Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

6 cách để suy nghĩ như Einstein

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.37 KB, 8 trang )

6 cách để suy nghĩ như Einstein
Làm thế nào các thiên tài cho ra đời những phát minh? Đâu là mối liên hệ giữa hai lối suy
nghĩ, một đã tạo ra Mona Lisa với một đã phát minh ra định luật vạn vật hấp dẫn? Chúng
ta học được gì từ cách thức suy nghĩ của những Galileo, Edison và Mozart trong lịch sử?
Trong nhiều năm, những học giả đã cố gắng nghiên cứu các thiên tài bằng phương pháp
phân tích thống kê. Năm 1904, Havelock Ellis nhận thấy hầu hết các thiên tài đều sinh ra
khi người cha trên 30 tuổi, mẹ dưới 25 và thường đau ốm khi còn bé. Những công trình
nghiên cứu khác lại chỉ ra rằng nhiều thiên tài sống độc thân (như Descartes), mồ côi cha
(như Dickens) hay mồ côi mẹ (Darwin). Cuối cùng, những dữ liệu trên cũng không nói lên
được điều gì.
Các nhà nghiên cứu cũng cố gắng tìm ra mối liên hệ giữa trí thông minh và thiên tài Nhưng
họ nhận thấy rằng những nhà vật lý học bình thường lại có chỉ số là cao hơn nhiều so với
những người đoạt giải Nobel và cả thiên tài phi thường Richard Feynman, người có chỉ số
là kha khá: 122. Thiên tài không phải là người thông thạo 14 thứ tiếng lúc mới 7 tuổi hay
thậm chí thông minh một cách đặt biệt. Năng lực sáng tạo không đồng nghĩa với trí thông
minh.
Hầu hết những người có trí tuệ trung bình có thể đưa ra những phương án thông thường để
giải quyết vấn đề. Thí dụ, khi được hỏi " Một nửa của 13 là gì?" thì đa số chúng ta ngay
lập tức sẽ trả lời là 6,5. Lý do là chúng ta luôn có khuynh hướng nghĩ đến những điều đã có
sẵn. Khi phải đối diện với một vấn đề, chúng ta xét lại những gì chúng ta đã được dạy và
những gì có hiệu quả trong quá khứ, lựa chọn cái gì gần đúng nhất với hoàn cảnh hiện tại
và dùng nó để giải quyết vấn đề.
Những thiên tài, ngược lại, suy nghĩ theo những hướng khác nhau. Họ tự hỏi: "Có bao
nhiêu cách khác nhau để tôi nhìn nhận vấn đề?" và "Có bao nhiêu cách để tôi giải quyết
nó?".
Dấu hiệu của những thiên tài là sự sẵn sàng khám phá tất cả những khả năng có thể xảy ra
chứ không phải cách giải quyết thông dụng nhất. Suy nghĩ thông thường đưa đến sự cứng
nhắc. Đó là lý do vì sao chúng ta thường thất bại khi phải đối mặt với những vấn đề mới
mà ban đầu chúng có vẻ gần với những gì chúng ta đã giải quyết được nhưng trên thực tế
lại khác xa. Nắm bắt một vấn đề bằng những kinh nghiệm của bạn trong quá khứ sẽ đương
nhiên đưa bạn đi theo lối mòn. Nếu bạn suy nghĩ theo tối mòn, bạn chỉ nhận được những gì


bạn đã có.
Trong nhiều thế kỷ, người Thụy Sĩ thống trị ngành công nghiệp đồng hồ. Nhưng vào năm
1968, khi một nhà phát minh người Mỹ giới thiệu một chiếc đồng hồ chạy pin tại Đại hội
đồng hồ thế giới (World Watch Congress), tất cả các nhà sản xuất đồng hồ Thụy Sĩ đều
bác bỏ nó bởi cho rằng nó không phù hợp với mẫu mã vốn có của họ. Trong khi đó, Seiko,
một công ty điện tử Nhật Bản đã quan tâm đến phát minh mới này và thành công trong
việc thay đổi tương lai của thị trường đồng hồ thế giới. Bằng việc nghiên cứu sách vở, sự
phù hợp và các cuộc trò chuyện với những nhân vật nổi tiếng trên thế giới trong lĩnh vực
khoa học, nghệ thuật và công nghiệp, các nhà nghiên cứu đã tìm ra những cách thức suy
nghĩ sau có thể thay đổi những ý tưởng thông thường theo hướng thiên tài.
1- Thiên tài luôn nhìn nhận vấn đề từ mọi góc độ:
Phương pháp phân tích của Sigmund Freud là tìm ra những chi tiết không theo các phương
thức truyền thống để đến gần hơn với những cách nhìn hoàn toàn mới. Để giải quyết vấn
đề một cách sáng tạo, bạn phải từ bỏ ngay phương pháp trước tiên xuất hiện trong đầu bạn
- cái thường bắt nguồn từ kinh nghiệm trong quá khứ - và nhìn nhận lại vấn đề. Thiên tài
không đơn thuần chỉ giải quyết những vấn đề sẵn có, họ còn tìm ra những cái mới.
2- Thiên tài làm cho những suy nghĩ của mình trở nên hữu hình:
Thiên tài phát triển những khả năng về thị giác và không gian cho phép họ trình bày thông
tin theo những cách mới. Cuộc bùng nổ năng lực sáng tạo trong thời kỳ Phục Hưng đã gắn
liền với sự phát triển của đồ thị minh hoạ suốt thời gian này, đáng chú ý có biểu đồ khoa
học của Leonardo da Vinci và Galileo Galileo. Galileo cải cách khoa học bằng cách làm
cho những ý tưởng của ông rõ ràng, sinh động nhờ biểu đồ trong khi người đương thời sử
dụng những phương tiện thông thường hơn.
3- Thiên tài luôn làm việc
Thomas Edison có 1093 phát minh, đó vẫn đang là một kỷ lục: Ông đảm bảo năng suất làm
việc cao bằng cách đặt ra cho mình những chỉ tiêu phải đạt được: một phát minh nhỏ mỗi
mười ngày và một phát minh lớn mỗi sáu tháng. Johann Sebastian Bach viết một bản nhạc
mỗi tuần ngay cả khi ông ốm đau hay mệt mỏi. Wolfgang Mozart đã viết hơn 600 bài nhạc.
4- Thiên tài có những sự kết hợp mới lạ
Giống như những đứa trẻ say mê với khối hộp xếp, các thiên tài luôn kết hợp và phối hợp

lại những ý tưởng, hình ảnh và suy nghĩ. Định luật di truyền đã được phát hiện nhờ Gregor
Mendel, người đã kết hợp môn toán và sinh học để sáng tạo ra một tri thức mới cho ngành
di truyền học.
5- Thiên tài thúc đẩy những mối quan hệ
Khả năng phi thường của họ khi kết nối những thứ có vẻ như không hề liên hệ với nhau
giúp họ nhìn thấy những điều mà người khác bỏ sót. Da Vinci nhận ra sự giống nhau giữa
tiếng chuông và hòn đá rơi xuống mặt nước và kết luận rằng âm thanh truyền đi theo dạng
sóng.
6- Thiên tài chuẩn bị mình cho những cơ hội
Bất kỳ khi nào chúng ta cố gắng làm một điều gì đó và thất bại, chúng ta từ bỏ mục đích
của mình. Đó là nguyên tắc đầu tiên của những khó khăn trong sáng tạo. Chúng ta có thể tự
hỏi vì sao chúng ta thất bại trong những dự định của mình, một câu hỏi hợp lý. Nhưng
những khó khăn trong sáng tạo đưa đến cậu hỏi: Chúng ta đã làm gì? Trả lời nó bằng cách
mới và gây bất ngờ cũng chính là một hành động mang tính sáng tạo chủ yểu Đó không
phải là may mắn, nhưng là trình độ cao nhất của sự hiểu biết sâu sắc năng lực sáng tạo.
Đây có lẽ là bài học quan trọng nhất: Khi bạn thấy điều gì đó hấp dẫn, dừng mọi việc lại và
bắt tay vào làm nó. Rất nhiều người có khả năng đã thất bại trong việc nâng cao năng lực
sáng tạo bởi họ quá gắn bó với những tư tưởng cố hữu của mình. Những thứ đó không phải
là những ý tưởng thực sự có ích. Những thiên tài không chờ đợi cơ hội, họ tự tạo ra chúng.
Một số thiên tài (được nhắc đến trong bài viết)
Galileo Galilei (1564-1642):
Galileo là một nhà thiên văn học và toán học nổi tiếng của ltalia. Sau khi phát minh ra
chiếc kính thiên văn đầu tiên, ông dành hết thời gian cho việc quan sát và ghi chép về các
ngôi sao. Ông là người đầu tiên phát hiện ra mặt trăng xoay quanh sao Mộc.
Thomas Alva Edison (1847- 1931). Ông là tác giả của một số lượng lớn các phát minh đã
làm thay đổi thế giới. Ông được biết đến nhiều nhất qua phát minh bóng đèn điện và máy
ghi âm, nhưng đó chỉ là hai trong số hơn một ngàn phát minh của Edison. Edison đã phát
hiện ra carbon dẫn truyền, giúp cho Alexander Graham Bell sau này phát minh ra điện
thoại.
Wolfgang Amadeus Mozart (1758 - 1791): Nhạc sĩ người Áo này là một trong những nhà

soạn nhạc nổi tiếng nhất thế giới. Mozart là một thần đồng âm nhạc có thể chơi và viết
nhạc từ năm lên 6. Suốt quãng đời ngắn ngủi của mình, Mozart đã viết hơn 600 bản nhạc.
Trong đó bao gồm bản opera The Marriage of Figaro và Don Giovannicùng 41 bản giao
hưởng và rất nhiều concerto.
René Descartes (1596-1650):Thường được gọi là cha đẻ của triết học hiện đại. Ông đã phát
minh ra chủ nghĩa duy lý. Câu nói nổi tiếng của Descartes: Tôi nghĩ nên tôi tồn tại. Y nghĩa
của câu nói này vẫn còn được bàn luận ở những khoá triết học khắp thế giới.
Charles Dickens (1812-1870): Là một trong những nhà văn sáng chói nhất trong lịch sử
văn học nước Anh. Ông sinh ra ở Hampshire, Anh, và trở thành một chàng trai trẻ ham
thích phiêu lưu và viết tiểu thuyết. Những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông bao gồm Olivef
Twist, David Copperfield, A Tale of Two Cities và Great Expectations. Phần lớn tác phẩm
của Dickens trình bày những vấn đề xã hội nổi cộm thời đó và vẫn còn được quan tâm cho
đến ngày nay.
Charles Darwin (1809-1882): Là nhà khoa học Anh nổi tiếng với Thuyết tiến hoá. Trong
cuốn sách của mình, The Descent of Man, ông cho rằng con người tiến hoá từ loài khỉ.
Điều này đã gây nên những tranh cãi dữ dội vào cuối thế kỷ XIX và vẫn còn được bàn luận
đến tận ngày nay.
Richard Feynman (1918-1988): Là nhà vật lý học người Mỹ đến từ New York. Ông nổi
tiếng với công trình Dự án Mahattan từ năm 1941- 1945. Trong dự án cực kỳ bảo mật này,
Feynman và một nhóm các nhà khoa học đã nghiên cứu để chế tạo ra quả bom nguyên tử
đầu tiên. Hai mươi năm sau, Feynman đoạt giải Nobel vật lý năm 1965 cho công trình
trong lĩnh vực điện động lực lượng tử (quantum electrodymanics).
Sigmund Freud (1858-1989). Là cha đẻ của ngành phân tâm học và có vai trò quan trọng
trong lịch sử tâm lý học. Phân tâm học là một phương pháp chữa trị những chứng bệnh về
tâm thần. Freud là một Bác sĩ người Áo. Vào những năm 90 của thế kỷ XIX, ông bắt đầu
thử nghiệm cái gọi là chữa bệnh bằng nói chuyện (talking cure) với những bệnh nhân mắc
bệnh tâm lý của ông. Năm 1900, Freud xuất bản cuốn sách quan trọng nhất The
lnterpretation of dreams. Trong suốt sự nghiệp của mình, ông đã khăng định rằng nghĩ và
nói về những giấc mơ là phương pháp tốt để có được một tâm lý khoẻ mạnh.
Leonardo da Vinci (1452-1519). Là một người kiệt xuất, một hoạ sĩ, kiến trúc sư, nhà điêu

khắc và kỹ sư. Ông có lẽ là thiên tài vĩ đại nhất thời kỳ Phục Hưng ở ltalia. Bức danh hoạ
nổi tiếng của ông là Mona Lisa. Những ghi chép về Da Vinci cho thấy ông có những hiểu
biết đáng kinh ngạc về cơ thể con người và những ý tưởng sáng tạo của ông trong nhiều
phát minh mà chúng ta có ngày nay, bao gồm kính mắt và máy bay.
Johann Sebastian Bach (1685-1750): Là một trong những nhà soạn nhạc cổ điển vĩ đại nhất
Châu Âu. Ông sinh ra trong một gia đình người Đức có truyền thống về âm nhạc và học
chơi đàn từ rất sớm. Ông trở thành một nhà soạn nhạc khi còn trẻ tuổi. Những tác phẩm nổi
tiếng của ông bao gồm Brandenburg Conceltos và Mass in B Minor.
Gregor Mendel (1822-1884): Là một nhà khoa học người áo đã dành phần lớn đời mình
cho việc nghiên cứu sự thay đổi ở động vật và thực vật qua các thế hệ. Ông được biết đến
như cha đẻ của ngành di truyền học hiện đại. Di truyền học là ngành học nghiên cứu những
đặc tính được di truyền từ cha mẹ sang con. Mendel đã cống hiến đời mình cho công cuộc
nghiên cứu và ghi chép lại tiến trình này.
Einstein - cuộc đời và sự nghiệp
Sau khi Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt, có một nhà đại bác học được toàn thế giới ca ngợi
về một phương trình lừng danh nhất của Khoa Học, đó là phương trình cho biết năng
lượng của vật chất: E=mc
2
. Trong hàng chục năm trời, E = mc
2
vẫn chỉ là đề tài của các
cuộc tranh luận về mặt lý thuyết, nhưng sự san bằng thành phố Hiroshima vào năm 1945
do quả bon nguyên tử đã chứng minh sự thật của phương trình đó.
Trước lời ca tụng, trước vinh quang rực rỡ, Albert Einstein, tác giả của phương trình lừng
danh kể trên lại, giữ một bộ mặt thẹn thùng, xa lạ. Sự quảng cáo thanh danh đã quấy
nhiễu ông suốt đời nhưng tất cả đều bị ông coi thường, lãnh đạm. Einstein chỉ khao khát
độc nhất sự trầm lặng để có thể suy nghĩ và làm việc.
1- Thời niên thiếu.
Albert Einstein sinh ngày 14-3-1879 tại Ulm, miền Wurtemberg, nước Đức. Cái tỉnh nhỏ
bé này không mang lại cho Albert một kỷ niệm nào cả vì năm sau, gia đình Einstein đã di

chuyển tới Munich. Sống tại nơi đây được một năm, một người em gái của Einstein ra
chào đời và từ đó không có thêm tiếng trẻ thơ nữa. Chủ gia đình, ông Hermann Einstein là
người lạc quan, tính tình vui vẻ. Còn bà mẹ, bà Pauline Koch, đã tỏ ra có óc thẩm mỹ ngoài
bản tính cần cù, tế nhị. Bà hay khôi hài và yêu thích âm nhạc.
Vốn dòng dõi Do Thái nhưng gia đình Einstein lại sinh sống như người Đức vì tổ tiên của
họ đã sinh cơ lập nghiệp tại nước Đức lâu đời. Các phong tục Do Thái cũ đều còn lại rất ít,
trong khi tôn giáo bao giờ cũng là thứ mà họ giữ gìn. Vào các ngày lễ riêng của đạo Do
Thái, nhóm dân này thường cử hành các buổi lễ theo nghi thức cổ truyền. Ngoài ra, cứ vào
ngày thứ năm, gia đình Einstein thường mời một sinh viên Do Thái nghèo túng đến dùng
cơm rồi cùng nhau nhắc nhở lại các điều răn trong Thánh Kinh.

×