Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

SKKN đổi mới PHƯƠNG PHÁP GIẢNG dạy kĩ THUẬT XUẤT PHÁT THẤP CHO học SINH KHỐI 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.74 KB, 17 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY KĨ THUẬT
XUẤT PHÁT THẤP CHO HỌC SINH KHỐI 8

Quảng Ninh, tháng 10 năm 2018


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY KĨ THUẬT
XUẤT PHÁT THẤP CHO HỌC SINH KHỐI 8

Họ và tên: Nguyễn Văn Sỹ
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Hải Ninh

Quảng Ninh, tháng 10 năm 2018


1. Phần mở đầu:
1.1. Lí do chọn sáng kiến:
Trong sự nghiệp đổi mới do Đảng và nhà nước ta khởi xướng và lãnh
đạo nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn
minh. Yếu tố con người luôn giữ vị trí hàng đầu: “Con người ngoài việc phải có
trình độ chuyên môn, năng lực hoạt động còn cần phải có sức khỏe, có thể lực mới
có thể đáp ứng được nhu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Ngay từ những năm đầu khai sinh đất nước, Hồ Chủ Tịch đã ký sắc lệnh
thành lập nha thể dục thể thao và ra lời kiêu gọi toàn dân tập thể dục.


Từ đó giáo dục thể chất cho thế hệ trẻ là một trong những nội dung quan
trọng không chỉ ở ngành Giáo dục và Đào tạo mà còn là mối quan tâm của toàn xã
hội.
Từ khi chưa có hướng đổi mới phương pháp dạy học, thì tất cả các môn học
khác cũng như bộ môn thể dục thường dạy theo lối cũ, giờ học đơn điệu, tẻ nhạt,
giáo viên thiếu nhiệt tình, chưa năng động, dụng cụ tập luyện thiếu, học sinh vận
động quá ít, chưa tích cực năng động, chơi nhiều nên chưa đạt yêu cầu lượng vận
động cần thiết đối với lứa tuổi học sinh dẫn đến thành tích còn thấp. Điều này đã
ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của cơ thể, thể chất học sinh, chưa thúc đẩy sự
phát triển toàn diện ở các em. Kết quả đạt được còn thấp, nó thể hiện rõ qua việc
đánh giá kết quả học tập ở cuối học kì, cuối năm học. Và đặc biệt là qua các kì Hội
khỏe Phù Đổng thành tích nhiều môn thể thao - điền kinh chưa cao.
Trong các môn của điền kinh, chạy nhanh là một trong số các môn có lịch sử
phát triển lâu đời. Từ phương pháp để người xưa vượt qua các hào, rãnh trong săn
bắn, hái lượm... chạy nhanh dần trở thành một phương tiện rèn luyện để phát triển
các tố chất thể lực, đặc biệt là tốc độ, sức mạnh tốc độ, sự phát triển linh hoạt, khéo
léo và trở thành một môn thể thao.
Trong các kĩ thuật, chạy nhanh là nội dung thường được các vận động viên
có trình độ cao lựa chọn để thi đấu, đây là kĩ thuật phức tạp, hoạt động không
mang tính chu kỳ, đòi hỏi người tập phải nắm vững những tư duy động tác đồng
thời hực hiện động tác một cách nhịp nhàng, thuần thục.
Như chúng ta đã biết thành tích của các môn phụ thuộc vào hai yếu tố đó là
kĩ thuật và thể lực. Hai yếu tố này có mối quan hệ khăng khít, có tác dụng thúc đẩy
để đạt thành tích cao. Đặc biệt là yếu tố kĩ thuật, qua kinh nghiệm thực tế của các
huấn luyện viên lâu năm và các công trình nghiên cứu khoa học thể dục thể thao
của các tác giả trong nước đã chứng minh rằng động tác kĩ thuật càng thành thục,
chính xác thì càng tiết kiệm được sức, vận dụng và phát huy được khả năng dùng
sức của cơ thể giúp nâng cao thành tích của mình.
Để đạt được mục đích đó thì mỗi giáo viên giảng dạy giáo dục thể chất phải
làm thế nào để môn thể dục thực sự trở thành môn học yêu thích của học sinh.

Thực tế cho thấy nhiều học sinh còn e ngại và lười biếng tập thể dục thể thao,
nhiều em còn xem nhẹ môn thể dục. Chính vì vậy nên chất lượng giáo dục thể chất
ở một số trường chưa cao.
1


Hiện nay, bộ môn Thể dục cũng là một môn học chính khóa trong nhà
trường, nhằm từng bước nâng cao thể lực cho học sinh. Chính vì thế, việc nâng cao
chất lượng dạy và học môn Thể dục ở nhà trường đang là vấn đề cấp thiết, cần có
định hướng, đổi mới phương pháp giảng dạy tối ưu về phía giáo viên nhằm tạo
điều kiện thuận lợi cho bộ môn này cả chiều rộng lẫn chiều sâu.
Trong chương trình Thể dục dành cho học sinh THCS, môn Điền kinh bao
gồm các môn: Chạy, Nhảy chiếm tỷ lệ lớn về nội dung, khối lượng và cả thời gian
giảng dạy. Ở các lớp 6, 7 học sinh chủ yếu học các động tác đơn giản kết hợp với
các động tác bổ trợ. Lên lớp 8, 9 yêu cầu giảng dạy môn Điền kinh được nâng cao
hơn.
Thông qua thực tế giảng dạy kết hợp với kết quả, chất lượng học tập môn
Thể dục và các hoạt động phong trào TDTT của học sinh ở các trường mà bản thân
đã từng giảng dạy trong những năm qua, tôi đã rút ra những kinh nghiệm quý xin
được chia sẻ cùng đồng nghiệp, đó là: Đổi mới phương pháp giảng dạy kĩ thuật
xuất phát thấp cho học sinh khối 8.
1.2. Điểm mới của sáng kiến:
Đây là một sáng kiến có thể có nhiều Thầy, Cô giáo, các đồng nghiệp qua
nhiều thế hệ đã áp dụng vào những tiết dạy của mình nhưng chưa cụ thể trong phần
trình bày các giải pháp. Bằng sự tâm huyết, đam mê với nghề, với kiến thức mà tôi
đã tích lũy được từ những năm học chuyên nghiệp, hay qua các lớp tập huấn, tham
khảo nhiều tài liệu, sự học hỏi ở các bạn đồng nghiệp cùng kinh nghiệm giảng dạy
nhiều năm công tác tại các trường trong và ngoài Huyện nên tôi đã đầu tư nghiên
cứu tìm ra các giải pháp mang tính khả thi để làm thế nào chất lượng bộ môn Thể
dục, trong đó Điền kinh là nội dung vô cùng quan trọng mà tôi đảm nhiệm có kết

quả cao cho học sinh tại trường mình. Cụ thể là tạo được sự hưng phấn, sự yêu
thích của học sinh nâng cao được lượng vận động mà không cảm thấy mệt mỏi,
nhàm chán. Ý thức tổ chức kỷ luật được nâng cao, giáo dục được tính nhanh nhẹn,
sự phản xạ nhanh. Tạo được cảm giác thoải mái, không bị nhàm chán khi học môn
Thể dục, đặc biệt là trong quá trình tập luyện đội tuyển tham gia các kỳ Hội khỏe
Phù Đổng cấp Huyện, Tỉnh.
2. Phần nội dung:
2.1. Thực trạng của sáng kiến cần giải quyết:
Qua thực tế giảng dạy cho thấy, giáo viên giảng dạy bộ môn Thể dục phần
lớn ở độ tuổi đang còn trẻ, ít kinh nghiệm. Bộ môn Thể dục ít được quan tâm, chú
trọng trong nhà trường do nhiều vấn đề khách quan lẫn chủ quan. Giáo viên ít được
tham gia bồi dưỡng tập huấn về chuyên môn, dự giờ, thao giảng, chuyên đề nên
chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Số tiết quy định trên
tuần của bộ môn Thể dục cũng ít hơn so với một số bộ môn khác nên quá trình học
hỏi từ đồng nghiệp cũng gặp những khó khăn nhất định. Những trường có số lớp ít
có khi chỉ có một giáo viên dạy bộ môn Thể dục nên việc trao đổi về chuyên môn
trong trường gặp rất nhiều khó khăn. Trong quá trình giảng dạy còn nặng về phân
tích kỹ thuật, động tác làm mất thời gian tiết dạy.
Đối với học sinh nhiều em không thích học môn Thể dục với nhiều lý do
khác nhau: hoặc do sức khoẻ, hoặc chưa có sự đam mê nên các em còn thực hiện
2


một cách đối phó. Giáo viên yêu cầu thực hiện thì thực hiện còn không là miễn
cưỡng làm cho xong, chính vì thế mà các em xem nhẹ bộ môn Thể dục, giờ học
chưa sinh động chưa tạo được sự hấp dẫn, sự lặp đi, lặp lại của bài tập nhiều lần
trong một tiết học. Thêm vào đó đại đa số phụ huynh chưa có sự nhìn nhận đúng
đắn về môn Thể dục sẽ mang lại gì cho con em nên chưa có sự động viên khích lệ
các em học, đặc biệt là các em có tố chất thể thao đủ điều kiện để tham gia các đội
tuyển đi thi Hội khỏe Phù Đổng Huyện, Tỉnh.

Mặt khác, do có các quán Internet xung quanh trường học làm cho một số
học sinh chưa hiểu hết về tầm quan trọng của môn học. Chính vì thế mà các em
luôn tìm cách bỏ tiết, bỏ giờ khi đi học trái buổi để ngồi hàng giờ ở các quán
Internet với các trò chơi nguy hại đến sức khỏe mà gia đình cũng như Thầy, Cô
không hay biết.
2.1.1 Khảo sát thực tế:
Trước khi nghiên cứu sáng kiến này, tôi đã khảo sát sự hứng thú của môn
Điền kinh ở 3 lớp mà tôi trực tiếp giảng dạy:
- Nội dung khảo sát:
Câu 1. Thái độ học tập môn Điền kinh của các em là:
A- Rất thích; B- Thích; C- Bình thường; D- Không thích.
Câu 2. Khi tham gia tập luyện thái độ học tập như thế nào?
A- Tham gia tích cực; B- Tham gia thụ động; C- Đứng quan sát.
Hãy khoanh tròn chữ cái đứng trước câu trả lời của em.
- Kết quả:
Câu 1:
Lớp
81
82
83

Tổng
31
29
30

Rất thích
8
9
11


Thích
18
16
17

Bình thường
5
4
2

Không thích
0
0
0

Câu 2:

Lớp
81
82
83

Tổng Tham gia tích cực Tham gia thụ động Đứng quan sát
31
20
11
0
29
22

7
0
30
22
8
0
- Kết quả khảo sát sự yêu thích học môn Điền kinh của 3 lớp tôi trực tiếp giảng

dạy tại trường THCS “A” trước khi vận dụng sáng kiến kinh nghiệm như sau:

Lớp
1

8
82
83

Sĩ số
31
29
30

Đạt
Số lượng
24
24
22

%
77,4

82,8
73,3

Chưa đạt
Số lượng
%
7
22,6
5
17,2
8
26,7

2.1.2. Nội dung của sáng kiến:
Một tiết học Thể dục gồm 3 phần: Phần mở đầu, phần cơ bản, phần kết thúc.
3


Phần mở đầu (Từ 7 - 10 phút): Phần này bao gồm cho việc tổ chức lớp và
khởi động. Phần này có vai trò dẫn dắt và tạo tiền đề cần thiết cho việc thực hiện
các nhiệm vụ chính của giờ học. Ngoài ra còn có thể giải quyết bước đầu một số
nhiệm vụ giáo dục và giáo dưỡng.
Phần cơ bản (Từ 25 - 30 phút): Đây là phần chủ yếu của giờ học nhằm giải
quyết các nhiệm vụ giáo dục, giáo dưỡng và tăng cường sức khỏe đã được quy
định trong chương trình và kế hoạch giảng dạy như: trang bị tri thức cần thiết về kỹ
thuật chạy, nhảy, kỹ năng điều khiển các cơ quan vận động, hình thành và hoàn
thiện hệ thống kỹ năng và kỹ xảo vận động cần thiết phát triển các tố chất vận
động, giáo dục phẩm chất đạo đức, ý chí, trí tuệ …
Phần kết thúc (Từ 5 - 10 phút): Là phần cuối của giờ học. Phần này là phần
hồi tỉnh, tổng kết và đánh giá giờ học nhằm hoàn tất giờ học, đưa cơ thể học sinh

về trạng thái hợp lý, chuẩn bị bước vào môn học tiếp theo.
Trên cơ sở cấu trúc giờ học thể dục, tôi xin mạnh dạn trình bày một vài kinh
nghiệm của bản thân về “Đổi mới phương pháp giảng dạy kĩ thuật xuất phát
thấp cho học sinh khối 8”
* Phần mở đầu.
Phần này trước kia bao giờ cũng làm tuần tự: Đó là giáo viên nhận lớp, phổ
biến nội dung và yêu cầu buổi tập, sau đó cho học sinh khởi động chung và khởi
động chuyên môn. Nhưng qua thực tế, giờ học lấy học sinh làm trung tâm thì thứ
tự đó không nhất thiết phải làm như vậy, mà đến khi giờ học thể dục thì học sinh tự
giác xếp hàng dưới sự chỉ huy của cán sự lớp, sau đó tự giác tập bài khởi động
chung (6 động tác phát triển chung) và khởi động chuyên môn như quay các khớp,
các động tác bổ trợ cho chạy ngắn (chạy bước nhỏ, chạy nâng cao đùi, chạy đạp
sau). Sau đó giáo viên nhận lớp phổ biến nội dung và nhiệm vụ của giờ học.
Ví dụ: Khi dạy kĩ thuật xuất phát thấp. Sau khi cho các em tự giác khởi động
các bài tập kể trên, giáo viên sẽ cho các em tập thêm động tác bổ trợ đánh tay trong
khi chạy, sau đó mới cho học sinh dồn hàng để làm thủ tục nhận lớp. Chính nhờ sự
tự giác tập khởi động ban đầu của học sinh như vậy mà giờ học vừa rút ngắn được
thời gian cho phần mở đầu, vừa có tác dụng giáo dục ý thức tổ chức kỷ luật, tính
tập thể, thói quen rèn luyện của học sinh, đồng thời phát huy vai trò của cán sự lớp
một cách có hiệu quả.
* Phần cơ bản.
Sau khi cho các em thực hiện động tác bổ trợ đánh tay khi chạy, giáo viên
tập trung học sinh củng cố lại những kiến thức cũ: Kĩ thuật giai đoạn chạy lao và
chạy giữa quãng của kĩ thuật chạy ngắn mà các em đã được tập ở các giờ học trước
thông qua các câu hỏi:
+ Chạy ngắn được chia thành mấy giai đoạn ?
+ Giai đoạn nào là quan trọng nhất, quyết định đến thành tích chạy ngắn ?
+ Những yêu cầu của kĩ thuật chạy lao ?
+ Những yêu cầu của kĩ thuật chạy giữa quãng ?
Giáo viên yêu cầu học sinh trả lời từng câu hỏi một, sau đó giáo viên nhắc

lại và củng cố kiến thức của giai đoạn chạy lao và chạy giữa quãng của kĩ thuật
chạy ngắn. Đây là phương pháp củng cố bài học giúp học sinh nắm vững kiến thức
4


đã học ở những tiết trước. Đó là chạy ngắn được chia làm 4 giai đoạn: Xuất phát Chạy lao - Chạy giữa quãng - Về đích. Gia đoạn quan trọng nhất, quyết định đến
thành tích chạy ngắn là giai đoạn chạy giữa quãng. Đánh tay phối hợp với bước
chạy, chạy tăng dần tốc độ và duy trì tốc độ tối đa … chân tiếp xúc với đất bằng
nữa bàn chân trước, thân người thả lỏng, chạy thẳng hướng trên một đường thẳng.
Sau khi giáo viên củng cố kiến thức xong thì giáo viên gọi hai học sinh lên
thực hiện lại kĩ thuật xuất phát cao và chạy. Thông qua kĩ thuật chạy của hai học
sinh, giáo viên cho các em nhận xét về kĩ thuật chạy lao và chạy giữa quãng của
hai bạn, từ đó các em có cách nhìn nhận đúng về kĩ thuật đã học.
Kết thúc phần củng cố kiến thức đã học, giáo viên đưa ra một số câu hỏi để
dẫn dắt học sinh vào bài mới, đó là:
+ Kể tên 4 giai đoạn của kĩ thuật chạy ngắn ?
+ Lớp 7 các em đã học kĩ thuật xuất phát gì ?
+ Thông thường khi xem vô tuyến em thấy chạy ngắn các vận động viên
thường dùng loại xuất phát gì ?
+ Trong xuất phát vận động viên trước khi chạy đạp chân vào cái gì ?
Từ đó giáo viên sẽ dẫn dắt các em vào bài học kĩ thuật xuất phát thấp. Như
vậy, trong chạy ngắn để tăng thêm hiệu quả người ta thường dùng kĩ thuật xuất
phát thấp. Khi xuất phát thấp người ta thường dùng bàn đạp (Giáo viên sẽ giới
thiệu cho học sinh làm quen với chiếc bàn đạp). Phần này giúp học sinh nhận biết
và khẳng định một cách chắc chắn là kĩ thuật xuất phát thấp dùng trong chạy cự ly
ngắn và giờ học hôm nay các em được học và tập một giai đoạn: Giai đoạn đầu
tiên của kĩ thuật chạy ngắn - giai đoạn xuất phát thấp.
Tiếp đó giáo viên hướng dẫn cho học sinh biết cách đóng bàn đạp và vị trí
bàn đạp thông qua tranh vẽ:
Cách bố trí bàn đạp xuất phát cơ bản:


Bên cạnh việc cho học sinh quan sát tranh vẽ, giáo viên gọi 3 học sinh lên
thực hiện các cách bố trí bàn đạp cơ bản, cho các em quan sát thực tế. Từ đó giúp
các em củng cố kiến thức và biết được cách đóng bàn đạp.
5


Sau khi học sinh nắm được vị trí của các bàn đạp, giáo viên phân tích và thị
phạm từng giai đoạn của kĩ thuật xuất phát thấp. Tiếp đó, giáo viên cho học sinh
quan sát tranh vẽ 3 giai đoạn kĩ thuật xuất phát thấp tương ứng với 3 khẩu lệnh:
“Vào chỗ”, “Sẵn sang”, “Chạy”.

Tiếp đó giáo viên thị phạm lại toàn bộ kĩ thuật xuất phát thấp, nhấn mạnh kĩ
thuật của từng giai đoạn. Ở đây, thông qua tranh vẽ minh họa cùng với động tác thị
phạm của giáo viên, học sinh tư duy động tác được nhanh, đúng và hiệu quả.
Khi học sinh đã nắm được các yếu lĩnh kĩ thuật động tác, giáo viên cho các
em dàn hàng ngang như khi khởi động. Giáo viên bố trí để trước mỗi hàng ngang
có một vạch tưởng tượng cho vạch xuất phát để cho học sinh luyện tập. Giáo viên
cho các em tập theo khẩu lệnh “Vào chỗ”. Khi học sinh thực hiện động tác vào vị
trí, giáo viên nhắc lại mấu chốt kĩ thuật của giai đoạn này, đồng thời yêu cầu học
sinh giữ nguyên tư thế, mắt nhìn vào tranh vẽ xem mình đã thực hiện đúng chưa,
rồi tự sửa tư thế cho mình. Sau đó giáo viên đi kiểm tra từng hàng, sửa cho học
sinh còn làm sai như khoảng cách giữa hai tay, hai chân, tay tiếp xúc với đất…
Tiếp đó giáo viên yêu cầu các em đứng dậy và lùi về phía sau 1,5m. Khi nhắc nhở
những sai sót mà các em mắc phải, giáo viên ôn lại động tác theo khẫu lệnh “Vào
chỗ”. Khi các em thực hiện đúng rồi, giáo viên cho các em tập giai đoạn thứ 2 là
giai đoạn “Sẵn sàng”, giáo viên nhắc nhở các em về cách chuyển trọng tâm từ chân
sau sang vai, hai tay và chân trước, cách đổ vai và ra khẩu lệnh cho học sinh thực
hiện (5 điểm tựa thành 4 điểm tựa).
Cũng như giai đoạn “Vào chỗ”, giáo viên yêu cầu các em giữ nguyên tư thế

để kiểm tra và sữa chữa như: Nâng mông quá cao, vai nhô, đầu cúi. Sau khi uốn
nắn sửa chữa, giáo viên cho các em ôn lại kỹ thuật giai đoạn “Vào chỗ”, tiếp tục
tập giai đoạn “Sẵn sàng” từ 2 - 3 lần. Tiếp đó giáo viên cho các em thả lỏng tại
chỗ, đồng thời nhắc các em về giai đoạn “Chạy”, chú ý động tác đạp chân, đánh
tay để giữ thăng bằng và khi vào tư thế chạy lao rồi cho các em thực hiện đầy đủ 3
giai đoạn “Vào chỗ”, “Sẵn sàng”, “Chạy” khoảng 5 - 10m.
Sau khi cho cả lớp cùng tập 3 giai đoạn của kĩ thuật xuất phát thấp, học sinh
đã nắm được kĩ năng thực hiện động tác, giáo viên cho các em tập theo nhóm. Mỗi
nhóm từ 3 đến 5 học sinh dưới sự chỉ huy của cán sự lớp luyện tập xuất phát thấp
và chạy ngắn. Ở phần này học sinh tự giác tích cực luân phiên tập luyện. Giáo viên
quan sát, nhắc nhở tư thế khi các em vào giai đoạn chạy lao cho đúng, không dựng
người quá sớm, chú ý đánh tay để giữ thăng bằng.
6


Qua thực tế bài dạy kĩ thuật xuất phát thấp, giáo viên nhận thấy nhờ có tranh
minh họa kĩ thuật xuất phát thấp mà học sinh hình thành kĩ năng động tác tốt và
nhanh hơn khi không dùng tranh minh họa. Việc phân nhóm tập luyện giúp các em
nữ mạnh dạn hơn trong khi tập, đồng thời thời gian tập luyện quay vòng của các
em cũng nhiều hơn, đảm bảo lượng vận động của giờ học được tối đa nhất.
Khi kết thúc phần cơ bản, giáo viên tập trung học sinh nhấn mạnh mấu chốt
của kĩ thuật xuất phát thấp và vị trí đặt bàn đạp. Đặc biệt là các giai đoạn:
+ Giai đoạn “Vào chỗ”: Tư thế người, khoảng cách giữa hai chân từ 10 20cm, khoảng cách giữa hai tay rộng bằng hoặc hơn vai một chút, trọng tâm dồn
đều vào 5 điểm tựa, bàn tay tiếp đất bằng 5 đầu ngón tay, tay chếch hình chữ V.
+ Giai đoạn “Sẵn sàng”: Nâng mông, chuyển trọng tâm về trước, vai đổ về
trước, mắt nhìn thẳng.
+ Giai đoạn “Chạy”: Đạp chân sau vào bàn đạp sau rồi bước về trước một
bước nhỏ, tiếp đó đạp chân trước vào bàn đạp trước, đánh tay lao người về trước.
Giáo viên gọi 2 học sinh thực hiện tốt kĩ thuật xuất phát thấp lên thực hiện
để cả lớp cùng quan sát và củng cố lại bài.

Phần củng cố bài này, khi học sinh đã thực hiện các bước trên thì hầu hết các
em đều nắm được bài tốt, kiến thức vững vàng, kĩ năng thực hiện động tác đúng,
đạt yêu cầu cao.
* Phần kết thúc.
Phần kết thúc của bài kĩ thuật xuất phát thấp, giáo viên cho các em thả lỏng
sau đó ổn định lớp, nhận xét ưu, khuyết điểm của nội dung giờ học và giao bài tập
về nhà.
2.2. Các giải pháp thực hiện:
2.2.1. Áp dụng một số bài tập có hiệu quả gây hứng thú tập luyện:
a. Một số động tác bổ trợ và phát triển thể lực:
Cách thức thực
TT
Tên bài tập
Yếu tố kĩ thuật cần chú ý
hiện
Đứng mặt
Đứng hai bàn chân song song
1
hướng chạy Thực hiện cá nhân. sát vào nhau, mũi bàn chân sát
xuất phát
vạch xuất phát.
Hai bàn chân chạm đất bằng
2
Ngồi - xuất phát Thực hiện cá nhân.
nửa bàn chân trên.
Chân khỏe trước, sát sau vạch
3
Xuất phát cao
Thực hiện cá nhân. xuất phát. Trọng tâm dồn đều
vào hai chân

b. Một số trò chơi nhằm tăng hứng thú học tập cho học sinh.
- Chạy đuổi.
- Chạy tốc độ cao.
- Chạy theo hiệu lệnh còi.
- Chạy tiếp sức.
- Lò cò tiếp sức.
- Chạy thoi tiếp sức.
2.2.2. Tạo không khí vui vẻ và thi đua sôi nổi cho tất cả học sinh để nâng
cao chất lượng tiết học, đồng thời khuyến khích học sinh tập luyện ở nhà.
7


Trong tiết học thể dục có xen kẻ nhiều trò chơi và hấp dẫn bao giờ học sinh
cũng thích thú. Nắm được đặc điểm này tôi luôn luôn tạo ra không khí vui vẻ và thi
đua trong lớp, giúp học sinh hoàn thành nhanh các bài tập, đồng thời nâng cao kết
quả học tập của từng học sinh.
Khuyến khích học sinh về nhà tập thể dục (không nhất thiết là các bài tập
trên lớp). Điều đó giúp các em ham thích hoạt động và có sức khỏe hơn, không uể
oải trong giờ học thể dục.
Ví dụ như: Tôi khuyến khích các em về buổi sáng hoặc chiều có thể chạy bộ,
đá bóng, đánh cầu lông...Đó cũng chính là cách tập luyện ở nhà của mỗi học sinh.
Cùng với đó là tổ chức các trò chơi liên quan đến nội dung học cho phù hợp
để tăng thêm phần hứng khởi cho các em giúp các em tập luyện tích cực hơn.
Ví dụ như: Chạy tiếp sức – bổ trợ cho giai đoạn chạy giữa quãng.
Kết hợp với nhà trường tổ chức thi các môn thể thao nhằm làm cho học sinh
thêm yêu thích môn học hơn hổ trợ cho giáo viên tuyển chọ học sinh có năng khiếu
tham gia vào các đội tuyển.
2.2.3. Các biện pháp thực hiện trên lớp:
* Khâu kiểm tra:
Cần kiểm tra độ an toàn của sân tập, dụng cụ học tập và kiểm tra sự chuẩn bị

trang phục tập luyện của học sinh. Đây là khâu quan trọng vì nếu không kiểm tra
kỹ thì giáo viên sẽ không làm chủ được tiết dạy, độ an toàn của việc tập luyện
không cao, tâm lí học sinh không thật sự vững vàng khi bước vào giờ học.
* Giải thích kĩ thuật động tác cần ngắn gọn, chính xác:
Không nhất thiết phải giải thích kỹ quá. Khi học sinh đã học những vấn đề
cơ bản ở các tiết trước không cần nhắc lại. Xen kẽ giữa hai lần tập giáo viên nên
cho học sinh nghỉ một cách tích cực để giáo viên giải thích thêm những điều học
sinh chưa hiểu kỹ, củng cố và bổ sung những kiến thức có liên quan. Như vậy học
đi đôi với hành, lí thuyết gắn liền với luyện tập để nắm vững, củng cố và nâng cao
kiến thức, kĩ năng vận động và rèn luyện thể lực cho học sinh.
* Phối hợp khởi động và các bài tập bổ trợ:
Thông thường giáo viên cho học sinh tập bài khởi động, tiếp đến là bài tập
bổ trợ cho nội dung bài học. Khi thực hiện như vậy sẽ làm mất thời gian, vì vậy
giáo viên có thể cho học sinh kết hợp hai bài tập thành một. Để làm được điều này
giáo viên cần căn cứ vào từng tiết dạy để chọn những động tác vừa có tác dụng
khởi động, vừa có tác dụng bổ trợ cho các động tác chính mà học sinh sẽ học tiếp
ngay sau đó.
* Kết hợp làm mẫu của giáo viên với việc sử dụng tranh kĩ thuật:
Việc làm mẫu của giáo viên có tầm quan trọng đặc biệt và không thể thiếu
khi lên lớp, nếu không làm mẫu chuẩn thì học sinh sẽ không nắm được kĩ thuật dẫn
đến việc tập luyện sẽ không chính xác, đặc biệt là khi dạy kĩ thuật mới. Tuy nhiên
do nhiều nguyên nhân: trình độ chuyên môn, sức khoẻ, năng khiếu thể thao của
giáo viên nên việc làm mẫu của giáo viên còn gặp nhiều hạn chế nhất định như:
làm mẫu không chuẩn, không dứt khoát, không rõ kĩ thuật dẫn đến việc nắm bắt kĩ
thuật của các em k tốt.
Để khắc phục những hạn chế đó, giáo viên có thể sử dụng tranh ảnh kĩ thuật
8


giới thiệu và phân tích để học sinh nhận biết kĩ thuật, động tác dễ hơn. Mặt khác,

học sinh vừa học vừa đối chiếu với hình vẽ để tự sửa chữa những kĩ thuật còn chưa
đúng của mình. Nhưng cũng không nên lạm dụng tranh vẽ, mà phải suy nghĩ và
tính toán xem sử dụng tranh kĩ thuật vào thời điểm nào, sử dụng như thế nào để
phát huy được tác dụng của tranh kĩ thuật, học sinh có ấn tượng sâu và có hứng thú
trong quá trình học tập.
* Tổ chức lên lớp phải thực sự khoa học:
Việc tổ chức học sinh luyện tập là khâu quan trọng và then chốt. Những tiết
dạy của giáo viên chưa thành công cũng phần lớn là do khâu tổ chức luyện tập cho
học sinh còn yếu. Các nhóm, tổ hoạt động không thường xuyên, giáo viên phân
việc chưa khoa học hoặc giáo viên không có kỹ năng bao quát, quản lí học sinh...
Điều đó làm ảnh hưởng tới chất lượng, hiệu quả của bài dạy, và như vậy kĩ năng
vận động không thành, thể lực cũng không đạt.
Do vậy, ngay từ khi soạn bài, chuẩn bị cho bài lên lớp giáo viên phải tính
đến khâu tổ chức luyện tập thực sự khoa học, thể hiện ở những nội dung sau:
- Vị trí luyện tập để học sinh quan sát được tranh kĩ thuật hay người làm
mẫu.
- Khoảng cách đứng cách nhau bao nhiêu để không ảnh hưởng đến nhóm, tổ
khác.
* Tổ chức trò chơi:
Thường xuyên tổ chức các trò chơi để gây hứng thú học tập. Giáo viên
nghiên cứu kỹ các hoạt động và chuyển một số hoạt động thành trò chơi để thay
đổi không khí học tập.
* Công tác kiểm tra, đánh giá:
Việc kiểm tra, đánh giá chiếm vị trí rất quan trọng. Nếu việc kiểm tra, đánh
giá không thường xuyên sẽ dẫn đến việc học sinh chủ quan, xem nhẹ và không chú
ý học tập và rèn luyện.
2.2.4. Nguyên nhân dẫn đến kết quả trên:
* Nguyên nhân chủ quan.
- Đối với giáo viên:
Bên cạnh những giáo viên rất nhiệt tình, tận tụy, không ngừng học hỏi, trau

dồi kinh nghiệm để nâng cao chất lượng các giờ học nói chung và chất lượng của
việc dạy học tự chọn trong môn Thể dục nói riêng thì vẫn còn một số ít giáo viên
chưa thực sự nhận biết được tầm quan trọng của việc đưa những phương pháp vào
giảng dạy dẫn đến hiệu quả giờ học chưa cao. Ngoài ra, một số giáo viên chưa có
phương pháp phù hợp và hiệu quả. Có giáo viên do phương pháp yếu nên học sinh
thực hiện các động tác trong môn học chưa hiệu quả, hoặc đưa ra phương pháp
chưa lôi cuốn được học sinh, thị phạm động tác còn chưa dứt khoát nên học sinh
làm theo cái sai của chính giáo viên dạy.
- Đối với học sinh:
Bên cạnh những học sinh có ý thức học, có ý thức tập luyện, thì còn rất
nhiều học sinh chưa thực sự nhận thức được tầm quan trọng của bộ môn, còn uể
oải, lười vận động, thực hiện các động tác còn chưa tập trung, mang tính chất chiếu
9


lệ, đối phó, một số em còn sợ khi tập luyện vì thế tập luyện không tích cực dẫn tới
chất lượng các giờ học Thể dục chưa đạt kết quả cao như mong muốn.
* Nguyên nhân khách quan:
- Đối với giáo viên:
Do lượng thời gian cho mỗi tiết học còn ít nên giáo viên không quan tâm hết
mọi học sinh trong lớp, chỉ quan tâm đến các em thực hiên tốt và khá tốt.
Do cơ sở vật chất, đồ dùng thiết bị dạy học cũng chưa thực sự đầy đủ, đáp
ứng được yêu cầu cần thiết nên có ảnh hưởng tới chất lượng giờ học.
Do môn thể dục ở các trường không được coi trọng ở trường trung học cơ sở
nên giáo viên chưa có sự quan tâm và đầu tư đúng mức tới việc nghiên cứu phương
pháp vào bài dạy.
- Đối với học sinh :
Do học sinh chưa thực sự nhận được hướng dẫn của giáo viên, chưa nhận
được sự quan tâm đúng mực của các phụ huynh ...nên hiện thực học sinh còn yếu
trong các trường trung học cơ sở.

2.2.5. Kết quả thực hiện sáng kiến:
Nhờ áp dụng các giải pháp trên mà trong những năm gần đây chất lượng dạy
học môn Thể dục và chất lượng thành tích thi đấu thể dục thể thao mà tôi đảm
nhận đã có bước tiến bộ rõ rệt. Qua quá trình vận dụng vào trong giảng dạy tôi đã
chọn lọc rất nhiều bài tập bổ trợ lồng ghép vào quá trình dạy học nên bước đầu đã
đạt được những dấu hiệu tích cực cho học sinh: Học sinh chăm chú lắng nghe thầy,
cô giảng bài, nổ lực tập luyện để hoàn thành nhiệm vụ bài học. Kích thích được
tính hiếu động của học sinh, học sinh thích học môn Thể dục nhiều hơn, học sinh
có nhiều ý kiến đóng góp. Chất lượng môn học và thể lực và đặc biệt là thành tích
trong các kỳ Hội khỏe Phù Đổng được nâng lên.
Lớp
81
82
83

Tổng
31
29
30

Rất thích
17
14
16

Thích
13
14
14


Bình thường
1
1
0

Không thích
0
0
0

- Kết quả khảo sát chất lượng sau khi kết thúc bộ môn học Điền kinh của 3 lớp tôi
trực tiếp giảng dạy tại trường THCS “A” sau khi vận dụng sáng kiến kinh nghiệm như
sau:

Chưa đạt
Số lượng
%
Số lượng
%
1
8
31
31
100,0
0
0,0
2
8
29
28

96,6
1
3,4
3
8
30
29
96,7
1
3,3
Từ kết quả trên để kiểm chứng việc lựa chọn nhiều phương pháp vào giảng
dạy đã đem lại kết quả cao hơn nhiều so với đầu năm học chưa áp dụng trước đó,
cũng như sự yêu thích của học sinh đã tăng rất nhiều, các em đã yêu thích môn học
nhiều hơn, không còn lo sợ và thờ ơ với nội dung bài học. Từ kết quả trên cho
Lớp

Sĩ số

Đạt

10


phép tôi đưa ra bài học sau kinh nghiệm sau khi giảng dạy phần “Đổi mới phương
pháp giảng dạy kĩ thuật xuất phát thấp cho học sinh khối 8”:
- Nội dung chương trình phải xây dựng cho thật phù hợp với đối tượng của học
sinh, không yêu cầu cao quá đối với học sinh có tố chất trung bình cũng như bài
tập không đơn điệu quá đối với những em có tố chất tốt. Trong đó đặc biệt chú ý
đến một số em còn yếu (năng khiếu) để có bài tập bổ trợ dẫn dắt riêng. Chú ý đến
những em có năng khiếu, các bài tập dành cho những học sinh này phải mang tính

sinh động, hấp dẫn để lôi cuốn các em.
- Phương pháp sử dụng dạy học giáo viên nên chọn phương pháp phân nhóm,
quay vòng. Những học sinh yếu hơn cho tập riêng các bài tập dễ hơn và chậm hơn
so với các em có năng khiếu.
- Sử dụng cán sự lớp hoặc những em có năng khiếu để sửa sai cho nhóm có
trình độ tiếp thu kĩ thuật chậm.
- Đồ dùng dạy học cần phải đủ, phù hợp để học sinh tập luyện, tránh tình
trạng 2 - 4 em tập cả lớp ngồi xem.
- Khuyến khích được học sinh tự giác trong tập luyện ở trường cũng như ở
nhà bằng hình thức thi đấu giữa các nhóm, tổ (có thể cộng điểm rèn luyện thêm
cuối năm).
3. Phần kết luận:
3.1. Ý nghĩa, phạm vi ứng dụng của sáng kiến:
Qua một năm nghiên cứu và áp dụng sáng kiến này, tôi nhận thấy các em đã
hiểu được vai trò, tác dụng của việc học tập môn Thể dục nói chung và môn chạy
ngắn nói riêng, trong đó kĩ thuật xuất phát thấp hết sức quan trọng. Các em đã biết
tự tập luyện, nâng cao thành tích, hầu hết các em đều ham thích học môn này. Qua
đây, tôi hứng thú hơn trong công tác chuyên môn, giảng dạy chương trình chính
khóa cũng như huấn luyện tham gia thi các giải đạt kết quả. Năm học trước tôi
nhận thấy, các em khi tập luyện còn chưa nhiệt tình, sợ tập thể dục, kết quả giảng
dạy bộ môn còn chưa cao, học sinh tham gia các giải mới chỉ dừng lại ở cấp
Huyện, chưa có cấp Tỉnh. Các em chưa thực sự hiểu được vai trò, tác dụng của
việc học tập môn Thể dục nói chung và môn chạy cự lý ngắn nói riêng, trong đó có
kĩ thuật xuất phát thấp. Giờ học còn gò bó, nặng nề. Nhưng với lòng say mê nghề
nghiệp, tôi thường xuyên tham gia dự giờ, trao đổi kinh nghiệm chuyên môn,
không ngừng học tập, nhất là trong kỳ thi giáo viên dạy giỏi. Giáo viên đã khắc
phục được các nhược điểm, phát huy được khả năng sở trường của học sinh tạo
phong trào thể dục thể thao trong nhà trường sôi nổi góp phần đưa thành tích thể
dục thể thao của nhà trường ngày một đi lên. Trong quá trình giảng dạy, tôi đã thay
đổi phương pháp dạy sao cho phù hợp với đặc điểm lứa tuổi ở các khối lớp. Qua

việc nghiên cứu và thể nghiệm sáng kiến vào thực tế giảng dạy, tôi đã rút ra được
một số bài học kinh nghiệm sau:
- Nâng cao hứng thú và chất lượng tiếp thu các bài tập, động tác ở học sinh.
Do đó, học sinh đạt kết quả khá - giỏi cao và không còn học sinh yếu - kém mô thể
dục. Qua giảng dạy, tôi khắc phục được tình trạng không đồng đều giữa các em
đáp ứng yêu cầu của chương trình thể dục mới.
11


- Hoạt động tập luyện của các em diễn ra chủ động tích cực, mạnh dạn hơn.
Qua tập luyện, tôi đã phát hiện và động viên các em tham gia thi thể thao các cấp
và đạt kết quả cao.
- Quỹ thời gian giáo viên hoạt động giảm dần và tăng dần hoạt động tập
luyện của học sinh. Lúc này người giáo viên với vai trò hướng dẫn động tác, quan
sát tập luyện và củng cố động tác, bài tập kĩ thuật cho học sinh.
- Tạo không khí vui vẻ và thi đua sôi nổi cho tất cả học sinh tham gia vào trò
chơi để nâng cao chất lượng tiết học. Đồng thời khuyến khích học sinh tập luyện ở
nhà.
3.2. Kiến nghị, đề xuất:
Qua sáng kiến kinh nghiệm này, xin được đề xuất một số ý kiến kiến nghị
sau:
- Nhà trường cần đầu tư mua sắm tài liệu chuyên môn, đồ dung tập luyện đủ,
đảm bảo tiêu chuẩn, kịp thời để công tác học tập và tập luyện không bị gián đoạn.
- Tham mưu với chính quyền địa phương mở rộng khuôn viên sân thể dục
đảm bảo theo quy định, tạo điều kiện tốt cho việc dạy và tập luyện.
- Tuyên truyền với các bậc phụ huynh và học sinh tác dụng, lợi ích của tập
luyện Thể dục nói riêng và các môn thể thao khác nói chung, từ đó nhờ sự giúp sức
của phụ huynh trên một số mặt của công tác tập luyện.
- Giáo viên cần nâng cao chuyên môn nghiệp vụ để khi tập luyện không lúng
túng, yếu về chuyên môn trước học sinh của mình.

- Thường xuyên tổ chức các cuộc thi năng khiếu để các em bộc lộ những kĩ
năng học được của mình, từ đó có cơ tham gia tập luyện nâng cao hơn nữa kĩ thuật
và thành tích của mình đã tiếp thu được.
- Cần đảm bảo chất lượng giảng dạy chính khoá môn thể dục, quan tâm phát
triển ngoại khoá các môn thể thao.
- Khuyến khích, động viên giáo viên tìm tòi và đưa các trò chơi vận động
phù hợp với yêu cầu từng bài học và đặc điểm sức khỏe, giới tính của từng học
sinh vào bài dạy một cách sinh động, lôi cuốn các em.
- Người giáo viên phải kết hợp linh hoạt giữa đánh giá kiểm tra của Thầy với
tự đánh giá của trò. Qua đó uốn nắn, động viên, nhắc nhở sửa chữa cho phù hợp và
hiệu quả với từng cá nhân học sinh.
Trên đây là những kinh nghiệm nhỏ, một vài phương pháp dạy mà cá nhân tôi
rút ra được qua quá trình giảng dạy nên không tránh khỏi thiếu sót mong rằng qua
sáng kiến này nhận được sự đóng góp ý kiến của cấp trên, của các đồng nghiệp để
sáng kiến này hoàn thiện hơn, được áp dụng rộng rãi hơn. Từ đó góp phần nâng
cao chất lượng giảng dạy môn Thể dục nói riêng và chất lượng giáo dục thể chất
nói chung.

XÁC NHẬN CỦA HĐKH TRƯỜNG THCS HẢI NINH
12


………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

XÁC NHẬN CỦA HĐKH PHÒNG GD& ĐT QUẢNG NINH

………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

13


Mục lục

Trang

1. Phần mở đầu:…………………………………………………………………. 1
1.1. Lí do chọn sáng kiến:…………………………………………………….. 1
1.2. Điểm mới của sáng kiến: ……………………………………………….…2
2. Phần nội dung:....................................................................................................2
2.1. Thực trạng của sáng kiến cần giải quyết: .................................................2
2.1.1 Khảo sát thực tế:……………………………………………………….…3
2.1.2. Nội dung của sáng kiến:…………………………………………...….…3
2.2. Các giải pháp thực hiện:……………………………………………..….…7
2.2.1. Áp dụng một số bài tập có hiệu quả gây hứng thú tập luyện:……….…7
2.2.2. Tạo không khí vui vẻ và thi đua sôi nổi cho tất cả học sinh để nâng cao chất
lượng tiết học, đồng thời khuyến khích học sinh tập luyện ở nhà:…………….7
2.2.3. Các biện pháp thực hiện trên lớp: ...........................................................8
2.2.4. Nguyên nhân dẫn đến kết quả trên:..........................................................9
2.2.5. Kết quả thực hiện sáng kiến: ……………………………………………..10
3. Phần kết luận:......................................................................................................11

3.1. Ý nghĩa, phạm vi ứng dụng của sáng kiến:.................................................11
3.2. Kiến nghị, đề xuất: ……………………………………………………..….12

TÀI LIỆU THAM KHẢO
14


Thứ
tự

1

2

3

4

5
6

Tên sách

Tên tác giả

Năm
Nhà xuất bản

xuất
bản


Sách giáo viên thể
dục 6.
Sách giáo viên thể
dục 7.
Sách giáo viên thể
dục 8.
Sách giáo viên thể
dục 9.
Bác Hồ với thể thao
Việt Nam
Sách Điền kinh

Trần Đồng Lâm

Giáo dục Việt Nam

2002

Trần Đồng Lâm

Giáo dục Việt Nam

2003

Trần Đồng Lâm

Giáo dục Việt Nam

2004


Trần Đồng Lâm

Giáo dục Việt Nam

2005

PGS: Lê Bửu

TDTT Hà Nội

1995

Đồng tác giả

TDTT Hà Nội

2000

TDTT Hà Nội

2000

PGS-PTS:
Nguyễn Toán
Lý luận và phương
7

pháp thể dục thể
thao.


GS-PTS:
Lê Văn Lẫm
PTS:
Phạm Duy Tốn

15



×