Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Quản lý giáo dục đạo đức thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp ở các trường tiểu học quận thanh xuân, hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 93 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ THỊ THU HẠNH

QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG
NGOÀI GIỜ LÊN LỚP Ở CÁC TRƯỜNG TIỂU HỌC
QUẬN THANH XUÂN, HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

HÀ NỘI, 2018


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ THỊ THU HẠNH

QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG
NGOÀI GIỜ LÊN LỚP Ở CÁC TRƯỜNG TIỂU HỌC
QUẬN THANH XUÂN, HÀ NỘI

Ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 8.14.01.14

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN THỊ HOA

HÀ NỘI, 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là Vũ Thị Thu Hạnh, học viên cao học chuyên ngành Quản
lý giáo dục, đợt 2 khoá 2016-2018.Tôi xin cam đoan rằng các số liệu và
kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực.Những kết luận khoa
học của luận văn chưa từng công bố trong bất kì công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Vũ Thị Thu Hạnh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: CỞ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC THÔNG
QUA HOẠT ĐỘNG NGOÀI GIỜ LÊN LỚP Ở CÁC TRƯỜNG TIỂU HỌC ...8

1.1. Giáo dục đạo đức thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp ở tiểu học ......................8
1.2. Quản lý giáo dục đạo đức thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp ở tiểu học ...17
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC THÔNG
QUA HOẠT ĐỘNG NGOÀI GIỜ LÊN LỚP Ở CÁC TRƯỜNG TIỂU
HỌC QUẬN THANH XUÂN, HÀ NỘI ...........................................................27
2.1. Giới thiệu chung về các trường tiểu học quận Thanh Xuân ..............................27
2.2. Kết quả nghiên cứu thực tiễn .............................................................................30
2.3. Quản lý công tác giáo dục đạo đức qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
ở các trường Tiểu học quận Thanh Xuân .............................................................35
2.4. Những thuận lợi và khó khăn trong quản lý công tác giáo dục đạo đức qua
hoạt động ngoài giờ lên lớp ..................................................................................49
2.5. Nguyên nhân của những hạn chế trong việc quản lý giáo dục đạo đức qua
hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ...................................................................52
Chương 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC THÔNG

QUA HOẠT ĐỘNG NGOÀI GIỜ LÊN LỚP Ở CÁC TRƯỜNG TIỂU HỌC
QUẬN THANH XUÂN, HÀ NỘI .....................................................................55
3.1. Nguyên tắc đề xuất biện pháp ............................................................................55
3.2. Biện pháp quản lý giáo dục đạo đức thông qua các hoạt động ngoài giờ lên
lớp ở các trường Tiểu học quận Thanh Xuân, Hà Nội .........................................56
3.3. Mối quan hệ giữa các biện pháp ........................................................................74
3.4. Kết quả khảo nghiệm tính cấp thiết, khả thi và mối tương quan của các biện
pháp đề xuất ..........................................................................................................74
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ .........................................................................78
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................81
PHỤ LỤC .................................................................................................................83


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
STT

KÝ HIỆU

NỘI DUNG

1

CBQL

Cán bộ quản lý

2

GDĐĐ


Giáo dục đạo đức

3

ĐTB

Điểm trung bình

4

TNTPHCM

Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh

5

TNCSHCM

Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh

6

TDTT

Thể dục thể thao

7

GD&ĐT


Giáo dục và Đào tạo


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Cơ cấu tổ chức của 11 trường công lập quận Thanh Xuân..................28
Bảng 2.2: Quy mô trường lớp, số cán bộ quản lý, giáo viên, học sinhcác
trườngtiểu học công lập quận Thanh Xuân - Năm học 2017 – 2018 ...................29
Bảng 2.3: Trình độ chuyên môn của CBQL, giáo viên và nhân viêncủa 11
trường công lập quận Thanh Xuân(Tại thời điểm tháng 11 năm 2017) ...............29
Bảng 2.4. Các hình thức hoạt động ngoài giờ lên lớp ..........................................32
Bảng 2.5. Tầm quan trọng của việc quản lý giáo dục đạo đức thông quahoạt
động ngoài giờ lên lớp ..........................................................................................36
Bảng 2.6. Thực trạng xây dựng kế hoạch giáo dục đạo đức ................................37
Bảng 2.7. Mức độ chỉ đạo thực hiện kế hoạch giáo dục đạo đức .........................41
Bảng 2.8. Tổ chức chỉ đạo việc phối hợp giữa các lực lượng giáo dụctrong và
ngoài nhà trường ...................................................................................................45
Bảng 2.9. Kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm hoạt động giáo dục đạo đức .......47
Bảng 2.10: Khó khăn trong công tác giáo dục đạo đức qua hoạt động ngoài giờ
lên lớp ...................................................................................................................50
Bảng 3.1: Tính cấp thiết của các biện pháp ..........................................................75
Bảng 3.2: Tính khả thi của các biện pháp ............................................................76


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tiểu học là bậc học nền tảng, là nền móng của hệ thống giáo dục. Mục tiêu của
giáo dục tiểu học nhằm hình thành ở học sinh những cơ sở ban đầu về đạo đức, trí tuệ,
thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, để học sinh tiếp tục học lên các lớp trên.
Trong các nội dung giáo dục tiểu học, giáo dục đạo đức có vị trí đặc biệt quan trọng,
bởi vì, khi có đạo đức tốt, các em mới có định hướng đúng cho các hoạt động khác.

Tầm quan trọng của giáo dục đạo đức ở tiểu học được thể hiện rõ qua câu khẩu hiệu ở
hầu hết các trường học hiện nay: “Tiên học lễ - Hậu học văn”. Giáo dục đạo đức cho
học sinh ở tiểu học có thể thông qua nhiều con đường, trong đó hoạt động ngoài giờ lên
lớp là một trong những hình thức giáo dục phù hợp với học sinh ở cấp học này và có
hiệu quả đáng kể, giúp các em hình thành kĩ năng, thói quen, rèn luyện ý chí và củng
cố niềm tin đạo đức. Từ đó, học sinh biết vận dụng những biểu tượng và kiến thức
mà các em đã được học trong các môn học vào cuộc sống. Hoạt động ngoài giờ lên
lớp còn tạo cơ hội cho học sinh được tham gia trải nghiệm những hoạt động thực tiễn,
rút ngắn khoảng cách giữa lí thuyết và thực hành.
Hiện nay, do xu hướng toàn cầu hóa diễn ra trong mọi mặt của đời sống xã
hội nên chúng ta đang phải đối diện với nhiều thách thức mới của thời đại. Mặt tiêu
cực của cơ chế thị trường ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý và đời sống của người dân
nhất tệ nạn xã hội thâm nhập vào các nhà trường. Không ít học sinh, sinh viên sống
buông thả, thiếu suy nghĩ, không xác định được mục đích, không thích làm việc mà
chỉ thích được thụ hưởng, được người khác phục vụ, không ít trẻ em thiếu lễ phép
với ông bà, cha mẹ, thầy cô giáo và với người lớn nói chung, chưa chăm chỉ học tập, có
những hành vi bạo lực với bạn học...
Mặt khác hiệu quả và chất lượng của giáo dục đạo đức thông qua hoạt động
ngoài giờ lên lớp ở bậc tiểu học chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố, trong đó, công tác
quản lý của Ban giám hiệu nhà trường là yếu tố có tầm ảnh hưởng lớn.Về nguyên tắc,
công tác quản lý hoạt động giáo dục đạo đức của Ban giám hiệu được thể hiện tương
đối toàn diện, từ lập kế hoạch cho hoạt động giáo dục, tổ chức thực hiện hoạt động giáo
dục và kiểm tra, đánh giá hoạt động này. Tuy nhiên, trên thực tế, công tác quản lý hoạt
động này ở một số trường tiểu học chưa thực sự được quan tâm. Vì vậy, hiệu quả của
1


hoạt động giáo dục đạo đức chưa cao. Trong khi đó, chưa có nhiều nghiên cứu về quản
lý giáo dục đạo đức thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp ở các trường tiểu học. Đặc
biệt, công tác quản lý giáo dục đạo đức thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp ở bậc

tiểu học của quận Thanh Xuân, Hà Nội hầu như chưa được nghiên cứu. Chính vì
những lí do đó, chúng tôi đã chọn nghiên cứu đề tài: “Quản lý giáo dục đạo đức thông
qua hoạt động ngoài giờ lên lớp ở các trường tiểu học quận Thanh Xuân, Hà Nội”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Các nghiên cứu về quản lý giáo dục đạo đức thông qua hoạt động
ngoài giờ lên lớp ở nước ngoài
Đạo đức là một hình thái ý thức được hình thành rất sớm.Đạo đức được mọi
xã hội, mọi giai cấp và mọi thời đại quan tâm.Trong mỗi giai đoạn lịch sử đều có
những tư tưởng giáo dục phù hợp.Giáo dục đạo đức cho con người là vấn đề được
đặt ra từ thời xa xưa và luôn đổi mới để thích ứng với mọi thời đại.Đặc biệt trong
nhà trường, vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh luôn được quan tâm hàng đầu.
Trên thế giới, trước công nguyên, nhà giáo dục Trung Hoa phong kiến Khổng
Tử (551- 479 TCN) đã rất coi trọng việc giáo dục đạo đức cho mọi người.Ông cho
rằng nếu người học chỉ có khư khư ôm lấy cái đạo học ấy mà không đem ra ứng
dụng thực hành thì sao có thể gọi là thực học được.Vì vậy, học đạo để hành đạo là
yêu cầu thiết thân đối với người được giáo dục.Ông dạy người học tập phải biết
thực hành.Ông yêu cầu học tập trực giác phải kết hợp với suy luận.Khổng Tử đề cao
việc ứng dụng vào cuộc sống những điều đã học.Ông luôn dạy học trò của mình: Học
gì phải thực hành ngay điều ấy, phải củng cố ngay tri thức đã học không chỉ bằng cách
ôn luyện trong sách vở mà phải bằng việc làm.[dẫn theo 2]
Nhà triết học Socrate (470-399 TCN) đã hướng triết học vào mục đích giáo dục
con người sống có đạo đức.Socrate cho rằng, đạo đức hay cái thiệncũng là một loại tri
thức, màta có thể tự trau dồi. Một kẻ ác đơn giản chỉ là một kẻ dốt nát, chứ bản chất
anh ta không ác. Đó là quan điểm tiến bộ vào thời bấy giờ. Tiến bộ vì theo ông, con
người có thể tự hoàn thiện bản thân qua giáo dục và việc "tự suy xét". Bởi thế, triết học
của ông quan tâm nhiều đến con người, dạy đạo đức cho con người.[1]
Aristoste (384-322 TCN) đã nói rằng nhiệm vụ của đạo đức là tác động thuận lợi
tới hạnh phúc của xã hội còn chính trị là khoa học và nghệ thuật mưu cầu hạnh phúc cho
xã hội. Đạo đức và đạo đức học phải phục tùng chính trị.[1]
Comenxki (1592-1670) - đóng góp của ông trong lĩnh vực này không chỉ

2


bằng tấm gương về đạo đức của cuộc đời mình mà phương pháp giáo dục
đạođứccủa ông rất chú trọng đến hành vivà động cơ đạo đức.[1]
A.X.Makarenco (1888-1939) một nhà giáo dục Xô Viết lỗi lạc đã đặc biệt
nhấn mạnh vai trò của giáo dục đạo đứcvà các biện pháp giáo dục đúng đắn như sự
nêu gương, nguyên tắc giáo dục tập thể và thông qua tập thể.Ông còn khẳng định
cái logic của quá trình sư phạm còn là quá trình tổ chức hợp lí hoạt động của học
sinh tham gia vào lao động sản xuất, các hoạt động tập thể như vui chơi, giải trí, thể
dục thể thao, tham quan du lịch, văn hóa nghệ thuật.[9]
2.2. Các nghiên cứu về quản lý giáo dục đạo đức thông qua hoạt động
ngoài giờ lên lớp ở Việt Nam
Ở Việt Nam, vấn đề giáo dục đạo đức rất được quan tâm. Từ cuộc cải cách
giáo dục lần thứ nhất (1950) cho đến cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba (1979) vấn
đề giáo dục đạo đức luôn được đề cao, phương châm giáo dục là lý luận gắn với
thực tiễn, nhà trường gắn với đời sống xã hội. Đặc biệt sau cuộc cải cách giáo dục
lần thứ ba tên gọi hoạt động ngoài giờ lên lớp đã chính thức xuất hiện.Từ đó, đã có
rất nhiều nhà giáo dục đã nghiên cứuvề vấn đề này.
Võ Thuần Nho với bài “Một số vấn đề lý luận và tư tưởng về giáo dục đạo
đức cách mạng trong trường học”. Tác giả đã đưa ra những lý luận và tư tưởng chủ
đạo trong việc hình thành đạo đức cách mạng cho học sinh trong nhà trường.[14]
Tác giả Đặng Vũ Hoạt với bài “Đổi mới công tác của giáo viên chủ nhiệm
với việc giáo dục đạo đức cho học sinh”. Bài viết khẳng định vai trò của giáo viên
chủ nhiệm trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh đồng thời đề xuất những
phương pháp đổi mới công tác chủ nhiệm theo hướng tích cực hóa hoạt động tự
giáo dục của học sinh. [7]
Tác giả Trần Thị Minh Hiển với bài “Cải tiến hình thức sinh hoạt tập thể để
nâng cao việc giáo dục đạo đức cho học sinh”. Qua bài viết, tác giả đề xuất cách tổ
chức giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua các hoạt động tập thể, giúp đổi mới,

cải thiện chất lượng giáo dục đạo đức trong nhà trường.[8]
Tác giả Hà Nhật Thăng với bài “Thực trạng đạo đức, tư tưởng chính trị,
lối sống của thanh niên – học sinh – sinh viên”. Qua nghiên cứu, tác giả đề cập
đến những thay đổi về tư tưởng, đạo đức, lối sống của giới trẻ trong thời kỳ kinh
tế - xã hội phát triển. Từ đó đề cao tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức
trong cả 3 môi trường nhà trường – gia đình – xã hội. [17]
3


Nghị quyết Trung ương 2 còn nhấn mạnh “Phải coi đầu tư cho giáo dục là đầu
tư cơ bản quan trọng nhất cho sự toàn diện của đất nước, coi trọng nhân cách lý
tưởng và đạo đức, trí lực và thể lực, gắn học với hành, lý thuyết với thực hành”. [16]
Rõ ràng với tư tưởng này, Đảng và Nhà nước đã đặt con người vào vị trí
trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Thấm nhuần quan điểm này,
nhà trường chúng ta đã coi nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho học sinh là một trong
những việc hình thành và phát triển nhân cách cao đẹp cho học sinh.
Nhìn chung trong những năm qua giáo dục đạo đức trong nhà trường của
nước ta được Đảng, Nhà nước và Bộ Giáo dục và Đào tạo rất quan tâm. Các hội
thảo khoa học về giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên đã được tổ chức nhiều
nơi trong cả nước.Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, nhiều luận văn thạc sĩ,
khóa luận tốt nghiệp đề cập đến mục tiêu, nội dung, biện pháp tổ chức, quản lý
giáo dục đạo đức thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp, tuy nhiên hầu hết các tác
giả mới chỉ ra vai trò, hình thức tổ chức, biện pháp quản lý phù hợp với một số
địa bàn nơi công tác của tác giả, chưa có tác giả nào nghiên cứu về thực trạng và
đề ra các giải pháp để thực hiện công tác quản lý giáo dục đạo đức thông qua hoạt
động ngoài giờ lên lớp ở các trường tiểu học thuộc quận Thanh Xuân. Chính vì
vậy chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài “Quản lý giáo dục đạo đức thông qua hoạt
động ngoài giờ lên lớp ở các trường tiểu học quận Thanh Xuân, Hà Nội”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu lý luận và thực trạng quản lý giáo dục đạo đức thông qua hoạt
động ngoài giờ lên lớp ở bậc tiểu học từ đó đề xuất một số biện pháp nhằm nâng
cao chất lượng quản lý giáo dục đạo đức thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp góp
phần nâng cao chất lượng toàn diện cho học sinh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận quản lý giáo dục đạo đức thông qua hoạt động ngoài
giờ lên lớp ở các trường tiểu học.
- Nghiên cứu thực trạng quản lý giáo dục đạo đức thông qua hoạt động ngoài
giờ lên lớp ở các trường tiểu học.
- Đề xuất biện pháp quản lý giáo dục đạo đức thông qua hoạt động ngoài
giờ lên lớp có hiệu quả ở các trường tiểu học.
4


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nội dung quản lý giáo dục đạo đức thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp ở
các trường tiểu học quận thanh Xuân, Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài tập trung khảo sát các nội dung quản lý giáo dục đạo đức thông qua
hoạt động ngoài giờ lên lớp ở các trường tiểu học quận Thanh Xuân.
- Tiến hành khảo sát lấy ý kiến đánh giá của 150 giáo viên ở các trường tiểu học:
Khương Mai, Thanh Xuân Nam, Hạ Đình, Phương Liệt, Kim Giang.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
5.1. Cơ sở lý luận nghiên cứu đề tài:
5.1.1.Nghiên cứu vấn đề theo nguyên tắc hệ thống
Quản lý giáo dục đạo đức thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp có mối
quan hệ biện chứng với nhiều yếu tố khác trong hoạt động quản lý nhà trường,
chúng phụ thuộc, tác động lẫn nhau.Đặc biệt trong thời kì đổi mới giáo dục hiện
nay, vấn đề nghiên cứu chịu nhiều sự tác động của các yếu tố chủ quan và khách

quan nên nó được xem xét như là kết quả tác động của nhiều yếu tố.Tuy nhiên,
trong từng giai đoạn, từng thời điểm khác nhau, các yếu tố ảnh hưởng cũng khác
nhau. Vì vậy, vấn đề nghiên cứu quản lý giáo dục đạo đức thông qua hoạt động
ngoài giờ lên lớp ở các trường tiểu học quận Thanh Xuân, Hà Nội được xem xét
trong mối quan hệ về nhiều mặt.
5.1.2. Tiếp cận lịch sử
Luận văn nghiên cứu lịch sử phát triển và kinh nghiệm quản lý giáo dục đạo
đức, quản lý giáo dục đạo đức thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp để tìm ra ưu,
nhược điểm, vận dụng vào quản lý giáo dục đạo đức thông qua hoạt động ngoài giờ
lên lớp ở các trường tiểu học quận Thanh Xuân, Hà Nội.
5.1.3. Tiếp cận thực tiễn
Nghiên cứu quản lý giáo dục đạo đức thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp
cần phải xuất phát từ thực tiễn để tìm ra những yếu điểm, hạn chế, khó khăn, thuận lợi
và nguyên nhân để giải quyết nhằm nâng cao chất lượng quản lý và đề xuất các biện
pháp quản lý giáo dục đạo đức thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp phù hợp với
5


thực tiễn ở các trường tiểu học quận Thanh Xuân, Hà Nội.
5.1.4. Tiếp cận mục tiêu
Hoạt động ngoài giờ lên lớp nhằm đạt mục tiêu giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu
học theo quy định của cấp giáo dục và của nhà trường. Quản lý giáo dục đạo đức thông
qua hoạt động ngoài giờ lên lớp nhằm làm cho hoạt động này đạt được mục tiêu đã đề ra.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
5.2.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Tìm đọc, tổng hợp các tài liệu, văn bản liên quan đến quản lý giáo dục đạo
đức thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp và các yếu tố ảnh hưởng tới quản lý hoạt
động này. Thông qua việc phân tích, tổng hợp, khái quát hóa vấn để xây dựng cơ sở
lý luận nghiên cứu đề tài luận văn.
5.2.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi

Thiết kế hai loại phiếu hỏi dành cho hai đối tượng là cán bộ quản lý và giáo
viên nhằm thu thập thông tin cần thiết phục vụ cho việc phân tích và đánh giá thực
trạng vấn đề nghiên cứu.
Mẫu 1: Khảo sát thực trạng đạo đức và giáo dục đạo đức học sinh tiểu học.
Mẫu 2: Khảo sát thực trạng quản lý giáo dục đạo đức học sinh và các yếu tố ảnh
hưởng đến quản lý giáo dục đạo đức học sinh tiểu học.
5.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
Thông qua ý kiến của các chuyên gia trong quá trình nghiên cứu lý luận, xây
dựng bộ phiếu khảo sát thực trạng. Thiết kế một số câu hỏi phỏng vấn sâu đối với
một số cán bộ quản lý, giáo viên ở một số trường tiểu học trên địa bàn quận Thanh
Xuân, Hà Nội để làm rõ hơn những kết quả thu được qua phiếu hỏi, đồng thời bổ
sung thêm những thông tin cần thiết phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài.
5.2.4. Phương pháp xử lý thông tin
Sử dụng các công thức toán thống kê, lập bảng,… để xử lý số liệu thu thập,
định lượng kết quả nghiên cứu và các nhận xét, đánh giá khoa học.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ cung cấp cơ sở lý luận về quản lý giáo dục
đạo đức thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp ở các trường tiểu học. Kết quả này
6


sẽ góp phần làm rõ, bổ sung, hoàn thiện lý luận về công tác quản lý giáo dục đạo
đức thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp ở các trường tiểu học quận Thanh Xuân
nói riêng và các trường tiểu học nói chung.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn chỉ ra thực trạng quản lý giáo dục đạo đức thông qua hoạt
độngngoài giờ lên lớp ở các trường tiểu học và những yếu tố ảnh hưởng đến thực
trạng đó.Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất được một số biện pháp khả thi nhằm nâng
cao hiệu quả quản lý giáo dục đạo đức thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp ở các

trường tiểu học quận Thanh Xuân, Hà Nội. Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ là tài liệu
tham khảo bổ ích cho cán bộ quản lý, giáo viên của các trường tiểu học quận Thanh
Xuân, Hà Nội nói riêng và cán bộ quản lý, giáo viên các trường tiểu học nói chung
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ lục, phần
nội dung chính của luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý giáo dục đạo đức thông qua hoạt
độngngoài giờ lên lớp ở các trường tiểu học.
Chương 2: Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức thông qua hoạt động ngoài giờ
lên lớp ở các trường tiểu học quận Thanh Xuân, Hà Nội.
Chương 3:Một số biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục đạo đức thông qua
hoạt động ngoài giờ lên lớp ở các trường tiểu học quận Thanh Xuân, Hà Nội.
.

7


Chương 1
CỞ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC THÔNG QUA
HOẠT ĐỘNG NGOÀI GIỜ LÊN LỚP Ở CÁC TRƯỜNG TIỂU HỌC
1.1. Giáo dục đạo đức thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp ở tiểu học
1.1.1. Đạo đức
Đạo đức là một trong những quan hệ chủ yếu của đời sống xã hội và được xem
xét dưới nhiều góc độ khác nhau.
Theo quan điểm học thuyết Mác - Lê nin: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã
hội phản ánh và chịu sự chi phối của tồn tại xã hội. Vì vậy tồn tại xã hội thay đổi thì ý
thức xã hội cũng thay đổi theo. Và như vậy đạo đức xã hội luôn mang tính lịch sử, tính
giai cấp và tính dân tộc”.[12]
Theo giáo trình Đạo đức học: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập

hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách
ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ xã hội chúng được thực hiện
bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội”.[9]
Theo từ điển tiếng Việt: “Đạo đức là những tiêu chuẩn, những nguyên tắc quy định
hành vi quan hệ của con người đối với nhau, đối với xã hội. Đạo đức là những phẩm chất
tốt đẹp của con người theo những tiêu chuẩn đạo đức của một giai cấp nhất định”. [18]
Khi bàn về đạo đức, đã có nhiều quan niệm khác nhau:
Theo góc độ xã hội: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, phản ánh
dưới dạng những nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn mực điều chỉnh hoặc chi phối hành vi của
con người trong các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, giữa con người với xã
hội và với chính bản thân mình.
Theo góc độ cá nhân: Đạo đức chính là những phẩm chất, nhân cách của con
người, phản ánh ý thức, tình cảm, ý chí, hành vi, thói quen và các ứng xử của họ trong
các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội, giữa bản thân họ với người
khác và với chính bản thân mình.
Sinh thời Chủ Tịch Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn: “ Đạo đức là cái “gốc”
của mỗi con người, nếu người cách mạng không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng
không lãnh đạo được nhân dân”. [11] Vì vậy, giáo dục đạo đức là việc làm quan trọng
và cần thiết trong việc hình thành nhân cách toàn diện.
Đạo đức có 3 chức năng:
8


Thứ nhất, chức năng giáo dục. Chức năng giáo dục được thực hiện thông qua sự
giáo dục của xã hội và sự tự giáo dục của mỗi cá nhân. Giáo dục đạo đức là quá trình
tuyên truyền những tư tương, những chuẩn mực đạo đức xã hội, biến nó thành thước đo
đánh giá, điều chình hành vi của mỗi cá nhân nhằm đạt tới một sự phù hợp giữa hành
vi cá nhân với lợi ích xã hội.
Thứ hai, chức năng điều chỉnh hành vi. Sự điều chỉnh hành vi được thực hiện
bằng hai hình thức chủ yếu. Một là, thông qua dư luận xã hội, ca ngợi, khuyến khích

cái thiện, cái tốt, lên án, phê phán cái ác, cái xấu. Hai là, bản thân chủ thể đạo đức tự
giác điều chỉnh hành vi của mình theo những chuẩn mực đạo đức xã hội. Cách thức
điều chỉnh này phụ thuộc vào việc giáo dục, giác ngộ của chủ thể đạo đức.
Thứ ba, chức năng nhận thức. Những tư tưởng đạo đức và chuẩn mực đạo đức
xã hội có trở thành các quan hệ đạo đức trong đời sống xã hội hay không, điều đó
không chỉ phụ thuộc vào tính đúng đắn, tư tưởng đạo đức, của các chuẩn mực đạo đức,
vào việc tuyên truyền, giáo dục trong xã hội, mà còn phụ thuộc rất lớn vào khả năng
tiếp nhận và chuyển hoá nó trong hoạt động nhận thức và trong hành vi của mỗi chủ
thể đạo đức. Thông qua sự lựa chọn, đánh giá của các chủ thể đạo đức về những tư
tưởng, chuẩn mực đạo đức, trong bản thân họ hình thành niềm tin, lý tương đạo đức và
các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức trong quan hệ ứng xử của chính họ.
1.1.2. Giáo dục đạo đức
Giáo dục đạo đức là sự tác động có mục đích tới con người nhằm hình thành
cho họ những quan điểm cơ bản nhất, những nguyên tắc chuẩn mực đạo đức cơ bản
của xã hội. Nhờ đó, con người có khả năng lựa chọn, đánh giá đúng đắn các hiện tượng
đạo đức xã hội cũng như tự đánh giá suy nghĩ về hành vi của bản thân mình vì thế công
tác giáo dục đạo đức góp phần vào việc hình thành, phát triển nhân cách con người mới
phù hợp từng giai đoạn phát triển.
Giáo dục đạo đức về bản chất là quá trình biến hệ thống các chuẩn mực đạo đức
từ những đòi hỏi bên ngoài xã hội đối với cá nhân thành những đòi hỏi bên trong của cá
nhân, thành niềm tin, nhu cầu, thói quen của đối tượng giáo dục.
Coi bản chất con người là tổng hoà các quan hệ xã hội, C.Mác còn chỉ ra tính
quy định của các điều kiện kinh tế - xã hội và cùng với điều đó là giáo dục đạo đức đối
với sự hình thành nhân cách đạo đức. Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử, C.Mác đã
đem lại cho khái niệm giáo dục đạo đức một phạm vi khái quát rộng lớn với tư cách
quá trình hình thành và phát triển những năng lực, những phẩm chất đạo đức của con
9


người; do đó, làm cho nó có nội dung đầy đủ và phong phú hơn.

Giáo dục đạo đức là những tác động sư phạm một cách có mục đích, có hệ
thống và có kế hoạch của nhà giáo dục tới người được giáo dục (học sinh) để bồi
dưỡng cho họ những phẩm chất đạo đức (chuẩn mực, hành vi đạo đức) phù hợp với
yêu cầu xã hội. Theo Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt: “Giáo dục đạo đức là quá trình
biến các chuẩn mực đạo đức từ những đòi hỏi bên ngoài của xã hội đối với cá nhân
thành những đòi hỏi bên trong của bản thân, thành niềm tin, nhu cầu, thói quen của
người được giáo dục" [15].
Giáo dục đạo đức là quá trình hai mặt, mặt tác động của nhà sư phạm và mặt
tiếp nhận tích cực của người được giáo dục, đó là sự chuyển hóa những nhu cầu của xã
hội thành những phẩm chất bên trong của cá nhân. Giáo dục đạo đức được thực hiện
trong gia đình, nhà trường và trong môi trường xã hội, với những hình thức đa dạng và
những phương pháp phong phú, trong đó giáo dục trong nhà trường có một vị trí đặc
biệt quan trọng. Giáo dục đạo đức là bộ phận hợp thành của hoạt động giáo dục con
người đạt tới nhân cách hài hòa, toàn vẹn, bao gồm: Giáo dục kiến thức đạo đức; Giáo
dục thái độ đạo đức; Giáo dục kỹ năng - hành vi đạo đức. Bản chất giáo dục đạo đức là
chuỗi tác động có định hướng của chủ thể giáo dục và yếu tố tự giáo dục của học sinh,
giúp học sinh nhận thức đúng, tạo lập tình cảm và thái độ đúng, hình thành những thói
quen hành vi văn minh trong cuộc sống, phù hợp với chuẩn mực xã hội. Trong cuộc
sống, trong hoạt động, thông qua giao lưu nhân cách con người mới được hình thành
và phát triển. Giáo dục đạo đức là bộ phận quan trọng có tính nền tảng của giáo dục, có
nhiệm vụ rèn luyện lý tưởng, ý thức, thói quen và hình thành ở người học các phẩm
chất đạo đức như lòng nhân ái, yêu tổ quốc, yêu lao động, tính trung thực, khiêm tốn,
tự trọng, dũng cảm,…Giáo dục đạo đức gắn chặt với giáo dục tư tưởng chính trị, giáo
dục pháp luật, giáo dục trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và lao động hướng nghiệp. Ngoài
việc nâng cao nhận thức các giá trị đạo đức, giáo dục đạo đức còn góp phần tạo ra
những giá trị đạo đức mới, xây dựng những quan điểm, phẩm chất đạo đức mới, hình
thành quan niệm sống tích cực cho mỗi đối tượng giáo dục. Hơn nữa, giáo dục đạo đức
cũng góp phần khắc phục những quan điểm đạo đức lạc hậu, sự lệch chuẩn các giá trị
nhân cách, chống lại các hiện tượng phi đạo đức, vô văn hóa tạo ra cơ chế phòng ngừa
các phản giá trị đạo đức, phản văn hóa trong mỗi một con người. Giáo dục đạo đức còn

có tác dụng trong việc truyền lại cho thế hệ sau những giá trị đạo đức truyền thống mà
từ đời này qua đời khác chúng ta đã dày công xây dựng và giữ gìn. Thông qua hoạt
10


động giáo dục sẽ giúp cho họ nhận thức đầy đủ giá trị của truyền thống đạo đức dân
tộc, ý nghĩa to lớn của chúng trong đời sống hiện thực, lòng nhân ái và tính nhân văn
sâu sắc đã được lưu giữ, bảo tồn và lắng đọng trong cốt cách con người và nền văn hóa
Việt Nam.
Giáo dục đạo đức trong trường phổ thông là một bộ phận của quá trình giáo dục
tổng thể có quan hệ biện chứng với các quá trình giáo dục trí tuệ, thẩm mỹ, thể chất, lao
động và hướng nghiệp,…góp phần hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho học
sinh. Giáo dục đạo đức cho học sinh là giáo dục lòng trung thành với Đảng, với dân, yêu
quê hương đất nước, có lòng nhân ái, vị tha, cần cù, liêm khiết,….
1.1.3. Giáo dục đạo đức thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp ở tiểu học
1.1.3.1. Đặc điểm tâm lý học sinh tiểu học
- Đặc điểm về mặt nhận thức
Học sinh tiểu học ở trong độ tuổi từ 6-11 tuổi. Đây là độ tuổi các em chuyển tiếp
từ thời thơ ấu sang thời niên thiếu, một sự chuyển tiếp rất quan trọng trong quá trình phát
triển của trẻ, giúp các em hình thành nhân cách, năng lực trí tuệ và cả thể chất.
Bước vào lứa tuổi này, các em sẽ có những mối quan hệ xã hội mới bên ngoài
gia đình, qua đó, các em sẽ hình thành nên bản sắc cá nhân, đồng thời cũng phác họa
được hình ảnh tự thân, hoàn thiện nhân cách cùng với tiến trình phát triển của mình.
Tuy nhiên, học sinh tiểu học vẫn còn rất non nớt, chưa đủ nhận thức, khả năng phân
biệt đúng – sai,… nên các em luôn cần sự thấu hiểu tâm lý và sự giúp đỡ một cách phù
hợp của người lớn, của gia đình, nhà trường và xã hội.
Trong sáu năm đầu tiên của cuộc đời, các em tìm hiểu môi trường xung quanh
qua bản năng và các giác quan của mình. Ở giai đoạn tiếp theo, đứa trẻ từ 6-11 tuổi sẽ
tiếp cận thế giới thông qua cả lý trí và suy nghĩ. Do đó, đây là độ tuổi của những câu
hỏi, trẻ có vô số câu hỏi đặt ra cho người lớn và cần câu trả lời hợp lý, không lấp liếm

hay qua loa.
Học sinh tiểu học có trí nhớ trực quan phát triển, trí nhớ từ ngữ còn hạn chế.
Ví dụ các em sẽ mô tả về một chú cá vàng dễ dàng hơn sau khi xem hình ảnh hơn là
nghe định nghĩa bằng lời nói rằng cá vàng là loài cá nước ngọt nhỏ, thường được
nuôi làm cảnh…Trẻ có thể nhận biết và phân biệt tương đối tốt về mặt hình ảnh,
màu sắc, nhưng chưa biết phân tích một cách hệ thống và đi sâu vào bản chất của
điều mình quan sát được.

11


Vì vậy, trẻ lúc này chỉ quan tâm chú ý đến những môn học có đồ dùng, tranh
ảnh trực quan sinh động, hấp dẫn, có trò chơi hoặc có cô giáo dịu dàng. Ngoài ra, trẻ
vẫn còn thiếu sự tập trung cao độ, khả năng ghi nhớ và chú ý có chủ định, có tính hiếu
động và dễ xúc động.Trẻ nhớ rất nhanh nhưng quên cũng rất nhanh.
Học sinh tiểu học là tuổi nhận thức cảm tính là chủ yếu.Tư duy của các em còn
mang nặng tính trực quan, chú ý thiếu bền vững.Tri giác của các em còn hời hợt, chủ
yếu là ghi nhớ không chủ định.Đối với những việc không hứng thú, trẻ dễ đãng trí, khó
tập trung.Tuy nhiên trẻ Tiểu học cũng tiềm tàng khả năng phát triển. Nếu biết cách tổ
chức hoạt động phù hợp thì trẻ lớp 1 cũng có thể tiếp thu những tri thức khái quát. Về
sự phát triển ghi nhớ, đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học là chỉ nhớ những sự
kiện có vẻ bề ngoài gây ấn tượng về mặt cảm xúc, những điều được lặp đi lặp lại một
cách máy móc. Ở những năm phát triển tiếp theo, sự ghi nhớ máy móc sẽ được thay thế
bằng cách ghi nhớ dựa trên mối quan hệ logic với nội dung hơn. Trong quá trình dạy
học hay tổ chức các hoạt động, giáo viên cần áp dụng những cách thức riêng để duy trì
sự chú ý và tính tích cực nhận thức của các em trong suốt tiết học hay trong buổi hoạt
động, phối hợp khéo léo các phương pháp dạy học khác nhau, sử dụng các hình thức
trò chơi, tập thể dục giữa giờ,…
Nói tóm lại, các nhà giáo dục cần có hiểu biết về đặc điểm nhận thức của các
em, đừng để quá trình nhận thức của trẻ phải diễn ra trong sự mò mẫm, bản năng mà

cần hỗ trợ và định hướng cho các em một cách đơn giản, đúng đắn, giúp trẻ phát triển
nhận thức hoàn hảo nhất ở lứa tuổi học sinh tiểu học.
- Đặc điểm về mặt tình cảm
Tình cảm là một mặt rất quan trọng trong đời sống tâm lý, nhân cách của mỗi
người. Đối với học sinh tiểu học, tình cảm có vị trí đặc biệt vì nó là khâu trọng yếu gắn
nhận thức với hoạt động của trẻ em. Khi nói về đặc điểm tâm lý của học sinh tiểu học,
vấn đề tình thân, tình bạn,… cũng là một yếu tố rất quan trọng trong quá trình phát
triển của trẻ ở lứa tuổi này. Đối với học sinh tiểu học, tình cảm có vị trí đặc biệt vì nó
gắn kết nhận thức với hoạt động của trẻ em.Tình cảm tích cực sẽ kích thích trẻ em nhận
thức tốt và thúc đẩy các em hoạt động đúng đắn.
Ở lứa tuổi này, đời sống xúc cảm, tình cảm của các em khá phong phú, đa dạng
và cơ bản là mang trạng thái tích cực.Các em bỡ ngỡ, lạ lẫm nhưng cũng nhanh chóng
bắt nhịp làm quen với bạn mới, bạn cùng lớp.Trẻ tự hào vì được gia nhập Đội, hãnh
diện vì được cha mẹ, thầy cô đánh giá cao hay giao cho những công việc cụ thể.Các em
12


đã biết điều khiển tâm trạng của mình, thậm chí còn biết che giấu khi cần thiết. Nhìn
chung, học sinh tiểu học thường có tâm trạng vô tư, sảng khoái, vui tươi, đó cũng là
những điều kiện thuận lợi để giáo dục cho các em những chuẩn mực đạo đức cũng như
hình thành những phẩm chất trí tuệ cần thiết.
Tình cảm học sinh tiểu học được hình thành trong đời sống và trong quá trình
học tập của các em.Vì vậy giáo viên cần quan tâm xây dựng môi trường học tập nhằm
tạo ra xúc cảm, tình cảm tích cực ở trẻ để kích thích trẻ tích cực trong học tập. Việc học
tập của các em còn bị chi phối bởi yếu tố gia đình, điều kiện địa lý và các yếu tố xã hội
khác đòi hỏi nhà trường, gia đình, xã hội cần có sự kết hợp chặt chẽ để tạo động lực
học tập cho học sinh.
- Đặc điểm về mặt ý chí
Đối với trẻ tiểu học, hành vi thực hiện của các em còn phụ thuộc nhiều vào yêu
cầu của người lớn. Khi đó sự điều chỉnh ý chí đối với việc thực hiện hành vi ở các em

còn yếu. Đặc biệt các em chưa đủ ý chí để thực hiện đến cùng mục đích đã đề ra nếu
gặp khó khăn. Đôi khi các em đã có khả năng biến yêu cầu của người lớn thành mục
đích hành động của mình, tuy vậy năng lực ý chí còn thiếu bền vững, chưa tạo nên tính
cách của các em.Việc thực hiện hành vi vẫn chủ yếu phụ thuộc vào hứng thú nhất thời.
Học sinh tiểu học chưa có khả năng tự lập chương trình hành động, do ý chí
chưa được phát triển đầy đủ. Các phẩm chất ý chí như: Tính độc lập, tính kìm chế và tự
chủ còn thấp.Trẻ dễ bắt chước hành động của người khác, kể cả những hành động vượt
quá sức trẻ, đôi lúc tính bột phát, ngẫu nhiên được thể hiện trong hành động của trẻ.
Tuy nhiên ở lứa tuổi này, đời sống cảm xúc, tình cảm của các em khá phong phú, đa
dạng và cơ bản mang tính tích cực; tính kiềm chế và tự giác được tăng cường, trạng
thái cảm xúc ổn định. Đặc biệt tâm trạng sáng khoái, vui tươi của trẻ tiểu học thường
bền vững, lâu dài nên đó cũng là những điều kiện thuận lợi cho quá trình giáo dục.
1.1.3.2. Giáo dục đạo đức thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp
* Khái niệm
“Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là những hoạt động được tổ chức ngoài giờ
học của các môn học ở trên lớp. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là sự tiếp nối
hoạt động dạy – học trên lớp, là con đường gắn lí thuyết với thực tiễn, tạo nên sự thống
nhất giữa nhận thức với hành động của họcsinh”[19, tr58]
“Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là việc tổ chức giáo dục thông qua hoạt
động thực tiễn của học sinh về khoa học-kĩ thuật, lao động công ích, hoạt động xã hội,
13


hoạt động nhân đạo, văn hóa văn nghệ, thẩm mĩ, thể dục thể thao, vui chơi giải trí, v..v.
để giúp các em hình thành và phát triển nhân cách (đạo đức, năng lực, sở trường…)”
[15, tr45]
Như vậy, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là hoạt động giáo dục được tổ
chức ngoài thời gian học tập trên lớp.Đây là một trong hai hoạt động giáo dục cơ bản,
được thực hiện một cách có tổ chức, có mục đích theo kế hoạch của nhà trường; là
hoạt động tiếp nối và thống nhất hữu cơ với hoạt động học tập trên lớp, nhằm góp

phần hình thành và phát triển nhân cách học sinh theo mục tiêu đào tạo, đáp ứng
những yêu cầu đa dạng của xã hội đối với thế hệtrẻ.
Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp do nhà trường tổ chức và quản lí với sự
tham gia của các lực lượng xã hội. Nó được tiến hành tiếp nối hoặc xen kẽ hoạt động
dạy – học trong nhà trường hoặc trong phạm vi cộng đồng. Hoạt động này diễn ra
trong suốt năm học và cả thời gian nghỉ hè để khép kín quá trình giáo dục, làm cho quá
trình này được thực hiện ở mọi nơi, mọilúc.
* Mục tiêu của hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trường Tiểu học nhằm:
- Củng cố và khắc sâu kiến thức của các môn học trên lớp; mở rộng hiểu biết
cho học sinh về các lĩnh vực của đời sống cộng đồng, bước đầu hình thành kinh
nghiệm hoạt động tập thể của họcsinh.
- Bước đầu rèn luyện và hình thành cho học sinh các kĩ năng cơ bản phù hợp
với lứa tuổi học sinh tiểu học như: kĩ năng giao tiếp ứng xử có văn hóa; kĩ năng tổ
chức và tham gia các hoạt động tập thể với tư cách là chủ thể của hoạt động; kĩ năng tự
kiểm tra đánh giá kết quả học tập, rèn luyện; hình thành các hành vi, thói quen tốt
trong học tập, lao động tự phục vụ và hoạt động tậpthể.
- Bồi dưỡng thái độ tự giác tham gia các hoạt động tập thể; hình thành tình cảm
chân thành, niềm tin trong sáng với cuộc sống, với quê hương đất nước; có thái độ
đúng đắn đối với các hiện tượng tự nhiên và xãhội.
1.1.3.3. Giáo dục đạo đức thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp ở các trường
tiểu học
Giáo dục đạo đức thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp là cách thức tổ chức
các hoạt động ngoài giờ lên lớp cho học sinh nhằmtạo cho các emđược tham gia vào
những hoạt động độc lậphoặc hợp tác với nhau trong nhóm để từ đó rèn luyện những
phẩm chất đạo đức của bản thân góp phần phát triển toàn diện nhân cách của mỗi cá
14


nhân. Chính vì vậy, để việc giáo dục đạo đức cho học sinh có hiệu quả, người giáo viên

cũng như nhà quản lý giáo dục cần phát huy những hiểu biết sẵn có của học sinh, tạo
môi trường thuận lợi để các em được thể hiện thông qua một hoạt động không thể thiếu
trong mỗi nhà trường, hoạt động ngoài giờ lên lớp. Việc định hướng và tổ chức các
hoạt động của giáo viên là rất quan trọng làm cho mỗi phẩm chất đạo đức của học sinh
đượchình thành và phát triển.
* Hoạt động giáo dục đạo đức ở tiểu học
- Giáo dục đạo đức thông qua giảng dạy môn học đạo đức trong chương trình
chính khóa của Bộ GD&ĐT.
- Giáo dục đạo đức thông qua việc dạy lồng ghép trong các môn học trong
chương trình.
- Giáo dục đạo đức thông qua việc tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
* Khái niệm giáo dục đạo đức ở tiểu học
Giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học là quá trình tác động, dạy dỗ, chỉ bảo
từ nhiều con đường khác nhau nhằm xây dựng và hình thành cho học sinh những hành
vi ứng xử phù hợp với chuẩn mực đạo đức trong mối quan hệ của các cá nhân với bản
thân, với người khác và xã hội. Kết quả của quá trình giáo dục đạo đức là học sinh có
được các phẩm chất đạo đức tốt đẹp, bền vững, có hiểu biết để ứng xử đúng đắn trong
các mối quan hệ cụ thể. [5] Giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học là cung cấp cho
các em những khái niệm đạo đức, bồi dưỡng cảm xúc, tình cảm đạo đức, rèn luyện các
kĩ năng và thói quen đạo đức.
Giáo dục đạo đức ở trường Tiểu học cùng với giáo dục trí tuệ, thẩm mĩ, thể
chất, lao động, hướng nghiệp tạo nên quá trình giáo dục tổng thể giúp học sinh hình
thành và phát triển nhân cách toàn diện.
Quá trình giáo dục đạo đức giống như các quá trình giáo dục khác là có sự tham
gia của chủ thể giáo dục và đối tượng giáo dục. Chủ thể tham gia vào quá trình giáo
dục đạo đức cho học sinh là thầy cô giáo, cha mẹ học sinh và những lực lượng giáo dục
khác trong nhà trường, ngoài xã hội. Đối tượng của quá trình giáo dục, chịu tác động
của giáo viên và các lực lượng giáo dục khác chính là học sinh. Các em còn là chủ thể
tích cực, tự giác tiếp thu các chuẩn mực đạo đức và tham gia các hoạt động giao lưu để
thể hiện các giá trị đạo đức.

* Các hình thức giáo dục đạo đức thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp ở tiểu học
Hoạt động ngoài giờ lên lớp ở tiểu học rất đa dạng và phong phú như:
15


- Hoạt động xã hội - chính trị: Các hoạt động này có liên quan đến những dịp kỉ
niệm các ngày lễ lớn trong năm, các sự kiện xã hội, chính trị trong nước và quốc tế
đang được quan tâm; các hoạt động tìm hiểu truyền thống tốt đẹp của nhà trường, địa
phương và dân tộc; các hoạt động từ thiện, nhân đạo, đền ơn đáp nghĩa, tham quan các
di tích, danh lam thắng cảnh,….
Các hoạt động này thường được tổ chức thông qua các tiết sinh hoạt tập thể theo
chủ điểm hàng tháng, nội dung các chủ điểm thường căn cứ vào các ngày lễ trong năm:
+ Tháng 9; 10: Chủ điểm“Truyền thống nhà trường”, chào mừng năm học mới.
+ Tháng 11: Chủ điểm “Kính yêu thầy cô giáo”, tôn sư trọng đạo, hướng về ngày
nhà giáo Việt Nam20-11.
+ Tháng 12: Chủ điểm: “Uống nước nhớ nguồn”, tưởng nhớ, biết ơn các thương
binh liệt sĩ, bà mẹ Việt Nam anh hùng, những người có công với nước, hướng tới kỷ
niệm ngày thành lập Quân đội Nhân Dân Việt Nam 22-12.
+ Tháng 1; 2: Chủ điểm: “Mừng Xuân, Ơn Đảng”, chào mừng ngày thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam 3 -2.
+ Tháng 3: Chủ điểm“ Yêu quý mẹ và cô”, chào mừng ngày Quốc tế Phụ nữ.
+ Tháng 4: Chủ điểm: “ Hòa bình và hữu nghị” ,kỷ niệm ngày thống nhất đất nước
30 –4.
+ Tháng 5: Chủ điểm: “Bác Hồ kính yêu”, kỷ niệm ngày sinh của Bác Hồ 19– 5,..
Một tiết học cũng có tầm ảnh hưởng lớn đến giáo dục đạo đức cho học sinh đó là
tiết chào cờ đầutuần:
+ Tiết chào cờ được xếp vào tiết học đầu tiện trong thời khóa biểu hàng tuần, là tiết
học bắt buộc, nhằm giáo dục hành vi nghiêm trang chào lá Quốc kì, hát Quốc ca, thể
hiện tình yêu Tổ quốc của học sinh.
+ Trong tiết chào cờ, các lớp được đánh giá, tổng kết thi đua hàng tuần, khích lệ sự

ganh đua lành mạnh tạo động lực để các em thi đua duy trì tốt nề nếp của trường; phổ
biến và triển khai kế hoạch tuần tới; tổ chức hoạt động tập thể chung toàn trường; thực
hiện các nhiệm vụ giáo dục như bảo vệ môi trường, giáo dục an toàn giao thông, giáo
dục kĩ năng sống, giáo dục phòng chống tệ nạn xãhội,…
+ Mỗi giáo viên chủ nhiệm ngay từ lớp Một cần giáo dục cho học sinh ý nghĩa
quan trọng của tiết chào cờ, giáo dục các em hành vi nghiêm trang, lòng tự hào khi
tham gia chào cờ,…
- Hoạt động văn hóa, thể dục - thể thao
16


Các hoạt động này giúp học sinh có vốn hiểu biết, trau dồi những tình cảm chân
thành đối với quê hương, con người, thiên nhiên và cả bản thân. Chúng thường được
thể hiện dưới nhiều hình thức như:
+ Múa hát, tập thể dục đầu giờ.
+ Tổ chức Hội khỏe Phù Đổng, thi đấu Thể dục Thể thao các cấp.
+ Sinh hoạt Câu lạc bộ.
+ Hội diễn văn nghệ.
+ Tổ chức Hội chợ quê.
……..
- Hoạt động Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh và Sao Nhi đồng.
Đây là một tổ chức với rất nhiều hoạt động phong phú, gần gũi; các đội viên và
sao nhi đồng thường xuyên được tham gia, qua đó các em được thể hiện bản thân,
được phát huy năng lực cá nhân, …
- Các hoạt động khác: Mời nhân vật lịch sử nói chuyện nhân các ngày kỷ niệm,
ngày lễ lớn; mời các chuyên gia, các nhà giáo dục nói chuyện về phòng chống tệ nạn
xã hội, bảo vệ môi trường, về các tấm gương đạo đức trong cuộc sống hoặc phối hợp
với phụ huynh học sinh tổ chức ngoại khóa, tham quan,… Tổ chức theo các hình thức
này sẽ có tác dụng giáo dục truyền thống, hình thành niềm tin đạo đức trong họcsinh.
1.2. Quản lý giáo dục đạo đức thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp ở

tiểu học
1.2.1. Quản lý
1.2.1.1. Khái niệm
Có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau về thuật ngữ “Quản lý”.
Các Mác đã lột tả bản chất quản lý là: “Nhằm thiết lập sự phối hợp giữa những
công việc cá nhân và thực hiện những chức năng chung, nảy sinh từ sự vận động của
toàn bộ cơ thể sản xuất, khác với sự vận động riêng lẻ của nó. Một người chơi vĩ cầm
riêng lẻ tự điều khiển mình, còn dàn nhạc thì cần người chỉ huy”.[13, tr.92]
Theo Tác giả Nguyễn Minh Đạo định nghĩa: Quản lý là sự tác động liên tục có
định hướng, có mục đích, có kế hoạch và có hệ thống thông tin của chủ thể quản lý
(người quản lý, tổ chức quản lý) đến khách thể (đối tượng quản lý) về các mặt chính trị,
văn hóa, xã hội, kinh tế…bằng một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên
tắc, các phương pháp và các biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho
sự phát triển của đối tượng. [6]
17


Theo Henry Fayol (1886-1925): "Quản lý là một hoạt động mà mọi tổ chức (gia
đình, doanh nghiệp, chính phủ) đều có, nó gồm 5 yếu tố tạo thành là: kế hoạch, tổ
chức, chỉ đạo, điều chỉnh và kiểm soát. Quản lý chính là thực hiện kế hoạch, tổ chức,
chỉ đạo điều chỉnh và kiểm soát ấy”. [3, tr 67]
Trong từ điển Tiếng Việt, quản lý là “Tổ chức và điều khiển các hoạt động theo
những yêu cầu nhất định”. [20, tr.1030]
Theo tác giả Nguyễn Gia Quý: “Quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức của
chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động giáo dục tới mục tiêu đã
định, trên cơ sở nhận thức và vận dụng đúng những qui luật khách quan của hệ thống
giáo dục quốc dân”.[21, tr.12]
Quản lý là một quá trình tác động có định hướng, trong đó chủ thể quản lý
huy động, sử dụng các nguồn lực trong và ngoài tổ chức một cách tối ưu, điều
chỉnh các nguồn lực khi cần thiết để nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức, đưa tổ

chức phát triển.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi cho rằng: Quản lý là sự tác động có ý thức của
chủ thể quản lý đối với đối tượng quản lý, bằng cách xây dựng kếhoạch hoạt động, tổ
chức chỉ đạo thực hiện hoạt động và kiểm tra kết quả hoạt động nhằm đạt được mục
tiêu đề ra của tổ chức.Tóm lại, quản lý vừa là pháp lý, vừa là công nghệ, vừa là khoa
học, vừa là nghệ thuật.Nó đóng vai trò quan trọng trong mọi hoạt động của con người
đặc biệt là hoạt động giáo dục. Các khái niệm về quản lý đều tập trung vào hiệu quả của
quá trình quản lý mà nội dung này phụ thuộc nhiều vào chủ thể quản lý, khách thể quản
lý và mục đích quản lý thông qua sự tác động từ chủ thể quản lý tới khách thể quản lý
bằng công cụ và phương pháp quản lý.
1.2.1.2. Chức năng cơ bản của quản lý
Chức năng của quản lý là một dạng hoạt động quản lý chuyên biệt, thông qua
đó, chủ thể quản lý tác động vào khách thể quản lý nhằm thực hiện một mục tiêu nhất
định.Nhiều nhà khoa học và quản lý thực tiễn đã đưa ra những quan điểm khác nhau về
phân loại chức năng quản lý. Nhưng theo quan điểm của quản lý hiện đại, có thể khái
quát quản lý có một số chức năng sau: Lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, chỉ đạo và
kiểm tra.
1.2.1.3. Vai trò của quảnlý
Quản lý nhằm tạo ra sự thống nhất ý chí trong tổ chức giữa những người quản
lý và người bị quản lý; giữa những người bị quản lý với nhau.Nó còn định hướng sự
18


phát triển của tổ chức trên cơ sở xác định mục tiêu chung và hướng mọi nỗ lực của các
đối tượng quản lý vào mục tiêu đó. Để đạt được mục tiêu quản lý, cần tổ chức, điều
hoà, phối hợp và hướng dẫn hoạt động của các cá nhân, tổ chức, làm giảm tối đa sự bất
ổn định trong mọi hoạt động, song song với nó là vai trò tạo động lực cho mọi cá nhân
trong tổ chức bằng cách kích thích, động viên; uốn nắn lệch lạc, sai sót nhằm giảm bớt
thất thoát, sai lệch trong quá trình quản lý.Và vai trò cũng rất cần thiết của quản lý là
tạo môi trường và điều kiện cho sự phát triển của mọi cá nhân và tổ chức, đảm bảo phát

triển ổn định, bền vững và có hiệu quả.
1.2.2. Quản lý giáo dục đạo đức thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp ở tiểu học
1.2.2.1. Khái niệm quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục có hai cấp độ: cấp độ vĩ mô và cấp độ vi mô. Quản lý giáo dục
ở cấp độ vĩ mô là quản lý hệ thống giáo dục trên phạm vi toàn quốc hay hệ thống giáo
dục ở một tỉnh/thành phố hoặc hệ thống giáo dục của một cấp học, một ngành học cụ
thể. Quản lý giáo dục ở cấp độ vĩ mô là những tác động tự giác của chủ thể quản lý đến
tất cả các thành phần của hệ thống, nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu
phát triển giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu của xã hội.
Quản lý giáo dục ở cấp độ vi mô là quản lý giáo dục trong một nhà trường. Đó
là một hệ thống tác động có mục đích của hiệu trưởng và ban giám hiệu đến hoạt động
giáo dục, đến những con người trong nhà trường (giáo viên, học sinh, cán bộ nhân
viên…), đến các nguồn lực (cơ sở vật chất, tài chính, thông tin…), đến các nguồn lực
ngoài nhà trường một cách hợp quy luật, nhằm đạt mục tiêu giáo dục.
1.2.2.2. Các chức năng quản lý giáo dục - nội dung hoạt động quản lý giáo dục:
Về số lượng chức năng quản lý giáo dục, các nhà nghiên cứu khác nhau có ý
kiến không thống nhất. Một số tác giả cho rằng có bốn chức năng, đó là:
- Kế hoạch hóa
- Tổ chức (nhân sự, tổ chức bộ máy)
- Lãnh đạo (chỉ đạo thực hiện)
- Kiểm tra
Một số tác giả khác cho rằng có ba chức năng:
- Kế hoạch hóa
- Chỉ đạo thực hiện
- Kiểm tra
Chúng tôi đồng ý với quan điểm quản lý có 4 chức năng.
19



×