà nước trong việc
sử dụng. Mức độ hao mòn của tài sản công trong quá trình sử dụng nhanh hay chậm
không ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của cơ quan nhà nước được thụ hưởng, Nhà
nước không sử dụng đòn bẩy trích khấu hao tài sản cố định để thúc đẩy các cơ quan
bảo vệ tài sản công như đối với các tổ chức kinh tế sử dụng tài sản vào sản xuất
kinh doanh. Nhà nước chỉ có thể buộc các cơ quan này quản lý và sử dụng tài sản
công tiết kiệm và hiệu quả bằng các biện pháp hành chính như quy định tiêu chuẩn,
định mức sử dụng tài sản công, cùng với biện pháp quản lý chặt chẽ các khoản chi
tiêu về duy trì, bảo dưỡng, sửa chữa tài sản công để buộc các cơ quan đơn vị sử
dụng tài sản hiệu quả hơn.
1.1.2 Các chính sách Quốc gia về tài sản công
Tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập quản lý, sử dụng là cơ sở vật chất

quan trọng để thực hiện nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công cho xã hội, đồng
thời là nguồn lực to lớn góp phần bảo đảm và nâng cao tự chủ tài chính của các đơn
vị. Đổi mới cơ chế quản lý, sử dụng nhằm quản lý chặt chẽ và khai thác có hiệu quả
nguồn lực từ tài sản công là giải pháp quan trọng để thực hiện thành công Nghị
quyết 19/NQ-TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương.
Theo thống kê của Cơ sở dữ liệu quốc gia (CSDL) về tài sản nhà nước đến
30/9/2017, tổng nguyên giá của 4 loại tài sản lớn (nhà, đất, xe ô tô, tài sản khác có
nguyên giá từ 500 triệu đồng trở lên) tại đơn vị sự nghiệp công lập (ĐVSNCL)
9


(chưa bao gồm các ĐVSNCL thuộc lực lượng vũ trang nhân dân) là: 326.112 tài sản
(chiếm 64,19% tổng số lượng tài sản nhà nước khu vực hành chính sự nghiệp), với
tổng nguyên giá là 792.968,26 tỷ đồng (chiếm 72,60% tổng giá trị tài sản nhà nước
khu vực hành chính sự nghiệp); trong đó, quyền sử dụng đất là 524.410,22 tỷ đồng,
nhà là 193.871,71 tỷ đồng và tài sản khác là 74.686,33 tỷ đồng.
Trong thời gian qua, cơ chế và công tác quản lý, sử dụng tài sản công tại các
ĐVSNCL đã đạt được những kết quả quan trọng. Nhà nước đã xây dựng, ban hành
tương đối đầy đủ các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công
và tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản công, tạo hành lang pháp lý để đổi mới
công quản lý, sử dụng tài sản công tại ĐVSNCL.
Chính phủ đã giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa
phương tổ chức đánh giá tình hình triển khai Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà
nước năm 2008; Rà soát hệ thống pháp luật hiện hành có liên quan đến việc quản lý,
sử dụng tài sản công; Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, xây dựng dự thảo Luật
Quản lý, sử dụng tài sản công; Lấy ý kiến của các đối tượng chịu sự tác động của
luật, các nhà khoa học, các chuyên gia... trên cơ sở đó, báo cáo Chính phủ để trình
Quốc hội.
Ngày 21/6/2017, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật Quản lý, sử dụng tài
sản công để thay thế cho Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước năm 2008. Luật

này sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018. Với việc ban hành Luật Quản lý, sử
dụng tài sản công, cơ chế quản lý tài sản công tại ĐVSNCL tiếp tục được đổi mới
mạnh mẽ với nhiều nội dung.
Chính sách quản lý tài sản công của Nhà nước bao gồm các nội dung cụ thể
như sau:
- Nhà nước có chính sách đầu tư, khai thác và bảo vệ tài sản công. Đối với
chính sách đầu tư, tài sản công của các đơn vị ngoài việc hình thành từ nguồn
NSNN cấp phát trực tiếp còn được hình thành từ các nguồn khác. Nhà nước tạo cơ
chế cho ĐVSNCL huy động các nguồn lực của xã hội để đầu tư cơ sở vật chất cung
cấp dịch vụ công. Theo đó, các ĐVSNCL được đầu tư xây dựng công trình sự
nghiệp theo hình thức đối tác công - tư; Được sử dụng tài sản để thanh toán cho nhà
đầu tư thực hiện dự án BT; Được sử dụng tài sản của đơn vị để thế chấp hoặc thực hiện
biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự khác. Trong quá trình khai thác tài sản
công, Nhà nước đưa ra chủ trương chính sách quy định rõ việc tính hao mòn và trích
10


khấu hao tài sản cố định tại ĐVSNCL. Theo đó, tài sản cố định tại ĐVSNCL được tính
hao mòn. Các tài sản cố định tại ĐVSNCL phải trích khấu hao gồm: Tài sản cố định tại
ĐVSNCL tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư; Tài sản cố định tại ĐVSNCL
thuộc đối tượng phải tính đủ khấu hao tài sản cố định vào giá dịch vụ theo quy định của
pháp luật; Tài sản cố định của ĐVSNCL khác được sử dụng vào hoạt động kinh doanh,
cho thuê, liên doanh, liên kết theo quy định của pháp luật. Số tiền trích khấu hao tài sản
cố định được bổ sung quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp của ĐVSNCL để bổ sung
nguồn lực giúp các đơn vị tái tạo, tăng cường cơ sở vật chất. Các chính sách này giúp
cho các đơn vị tái sản xuất tài sản công.
- Nhà nước thực hiện hiện đại hóa, chuyên nghiệp hóa công tác quản lý tài
sản công nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, sử dụng tài sản công; bảo đảm
nguồn nhân lực và tài chính phục vụ quản lý, sử dụng tài sản công. Đặc biệt, Nhà
nước trao quyền tự chủ mạnh hơn cho các đơn vị và thủ trưởng các ĐVSNCL (đặc

biệt là các đơn vị tự đảm bảo toàn bộ chi thường xuyên trở lên) trong việc đầu tư,
mua sắm, quyết định định mức sử dụng tài sản chuyên dùng; Sử dụng tài sản công
vào mục đích kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết; Xử lý tài sản công gắn với
việc công khai, minh bạch, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm. Việc mở rộng trao
quyền tự chủ cho ĐVSNCL đã góp phần nâng cao số lượng và chất lượng dịch vụ
công; Tạo điều kiện cho người dân có thêm cơ hội lựa chọn, tiếp cận các dịch vụ
công với chất lượng ngày càng cao, góp phần cải thiện thu nhập của người lao động
tại các đơn vị sự nghiệp, tuy nhiên đến nay, hoạt động này vẫn tồn tại một số khó
khăn, vướng mắc.
1.1.3 Nguyên tắc quản lý tài sản công
Quản lý tài sản công cần phải tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc cơ bản sau đây:
Một là, nguyên tắc tập trung, thống nhất: Mọi tài sản công đều phải được
Nhà nước giao quyền quản lý, quyền sử dụng và các hình thức trao quyền khác cho
cơ quan, tổ chức, đơn vị và đối tượng khác theo quy định của Luật này và pháp luật
có liên quan. Do đó, các tài sản công khi quản lý phải tuân thủ các quy định pháp
luật của Nhà nước. Việc phân cấp quản lý tài sản công hiện nay tức là Nhà nước
giao quyền quản lý tài sản cho các cơ quan, ngành, địa phương theo đúng quy định
của pháp luật nhằm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao.
Hai là, nguyên tắc theo kế hoạch: quản lý tài sản công phải dựa trên kế hoạch
đã được lập ra. Điều đó có nghĩa là việc khai thác tài sản công hiện có, tạo lập tài
11


sản công mới, sử dụng tài sản công,… phải theo kế hoạch đã được hoạch định
trước. Quản lý tài sản công theo kế hoạch cho phép khai thác, sử dụng tài sản công
phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của quốc gia, tạo lập cân đối, hài hòa
trong khai thác các tài sản công. Tính kế hoạch cho phép các cơ quan được giao
quyền quản lý tài sản công được chủ động sử dụng, khai thác có hiệu quả.
Ba là, nguyên tắc minh bạch và trung thực: Tài sản công do Nhà nước đầu tư
phải được quản lý, khai thác, duy tu, bảo dưỡng, sửa chữa, được thống kê, kế toán

đầy đủ về hiện vật và giá trị, những tài sản có nguy cơ chịu rủi ro cao do thiên tai,
hoả hoạn và nguyên nhân bất khả kháng khác được quản lý rủi ro về tài chính thông
qua bảo hiểm hoặc công cụ khác theo quy định của pháp luật.
Tài sản công là tài nguyên phải được kiểm kê, thống kê về hiện vật, ghi nhận
thông tin phù hợp với tính chất, đặc điểm của tài sản; được quản lý, bảo vệ, khai
thác theo quy hoạch, kế hoạch, bảo đảm tiết kiệm, hiệu quả, đúng pháp luật. Tài sản
công phục vụ công tác quản lý, cung cấp dịch vụ công, bảo đảm quốc phòng, an
ninh của cơ quan, tổ chức, đơn vị phải được sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, đúng mục
đích, công năng, đối tượng, tiêu chuẩn, định mức, chế độ theo quy định của pháp
luật. Việc khai thác nguồn lực tài chính từ tài sản công phải tuân theo cơ chế thị
trường, có hiệu quả, công khai, minh bạch, đúng pháp luật. Việc quản lý, sử dụng
tài sản công phải được thực hiện công khai, minh bạch, bảo đảm thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí, phòng, chống tham nhũng.
Việc quản lý, sử dụng tài sản công được giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm
toán; mọi hành vi vi phạm pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công phải được xử
lý kịp thời, nghiêm minh theo quy định của pháp luật.
Bốn là; Đảm bảo sử dụng đúng mục đích, tiêu chuẩn, định mức chế độ mà
nhà nước quy định.
Nhà nước phải thực hiện vai trò kiểm tra, kiểm soát các quá trình hình thành,
sử dụng, khai thác và xử lý tài sản công. Nói một cách khác, người được giao trực
tiếp quản lý, sử dụng tài sản công phải thực hiện theo ý chí của nhà nước (người đại
diện chủ sở hữu tài sản công). Mặt khác, do những đặc điểm riêng có của tài sản
công là tổ chức, cá nhân được giao trực tiếp quản lý, sử dụng tài sản không phải là
người có quyền sở hữu tài sản; tài sản công được phân bổ ở khắp mọi miền đất
nước, được giao cho các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân trực tiếp quản lý, sử
dụng. Do đó, nếu Nhà nước không tổ chức quản lý tài sản công theo một cơ chế,
12


chính sách, chế độ thống nhất phù hợp với mô hình kinh tế mà nhà nước theo đuổi

sẽ dẫn đến việc tuỳ tiện, mạnh ai nấy làm trong việc đầu tư xây dựng, mua sắm, sửa
chữa, sử dụng, điều chuyển, thanh xử lý tài sản; nhất là sử dụng tài sản không đúng
mục đích được giao, sử dụng tài sản công vào việc riêng, sử dụng tài sản lãng phí,
kém hiệu quả, làm thất thoát tài sản, giảm nguồn lực tài sản công.
Quản lý và sử dụng tài sản công theo tiêu chuẩn định mức để công tác quản
lý thống nhất, đồng thời áp dụng tiêu chuẩn định mức sử dụng từng loại tài sản cho
từng đối tượng sử dụng, tránh hiện tượng mạnh ai người đó trang bị tuỳ tiện theo ý
muốn của mình, tuỳ thuộc vào khả năng vốn liếng (kinh phí) của đơn vị; tiêu chuẩn,
định mức sử dụng tài sản còn là thước đo đánh giá mức độ sử dụng tiết kiệm và
hiệu quả tài sản công của từng đơn vị; mặt khác, tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài
sản là cơ sở để thực hiện công tác quản lý, thực hiện sự kiểm tra, kiểm soát của Nhà
nước. Chính phủ quy định tiêu chuẩn, định mức sử dụng đối với những tài sản có
giá trị lớn được sử dụng phổ biến ở các cơ quan nhà nước, các đơn vị lực lượng vũ
trang nhân dân, các tổ chức khác. Trên cơ sở tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản
đối với các tài sản sử dụng phổ biến, các Bộ, ngành, địa phương quy định tiêu
chuẩn, định mức sử dụng đối với những tài sản sử dụng có tính đặc thù.
Năm là; thống nhất về cơ chế, chính sách, chế độ quản lý; đồng thời phải có
cơ chế, chính sách, chế độ quản lý, sử dụng đối với những tài sản có tính đặc thù
riêng, đối với ngành, địa phương, tổ chức sử dụng tài sản phục vụ cho các hoạt
động có tính đặc thù riêng. Thống nhất quản lý trên cơ sở để đảm bảo cơ chế, chính
sách, chế độ quản lý tài sản công phù hợp với đặc điểm tài sản công. Nội dung của
thống nhất quản lý là Chính phủ thống nhất quản lý tài sản công; Quốc hội, Chính
phủ quy định cơ chế, chính sách, chế độ quản lý tài sản áp dụng chung cho mọi tài
sản và quy định cơ chế, chính sách, chế độ quản lý cụ thể đối với những tài sản có
giá trị lớn mà hầu hết cơ quan nhà nước, các đơn vị lực lượng vũ trang, các đơn vị
công, các tổ chức khác được Nhà nước giao trực tiếp sử dụng (có thể gọi là những
tài sản chủ yếu và được sử dụng phổ biến). Trên cơ sở cơ chế, chính sách, chế độ
quản lý tài sản công do Quốc hội, Chính phủ quy định; các Bộ, ngành, địa phương
quy định cơ chế, chính sách, chế độ quản lý đối với những tài sản có tính đặc thù
riêng (có thể gọi là những tài sản có tính đặc thù) và những tài sản phục vụ cho các

hoạt động đặc thù.

13


1.1.4 Mục tiêu quản lý tài sản công
Thứ nhất: Tạo lập, khai thác hiệu quả tốt nhất nguồn tài sản công của Nhà nước:
Cơ quan hành chính phải phát huy chức năng quản lý nhà nước đối với tài
sản công để buộc mọi tổ chức, cá nhân được giao quyền sử dụng tài sản công phải
bảo tồn, phát triển nguồn tài sản công và sử dụng tài sản công theo quy định của pháp
luật, đúng mục đích, tiết kiệm và có hiệu quả nhằm phục vụ sự phát triển kinh tế - xã
hội, bảo vệ được môi trường, môi sinh, hoàn thành nhiệm vụ do Nhà nước giao.
Thứ hai: Đáp ứng yêu cầu công việc của cơ quan hành chính nhà nước gắn với
yêu cầu hiện đại hoá và tái trang bị tài sản công đi liền với hiện đại hoá đất nước.
Nhà nước thực hiện quản lý tài sản công cũng chính là thực hiện quyền sở
hữu tài sản; trong đó đặc biệt là quyền định đoạt đối với tài sản công bao gồm:
quyền đầu tư xây dựng, mua sắm, điều chuyển, thanh xử lý tài sản (bao gồm cả bán
tài sản)... vì những quyền này được thực hiện không chỉ trong nội bộ các tổ chức, cá
nhân được nhà nước giao trực tiếp quản lý, sử dụng tài sản; mà trong điều kiện của
nền kinh tế thị trường, những quyền này còn được thực hiện trong mối quan hệ mất
thiết với thị trường gắn với mục tiêu định hướng của nhà nước trong quá trình công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Thứ ba: Các mục tiêu khác trong quản lý tài sản công như; nâng cao hình ảnh
của quốc gia mà cụ thể là cơ quan hành chính nhà nước, tạo sự tôn nghiêm và lòng tin
đối với công dân và quốc tế, giao lưu học hỏi, tranh thủ sự giúp đỡ về mọi mặt của
quốc tế. Muốn vậy công tác quản lý tài sản công phải hiệu quả, khao học, hợp lý.
1.1.5 Chỉ tiêu đánh giá về quản lý tài sản công
* Nhóm chỉ tiêu định lượng
- Tổng vốn đầu tư cho tài sản công của mỗi đơn vị trong từng thời kỳ và mức
độ tăng trưởng vốn đầu tư cho tài sản công của đơn vị.

Tổng vốn đầu tư cho tài sản công của mỗi đơn vị trong từng thời kỳ là chỉ
tiêu tuyệt đối phản ánh tổng số vốn được đơn vị đó sử dụng đầu tư cho mua sắm, cải
tạo, nâng cấp các tài sản công trong một khoảng thời gian nhất định. Quy mô vốn
đầu tư càng lớn chứng tỏ đơn vị càng chú trọng tới đầu tư tài sản công nhằm nâng
cao năng lực hoạt động cho mình.
Mức độ tăng trưởng vốn đầu tư cho tài sản công là chỉ tiêu tương đối phản
ánh tốc độ biến động của vốn đầu tư cho tài sản công qua các thời kỳ nhất định.

14


Tổng vốn đầu tư

Mức độ tăng
trưởng vốn đầu tư

=

cho tài sản công

cho TSC năm nay

-

Tổng vốn đầu tư cho
TSC năm trước

x 100

Tổng vốn đầu tư cho TSC năm trước


Mức độ tăng trưởng dương cho thấy tài sản công của đơn vị ngày càng được
chú trọng đầu tư mở rộng và phát triển.
Đối với tài sản công của các bệnh viện công lập đều là những tài sản tiên
tiến, hàm lượng công nghệ cao nên cần lượng vốn đầu tư rất lớn. Chính vì vậy, quy
mô vốn đầu tư cho tài sản công của các bệnh viện ở mức cao.
- Cơ cấu vốn đầu tư cho tài sản công của mỗi đơn vị trong từng thời kỳ. Tại
các đơn vị sự nghiệp thì vốn đầu tư cho tài sản công được hình thành chủ yếu từ hai
nguồn: nguồn NSNN cấp trực tiếp và nguồn kinh phí của đơn vị, ngoài ra còn có có
thể hình thành từ nguồn liên doanh, liên kết, hợp tác đầu tư công tư.
Cơ cấu vốn đầu tư cho tài sản công của mỗi đơn vị trong từng thời kỳ là chỉ
tiêu tương đối phản ánh thành phần và tỷ trọng của mỗi nguồn vốn huy động đầu tư
cho tài sản công của đơn vị trong một giai đoạn cụ thể.
Cơ cấu nguồn vốn
đầu tư thứ i

=

Nguồn vốn huy động thứ i
Tổng vốn đầu tư cho tài sản công

x 100

Nguồn vốn đầu tư chủ yếu tà NSNN cho thấy các đơn vị chưa mở rộng khả
năng xã hội hóa nguồn đầu tư cho tài sản công, khả năng mở rộng quy mô tài sản
công còn yếu kém.
Tuy nhiên, các bệnh viện cung cấp dịch vụ công cộng là khám chữa bệnh,
giá khám chữa bệnh được Nhà nước quản lý chặt chẽ nhằm đảm bảo tính công bằng
cho mọi người dân khi tiếp cận dịch vụ y tế nên nguồn vốn NSNN đóng vai trò
quan trọng hàng đầu cho đầu tư tài sản công của các bệnh viện.

- Số lượng tài sản công được đầu tư mới hay nâng cấp trong từng thời kỳ.
Đây là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh số lượng các tài sản mới được mua sắm, hình
thành thêm trong từng giai đoạn hoặc được nâng cấp, cải tạo…. Tuy nhiên, số lượng
tài sản công còn phụ thuộc vào giá trị của các tài sản công. Trong khi, hầu hết giá trị
của tài sản công tại các bệnh viện rất lớn nên số lượng tài sản công được đầu tư mới
hay nâng cấp thường không nhiều.
- Mức độ hao mòn tài sản công của đơn vị tại một thời điểm. Đây là chỉ tiêu
tương đối phản ánh tài sản công của đơn vị còn mới hay đã cũ, số vốn đã thu hồi
bao nhiêu % so với số vốn đầu tư bỏ ra ban đầu.
15


Tỷ lệ hao mòn tài sản
công của đơn vị

=

Số hao mòn lũy kế
Tổng nguyên giá của tài sản công

x 100

Tỷ lệ hao mòn càng cao càng chứng tỏ tài sản công của các đơn vị đã cũ, ít
được quan tâm đầu tư đổi mới nên năng lực hoạt động cũng vì thế sụt giảm theo.
Máy móc, trang thiết bị của các bệnh viện thường hoạt động với cường độ
cao, công suất lớn, thậm chí vượt quá công suất lại có hàm lượng kỹ thuật cao nên
chịu tác động lớn của hao mòn vô hình. Chính vì thế, hầu hết các tài sản này được
trích khấu hao nhanh.
- Số lượng tài sản công bị hư hỏng, không thể khắc phục: là chỉ tiêu tuyệt đối
phản ánh số lượng tài sản công không còn sử dụng được do hư hỏng, hết thời gian

sử dụng. Các tài sản này cần nhanh chóng sửa chữa, khắc phục, nếu không thể khắc
phục được cần nhanh chóng thanh lý, nhượng bán để có nguồn tài chính đổi mới tài
sản công.
- Công suất khai thác, sử dụng tài sản công: là chỉ tiêu tương đối phản ánh
mức độ khai thác, đưa tài sản công vào sử dụng. Nếu công suất đạt mức càng gần
100% tho thấy các tài sản công được khai thác tối đa cho hoạt động của các tổ chức
hành chính sự nghiệp. Tài sản công không bị lãng phí, hiệu quả hoạt động được
nâng cao.
Nếu công suất khai thác ở mức thấp, chứng tỏ tài sản công ít được đưa vào
vận hành, sử dụng gây ra hiện tượng lãng phí.
Nếu công suất khai thác quá cao, trên 100% thì cho thấy tài sản công đang
hoạt động trên công suất, dẫn tới việc tài sản nhanh chóng bị hư hỏng, quy mô tài
sản công không đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của đơn vị.
- Mức độ hiệu quả kinh tế, xã hội khi vận hành, sử dụng tài sản công như
nguồn thu, khả năng cung ứng dịch vụ công,… phụ thuộc vào từng loại tài sản.
Đối với tài sản công của các bệnh viện, mức độ hiệu quả kinh tế, xã hội
thường được đo lường bởi số thu viện phí hay số lượt người khám chữa bệnh,…
* Nhóm tiêu chí định tính
Nhóm chỉ tiêu định tính có thể sử dụng để đánh giá quản lý tài sản công như:
Mức độ chấp hành quy định pháp lý của Nhà nước và quy định quản lý của
đơn vị. Việc đầu tư, mua sắm, vận hành, sử dụng, thanh lý tài sản công của các đơn
vị sự nghiệp công lập phải tuân thủ những quy định chặt chẽ của pháp luật. Khi
đánh giá quản lý tài sản công của bệnh viện, có thể đánh giá mức độ chấp hành quy
16


định pháp lý của Nhà nước trong các đơn vị hành chính sự nghiệp xem có thực hiện
đúng quy trình hay không? Có đảm bảo đúng yêu cầu quản lý nhà nước về tài sản
công hay không?….
Ý thức của các cán bộ, nhân viên trong quản lý tài sản công: Ý thức cán bộ,

nhân viên trong quản lý tài sản công được thể hiện thông qua tinh thành trách nhiệm
trong việc gìn giữ, bảo quản tài sản công để tối ưu hóa hiệu quả khai thác và sử
dụng tài sản công.
1.2 Quản lý tài sản công tại bệnh viện
1.2.1 Khái niệm và đặc điểm của quản lý tài sản công tại Bệnh viện
1.2.1.1 Khái niệm
Quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt
được những mục tiêu nhất định trong điều kiện biến động của môi trường (Phan
Huy Đường, 2017). Chủ thể quản lý là tác nhân tạo ra các tác động quản lý nhằm
dẫn dắt đối tượng quản lý đi đến mục tiêu. Chủ thể có thể là một người, một bộ máy
quản lý gồm nhiều người, một thiết bị. Đối tượng quản lý tiếp nhận các tác động
của chủ thể quản lý. Như vậy, quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của
chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý và khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu
quả nhất các tiềm năng, cơ hội của tổ chức để đạt được những mục tiêu đã đặt ra
trong điều kiện biến động của môi trường.
Tổ chức quản lý là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo, kiểm tra

các

nguồn lực và hoạt động của tổ chức nhằm đạt được mục đích của tổ chức với hiệu lực
và hiệu quả cao trong điều kiện môi trường luôn biến động. (Phan Huy Đường, 2017).
Từ sự phân tích ở trên, có thể cho rằng quản lý tài sản công trong bệnh viện
là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của các chủ thể quản lý bệnh viện đối với
tài sản công của bệnh viện đó để có thể sử dụng, khai thác tài sản công một các
hiệu quả nhất nhằm đạt được mục tiêu hoạt động của bệnh viện.
1.2.1.2 Đặc điểm quản lý tài sản công trong bệnh viện
Quản lý tài sản công trong bệnh viện có những đặc điểm cơ bản khác biệt so
với tài sản công của các đơn vị hành chính sự nghiệp khác như sau:
Một là, đối tượng quản lý là tài sản công trong các bệnh viện. Các tài sản
công của bệnh viện có đặc điểm đa dạng, phong phú và mang tính kỹ thuật chuyên

môn cao, có giá trị lớn và liên quan tới công tác chăm sóc sức khỏe của con người
thậm chí là tính mạng của người bệnh. Chính vì vậy, việc quản lý tài sản công trong
17


các bệnh viện cần đảm bảo các quy trình nghiêm ngặt và chặt chẽ, bao gồm cả quy
trình quản lý tài sản và quy trình quản lý chuyên môn.
Hai là, công tác quản lý tài sản công trong các bệnh viện gắn với công tác
nghiên cứu khoa học, ứng dụng khoa học vào sử dụng các trang thiết bị y tế. Bệnh
viện cần đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật chuyên ngành để khai thác sử dụng, bảo
dưỡng, sửa chữa và kiểm chuẩn trang thiết bị y tế. Tăng cường công tác đào tạo
chuyên khoa và kỹ năng khai thác sử dụng cho đội ngũ cán bộ chuyên môn, song
song với công tác đào tạo cán bộ kỹ thuật để đáp ứng nhu cầu cho sử dụng, bảo
dưỡng và sửa chữa thiết bị. Do các tài sản công trong bệnh viện có tính ứng dụng
khoa học, công nghệ cao nên cũng chịu tác động mạnh mẽ của hao mòn vô hình.
Điều này dẫn tới việc quản lý khấu hao tài sản công cũng khó khăn hơn vì phải tính
toán tới những ảnh hưởng bất lợi của hao mòn vô hình.
1.2.2 Khung pháp lý về quản lý tài sản công trong bệnh viện
Quản lý tài sản công trong bệnh viện hiện nay chịu tác động của các văn bản
quy phạm pháp luật sau:
- Luật quản lý tài sản nhà nước ngày 03 tháng 6 năm 2008;
- Nghị định số 52/2009/NĐ-CP ngày 03 tháng 6 năm 2009 của Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý, sử dụng tài
sản nhà nước;
- Nghị định số 43/2009/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2006 của Chính phủ
quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức, bộ máy,
biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập;
- Quyết định số 213/2006/QĐ-TTg ngày 25 tháng 9 năm 2006 của Thủ tướng
Chính phủ ban hành quy chế quản lý công sở các cơ quan hành chính nhà nước;
- Quyết định số 32/2008/QĐ-BTC ngày 29 tháng 5 năm 2008 của Bộ trưởng

Bộ Tài chính về việc ban hành Chế độ quản lý, tính hao mòn tài sản cố định trong
các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập và các tổ chức có sử dụng ngân
sách nhà nước;
- Thông tư số 245/2009/TT-BTC ngày 31 tháng 12 năm 2009 của Bộ Tài
chính hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số 52/2009/NĐ-CP ngày
03 tháng 6 năm 2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước;
- Thông tư số 89/2010/TT-BTC ngày 16 tháng 6 năm 2010 của Bộ Tài chính
18


hướng dẫn chế độ báo cáo công khai quản lý, sử dụng tài sản nhà nước tại cơ quan nhà
nước, đơn vị sự nghiệp công lập, tổ chức được giao quản lý, sử dụng tài sản nhà nước;
- Ngày 21/6/2017, Quốc hội đã thông qua Luật Quản lý, sử dụng tài sản công
thay thế cho Luật Quản lý, sử dụng TSNN năm 2008, với các điểm mới sau:
Thứ nhất, mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật: Luật quản lý, sử dụng
TSNN năm 2008 chỉ điều chỉnh chế độ quản lý, sử dụng TSNN khu vực hành chính
sự nghiệp, chưa bao quát hết các loại tài sản công cần quản lý, dẫn tới chưa nắm
được tổng thể nguồn lực từ tài sản công để có kế hoạch, biện pháp quản lý, khai
thác phù hợp, thì Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017 đã điều chỉnh tới tất
cả các loại tài sản công được quy định tại Điều 53 Hiến pháp năm 2013, bao gồm:
Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời,
tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản
công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.
Thứ hai, ngoài việc xác định vai trò của tài sản công là để phục vụ cho công
tác quản lý của nhà nước và cung cấp các dịch vụ công cho xã hội, thì Luật Quản lý,
sử dụng tài sản công năm 2017 coi tài sản công là nguồn lực quan trọng để phát
triển kinh tế - xã hội. Theo đó quy định các hình thức, phương thức khai thác nguồn
lực tài chính từ tài sản công bao gồm: Giao quyền sử dụng tài sản; cấp quyền khai
thác tài sản; cho thuê, chuyển nhượng quyền khai thác, quyền sử dụng tài sản; góp

vốn, liên doanh, liên kết; sử dụng tài sản để thanh toán các nghĩa vụ của Nhà nước;
bán, thanh lý tài sản; các hình thức khác theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, bổ sung quy định về giám sát của cộng đồng đối với việc quản lý, sử
dụng tài sản công để bảo đảm việc sử dụng, khai thác tài sản đúng mục đích, tiết
kiệm, hiệu quả, công khai, minh bạch, nâng cao trách nhiệm giải trình.
Thứ tư, bổ sung quy định về việc xử lý vi phạm pháp luật về tài sản công và
trách nhiệm của người đứng đầu khi để xảy ra vi phạm.
Thứ năm, giao thẩm quyền ban hành tiêu chuẩn, định mức đối với xe ô tô
công, trụ sở làm việc cho Chính phủ (hiện nay thẩm quyền của Thủ tướng Chính
phủ); bổ sung các quy định để đảm bảo việc ban hành tiêu chuẩn, định mức được
chặt chẽ, công khai, minh bạch. Đồng thời, quy định rõ trách nhiệm tuân thủ, giám
sát, kiểm tra việc tuân thủ tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản công trong toàn bộ
quy trình đầu tư xây dựng, mua sắm, sử dụng, khai thác, xử lý tài sản công để khắc
phục những hạn chế trong quá trình thực hiện thời gian vừa qua.
19


×