Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

lUẬN văn THẠC sĩ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG vốn tại BIDV CHI NHÁNH NAM hà nội GIAI đoạn 2008 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (466.57 KB, 108 trang )

CHƯƠNG TRÌNH THẠC SỸ QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ

ĐỀ TÀI LUẬN VĂN:
NÂNG CAO HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN TẠI BIDV CHI NHÁNH
NAM HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2008-2012

1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Năm 2011 là một năm đầy bão táp cho nền kinh tế Việt Nam nói chung và
đối với các doanh nghiệp nói riêng, những cố gắng của Chính Phủ đã giúp nền kinh
tế Việt Nam vượt qua được năm 2011 đầy khó khăn, tuy nhiên vẫn còn đó những
thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam trong năm 2012.
Trong năm 2012, kinh tế Việt Nam vẫn phải đối mặt với những khó khăn từ
khủng hoảng kinh tế thế giới, ảnh hưởng từ việc sụt giảm các nguồn vốn đầu tư trực
tiếp và nguồn vốn đầu tư gián tiếp từ nước ngoài. Để đạt được mục tiêu tăng trưởng
GDP từ 6-6,5% trong năm 2012, lạm phát dưới 1 con số, bội chi ngân sách nhà
nước dưới 4,8% và tăng trưởng tín dụng từ 13-15% đòi hỏi sự điều hành linh hoạt
Chính phủ và có thể thấy Ngân hàng nhà nước và Bộ Tài chính sẽ theo đuổi chính
sách tiền tệ thắt chặt, ba lĩnh vực dự báo sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn là bất
động sản, thị trường chứng khoán và ngân hàng thương mại.
Hiệu quả hoạt động kinh doanh là yếu tố sống còn đối với bất kỳ doanh
nghiệp nào. Để thành lập một doanh nghiệp và tiến hành các hoạt động sản xuất
kinh doanh, vốn là điều kiện tiên quyết để duy trì và phát triển sản xuất, nó phản
ánh nguồn lực tài chính được đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Nhu cầu về vốn là
một trong những bức xúc của doanh nghiệp, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, khi
mà các doanh nghiệp đều mong muốn đầu tư mở rộng sản xuất, đa dạng hoá dịch vụ
nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp sau khi Việt Nam gia nhập
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Vốn là điều kiện quyết đinh sức cạnh tranh


của các doanh nghiệp cũng như đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam. Hiệu
quả huy động vốn là điều kiện để các ngân hàng có thể tồn tại và phát triển. Cũng
như nghiệp vụ cho vay, nghiệp vụ huy động vốn là một nghiệp vụ chính, nghiệp vụ
cơ bản tạo lên đặc trưng bản chất của một ngân hàng thương mại.
Trong quá trình phát triển nền kinh tế xã hội ở Việt Nam hiện nay, nhu cầu về
vốn luôn là vấn đề được ưu tiên hàng đầu trước khi bắt đầu một năm tài khóa mới.
2


Đề cập tới vấn đề này để cho thấy việc phát triển kinh tế xã hội, việc phát triển của
các doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào nguồn vốn. Đặc biệt là các Ngân hàng
thương mại, một chế tài trong thị trường tài chính, hoạt động trong lĩnh vực kinh
doanh tiền tệ thì vốn càng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Trong môi trường
cạnh tranh gay gắt như hiện nay, khi tính chất, quy mô và tính khốc liệt của cạnh
tranh trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng lớn thì hiệu quả huy động vốn là một
trong những yếu tố giúp cho ngân hàng nâng cao nâng cao khả năng cạnh tranh của
mình trên thị trường. Hoạt động chính của Ngân hàng thương mại là cho vay, tức là
cung cấp vốn thu lãi. Vì thế để đáp ứng đủ nhu cầu vốn của thị trường, Ngân hàng
thương mại phải huy động vốn từ bên ngoài. Nói cách khác, Ngân hàng muốn tồn
tại và phát triển thì việc huy động vốn đóng một vai trò then chốt. Mặt khác, các tổ
chức tín dụng, đặc biệt là các Ngân hàng thương mại phát triển là tiền đề cho thị
trường vốn phát triển. Qua đó tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của nền kinh
tế xã hôi. Nói như trên để chúng ta thấy rằng việc huy động vốn của các Ngân hàng
thương mại mang một tính chất quan trọng như thế nào trong sự phát triển của nền
kinh tế hiện nay và làm bật lên việc phải nghiên cứu các nghiệp vụ huy động vốn
của Ngân hàng thương mại.
Với những khó khăn mà các Ngân hàng thương mại phải đối mặt trong năm
2012, thì mục tiêu huy động vốn được đặt lên hàng đầu bên cạnh việc kiểm sóat tỷ
lệ tăng trưởng và chất lượng tín dụng, hạn chế nợ xấu.
Ngân hàng là một ngành kinh doanh đặc thù với những sản phẩm dịch vụ đặc

thù nơi mà vốn chủ sở hữu chiếm tỷ lệ nhỏ so với lượng vốn hoạt động do vậy huy
động được càng nhiều vốn từ các chủ thể khác trong nền kinh tế thì hoạt động của
các ngân hàng càng được thực hiện một cách dễ dàng hơn. Có huy động được thì
ngân hàng mới có vốn để cho vay và thực hiện các hoạt động khác một cách hiệu
quả từ đó đẩy mạnh hơn nữa hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Chính vì vậy
ngày nay các ngân hàng đua nhau nâng lãi suất để tăng cường huy động vốn.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu rồi suy thoái kinh tế thế giới diễn ra từ
giữa năm 2008 đến nay đã có tác động không nhỏ đến việc huy động vốn cũng như
3


hoạt động cho vay của hệ thống các Ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và
của BIDV nói riêng.
Hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đã và đang tạo ra rất nhiều thách thức cho
các Ngân hàng thương mại Việt Nam. Một thực tế cho thấy hiện nay các Ngân hàng
thương mại Việt Nam đang rất thiếu vốn do khả năng cạnh tranh trong việc huy
động vốn còn hạn chế và chất lượng của các sản phẩm dịch vụ hỗ trợ cũng chưa
thực sự đáp ứng được nhu cầu cho khách hàng từ đó dẫn tới hiệu quả kinh doanh
còn thấp.
Trong những năm qua, vấn đề Vốn luôn là vấn đề đặt lên hàng đầu đối với
BIDV chi nhánh Nam Hà Nội. Công tác huy động vốn được đánh giá là hiệu quả
khi Ngân hàng luôn đảm bảo được nguồn vốn dồi dào đáp ứng nhu cầu rút tiền cũng
như nhu cầu vay vốn của dân cư, doanh nghiệp, các tổ chức khác. Với phương châm
coi huy động vốn là khâu quan trọng, mở đường và tạo mặt bằng vốn tăng trưởng
vững chắc, BIDV chi nhánh Nam Hà Nội đã cố gắng thực hiện đa dạng hóa các
hình thức huy động vốn khác nhau thông qua việc không ngừng mở rộng mạng lưới
giao dịch cũng như nâng cao và hoàn thiện chất lượng dịch vụ ngân hàng với tiêu
chí: “Nhanh chóng, chính xác, thuận tiện cho khách hàng”. Tuy nhiên, Vốn vẫn là
vấn đề “nóng” đối với BIDV chi nhánh Nam Hà Nội. Nền kinh tế nhiều biến động,
sự tăng, giảm của giá vàng, giá ngoại tệ ảnh hưởng lớn đến tâm lý người dân, giá

vàng tăng khiến phần lớn người dân có xu hướng rút tiền gửi từ Ngân hàng để kinh
doanh vàng nhằm kiếm lợi nhanh chóng. Thị trường bất động sản cũng là nơi khiến
đồng tiền trong tay những người buôn bất động sản sinh sôi. Do vậy, với mức lãi
suất có thể gọi là thấp như hiện nay, Ngân hàng khó có thể thu hút nguồn tiền gửi từ
dân cư cũng như các doanh nghiệp. Thiếu vốn Ngân hàng khó có thể đảm bảo
nguồn tiền cung ứng cho dân cư, doanh nghiệp có nhu cầu vay ra.
Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nói trên tôi quyết định lựa
chọn đề tài: “ Nâng cao hiệu quả huy động vốn tại BIDV chi nhánh Nam Hà
Nội” làm đề tài luận văn thạc sỹ cho mình, nhằm nâng cao nhận thức lý luận và
kinh nghiệm thực tế cho bản thân, góp phần nhất định trong việc hoàn thiện công
4


tác huy động vốn cho Chi nhánh. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn là làm rõ một số
vấn đề cơ bản về huy động vốn, từ đó đề xuất kiến nghị để hoàn thiện công tác huy
động vốn.
2. Mục đích nghiên cứu
 Luận giải những vấn đề lý luận cơ bản liên quan tới hiệu quả huy động vốn
của các Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường.
 Phân tích và đánh giá hiệu quả huy động vốn tại BIDV chi nhánh Nam Hà
Nội để thấy rõ những kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế và nguyên nhân của
nó.
 Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại BIDV chi nhánh
Nam Hà Nội trong điều kiện tự do hóa cạnh tranh đang diễn ra ở nước ta hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
 Đối tượng nghiên cứu: Hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng thương mại
 Phạm vi nghiên cứu:
Hiệu quả huy động vốn tại BIDV chi nhánh Nam Hà Nội giai đoạn 2008-2012,
từ đó đưa ra một số giải pháp và kiến nghị để nâng cao hiệu quả huy động vốn trong
thời kỳ tới.

4.Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp sau để nghiên cứu:
- Phương pháp phân tích định tính.
- Phương pháp phân tích định lượng.
- Phương pháp thu thập thông tin số liệu: các số liệu được thu thập từ:
+ Báo cáo tổng kết kết quả hoạt động kinh doanh của BIDV chi nhánh Nam
Hà Nội giai đoạn 2008-2012
+ Các tài liệu, báo, tạp chí chuyên ngành có liên quan.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp:
+ Phân tích tổng hợp theo thời gian (giai đoạn 2008-2012)
+ Phân tích tổng hợp theo không gian (so sánh với các NHTM khác)
+ Phân tích tổng hợp theo nhóm vấn đề, nhóm đối tượng.
5


- phương pháp so sánh.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn bao gồm 3 chương:
Chương I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG
VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Chương II. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG
VỐN TẠI BIDV – CHI NHÁNH NAM HÀ NỘI
Chương III. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN
TẠI BIDV – CHI NHÁNH NAM HÀ NỘI

6


CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN CỦA

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Nguồn vốn và huy động vốn của Ngân hàng thương mại
1.1.1. Vốn và sự cần thiết phải huy động vốn
Vốn trong kinh tế học là một phạm trù tương đối phức tạp và khó tìm được
một định nghĩa thống nhất giữa các quan điểm từ trước đến nay. Trong tác phẩm Tư
bản luận của mình, Các Mác đã khái quát phạm trù vốn thành phạm trù cơ bản.
Theo Các Mác, tư bản là giá trị mang lai giá trị thặng dư. Định nghĩa này thể hiện
đầy đủ bản chất của vốn: 1) vốn phải đại diện cho một loại tài sản nhất định nào đó;
2) vốn phải luôn luôn vận động, luôn luôn sinh lời trong quá trình vận động; 3) vốn
là một loại hàng hóa và cũng như những loại hàng hóa khác, nó có chủ đích thực.
Nói ngắn gọn, vốn là một bộ phận của cải được dùng vào sản xuất để làm ra của cải
nhiều hơn.
Tóm lại: Vốn là các tài sản trong xã hội được đưa vào đầu tư nhằm mang lại
hiệu quả trong tương lai. Vì thế trong nền kinh tế thị trường dù hoạt động trong lĩnh
vực nào thì vốn cũng là một yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả của hoạt động
đó. Ngân hàng cũng vậy, muốn hoạt động kinh doanh có hiệu quả, mang lại hiệu
quả cao thì công tác huy động vốn cần phải được quan tâm đúng mức.
1.1.2. Nguồn vốn của ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Hệ thống NHTM được ra đời được coi là kết quả của quá trình lâu dài hình
thành và phát triển của kinh tế hàng hoá, của quan hệ hàng hoá tiền tệ. Ở nhiều
nước tuy khái niệm về NHTM có những đặc điểm khác nhau nhưng đều cho rằng
NHTM là một doanh nghiệp chuyên kinh doanh tiền tệ, là tổ chức trung gian tài
chính, là nơi dẫn vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu vốn.
Ở Việt Nam, Pháp lệnh Ngân hàng, HTX Tín dụng và Công ty tài chính năm
1990 có định nghĩa: “ Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ, mà hoạt
động chủ yếu là thường xuyên nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn
7



trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và làm
phương tiện thanh toán”.
Có nhiều cách thể hiện khác nhau về định nghĩa NHTM, tùy thuộc vào tập
quán pháp luật của từng quốc gia. Việt Nam đang trong tiến trình xây dựng và phát
triển một mô hình thị trường tài chính với nòng cốt là hệ thống NHTM hoạt động
dưới sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập
trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, hệ
thống Ngân hàng Việt Nam đã được đổi mới một cách đáng kể. Sự thay đổi căn bản
trong mô hình tổ chức đó là tách biệt chức năng quản lý hoạt động tiền tệ, tín dụng
với chức năng kinh doanh tiền tệ; đa dạng hóa các loại hình Ngân hàng, từng bước
xóa bỏ độc quyền, chuyển sang cạnh tranh có sự quản lý của Nhà nước, kể từ năm
1988 tại Việt Nam bắt đầu hình thành hệ hống Ngân hàng hai cấp và hai pháp lệnh
Ngân hàng (pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước, pháp lệnh Ngân hàng HTX tín dụng và
công ty Tài chính, năm 1990) đã chính thức hợp pháp hóa sự thay đổi này. Mô hình
hệ thống Ngân hàng ở thời điểm này bao gồm:
-

Ngân hàng Nhà nước: cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ, tín

dụng và Ngân hàng.
-

Các NHTM: đóng vai trò là các doanh nghiệp thực hiện kinh doanh tiền

tệ.
Từ đó, để tăng cường quản lý, hướng dẫn hoạt động các ngân hàng và các tổ
chức tín dụng khác tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển chung của nền kinh tế
đồng thời bảo vệ lợi ích hợp pháp của các tổ chức cá nhân tham gia hoat động kinh
doanh; điều 20 Luật các Tổ chức Việt Nam ban hành năm 1997/QH10 đã nêu:
“Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp được thành lập theo quy dịnh của luật

này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch
vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn
trả và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và cung
ứng dịch vu thanh toán.”

8


Định nghĩa trên đã khẳng định NHTM là một doanh nghiệp hoạt đông trong
lĩnh vực tiền tệ, có hạch toán thu chi, có tính đến hiệu quả hoạt động kinh doanh và
luôn tìm cách tối đa hóa lợi nhuận của đơn vị. Trong đó có hai mặt cơ bản là:
-

Nhận tiền gửi của khách hàng: Các doanh nghiệp, cá nhân và các tổ chức,

cơ quan nhà nước.
-

Sử dụng các khoản tiền gửi đó để cho vay và chiết khấu.

Ngoài ra, các NHTM còn có các dịch vụ: Bảo lãnh, thu hộ, chi hộ,….Quá trình
phát triển của NHTM gắn liền với quá trình phát triển của thị trường tài chính thông
qua các giai đoạn từ thấp tới cao, từ đơn giản đến phức tạp. Khi mới ra đời, tổ chức
và nghiệp vụ hoạt động rất đơn giản nhưng càng về sau, theo đà phát triển của kinh
tế hàng hóa tổ chức cũng như các nghiệp vụ của NHTM càng phát triển và hoàn
thiện hơn. Ngày nay, các NHTM có xu hướng phát triển ngày càng toàn diện với
quy mô và phạm vi rộng lớn cùng nhiều loại hình dịch vụ, huy động tối đa các
nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội để đầu tư cho vay. Sự phát triển của các Ngân hàng
không còn nằm trong phạm vi quốc gia mà mang tính chất toàn cầu. Ví dụ: Ngân
hàng Thế giới(WB), Ngân hàng phát triển Châu á(ADB)… Việc áp dụng công nghệ

thông tin và hệ thống trang bị thiết bị hiện đại càng làm cho hoạt động Ngân hàng
trở nên hoàn thiện.
Với chức năng nhận tiền gửi để cho vay đối với nền kinh tế, và vai trò trung
gian tài chính, NHTM vẫn phải tuân theo sự quản lý của Nhà nước mà trực tiếp là
sự quản lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Chính dưới sự quản lý này, hệ thống
NHTM đã thực hiện chức năng của mình với nền kinh tế.
1.1.2.2. Đặc điểm của NHTM
NHTM có những đặc điểm sau đây:
Một là: NHTM là một doanh nghiệp kinh doanh kiếm lời cho nên hoạt động
của nó nhằm mục tiêu chủ yếu là theo đuổi lợi nhuận. Những hoạt động kinh doanh
của NHTM là một loại hh́nh kinh doanh đặc thù với chất liệu kinh doanh chủ yếu là
quyền sử dụng các khoản tiền, sản phẩm của NHTM có đặc tính phi vật chất và hoạt
động của nó gắn liền với quá tŕnh vận động và lưu thông tiền tệ.
9


Hai là: Hoạt động NHTM là hình thức kinh doanh có độ rủi ro cao hơn so với
các hình thức kinh doanh khác và thường có ảnh hưởng sâu sắc liên quan đến ngành
khác và cả nền kinh tế. Do đó, để tránh những rủi ro đáng tiếc xảy ra, nhằm kiểm
soát và làm giảm nhẹ những tổn hại do ngân hàng vỡ nợ gây ra, chính phủ các quốc
gia đặt ra những đạo luật riêng nhằm bảo đảm cho hoạt động của ngân hàng được
vận hành an toàn và hiệu quả.
Ba là: NHTM là một trung gian tài chính điển hình. Điều này được thể hiện ra
trên hai phương diện:
- NHTM là trung giữa những người có vốn và người cần vốn.
- NHTM là trung gian giữa ngân hàng trung ương ( NHTW ) với công chúng
và nền kinh tế.
1.1.2.3. Vai trò của NHTM
Trong điều kiện nước ta hiện nay, nguồn thu ngân sách còn hạn chế nên không
thể hoàn toàn trông chờ vào vốn ngân sách. Đối với thị trường tài chính trực tiếp, do

thị chứng khoán nước ta mới hình thành, hàng hóa cũng khan hiếm, hiệu quả hoạt
động chưa cao, chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu về vốn cho đầu tư cho nền kinh tế. Vì
vậy trong thời gian tời việc huy đông vốn phục vụ vho sự phát triển của nền kinh tế
chủ yếu được thực hiện qua các trung gian tài chính, mà đặc biệt là các NHTM. Vì
vậy hoạt động ngân hàng là yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh
tế. Ta có thể kể đến một số vai trò quan trọng của ngân hàng thương mại như sau:
Thứ nhất: NHTM với hoạt động huy đông vốn và cho vay nhằm giải quyết sự
thiếu vốn tạm thời của nền kinh tế, giúp các doanh ngiệp có điều kiện sản suất kinh
doanh.
Thứ hai: Hoạt động của các NHTM góp phần tăng cường hiệu quả kinh
doanh của các doanh nghiệp qua đó góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Thứ ba: NHTM bằng hoạt động của mình để sử dụng việc phân bổ vốn giữa
các vùng, qua đó tạo điều kiện cho việc phát triển kinh tế đồng đều giữa các vùng
khác nhau trong một quốc gia.

10


Thứ tư: Ngân hàng hoat động có hiệu quả góp phần thực hiện các mục tiêu
của chính sách tiền tệ quốc gia như: ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát, tạo công ăn
việc làm và tăng trưởng kinh tế.
Thứ năm: NHTM là chiếc cầu nối giữa các nước, tạo môi trường quyết định
1.1.2.4. Các chức năng của NHTM
- Chức năng trung gian tài chính.
- Chức năng trung gian thanh toán.
- Chức năng tạo tiền.
1.1.2.5. Khái niệm vốn của Ngân hàng thương mại
- Khái niệm vốn của Ngân hàng thương mại:
Vốn là tiền đề của hoạt động kinh doanh trong toàn xã hội nói chung và của
mỗi doanh nghiệp nói riêng, mọi doanh nghiệp đều có nhu cầu to lớn về vốn để vận

hành và phát triển. Ngân hàng thương mại là một tổ chức trung gian tài chính với
các chức năng cơ bản là: trung gian tín dụng, trung gian thanh toán và chức
năng tạotiền. Để thực hiện được các chức năng này và đi vào hoạt động một cách
cóhiệu quả và có lợi nhuận thì đòi hỏi ngân hàng thương mại phải có một lượng vốn
hoạt động nhất định.
Vốn của NHTM đóng vai trò quan trọng không chỉ trong hoạt động kinh
doanh mà còn đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Vậy, vốn của NHTM là gì?
Các nhà kinh tế đưa ra định nghĩa về vốn của NHTM như sau:
Vốn của Ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do bản thân ngân
hàng thương mại tạo lập ra hoặc huy động được, dùng để đầu tư, cho vay, hoặc
thực hiện các hoạt động kinh doanh khác của mình.
Theo định nghĩa trên, vốn mà NHTM tạo lập được là một phần lợi nhuận hoặc
vốn góp của các cổ đông hàng năm, vốn huy động là một phần thu nhập quốc dân
tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng, được người chủ
sở hữu của khoản vốn đó gửi vào ngân hàng để thực hiện các mục đích khác nhau.
Nói cách khác, họ chuyển quyền sử dụng khoản vốn cho Ngân hàng để rồi nhận một
11


khoản thu nhập từ việc chuyển quyền sử dụng đó. Như vậy, NHTM đã thực hiện vai
trò tập trung và phân phối lại vốn cho nền kinh tế dưới hình thức tiền tệ, kết quả là
làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, phục vụ và kích thích mọi hoạt động sản
xuất kinh doanh phát triển. Nguồn vốn mà Ngân hàng tạo lập và huy động được đã
góp phần quan trọng trong việc đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh của mỗi doanh
nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. Đồng thời cũng chính những
hoạt động đó lại là yếu tố mang tính chất quyết định đến sự tồn tại và phát triển hoạt
động kinh doanh của bản thân Ngân hàng.
- Vai trò của nguồn vốn:
Ngân hàng cũng là một doanh nghiệp, vì vậy vai trò của nguồn vốn đối với các

ngân hàng thương mại đầu tiên cũng sẽ quyết định đến quy mô, thế lực và khả năng
mỏ rộng quy mô của các ngân hàng. Nhìn từ góc độ kinh tế, có thể khái quát hóa
các vai trò của nguồn vốn này đối với hoạt động của một ngân hàng thương mại
dưới một vài các khía cạnh sau:
+ Vốn là cơ sở của hoạt động ngân hàng: NHTM muốn hoạt động kinh doanh
được thì phải có vốn, vốn phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng kinh
doanh.
Để có giấy phép thành lập thì NHTM phải có vốn pháp định. Để thực hiện tốt
vai trò, chức năng của mình thì NHTM cần phải thường xuyên chăm lo tới việc tăng
trưởng vốn trong suốt hoạt động kinh doanh của mình.
+ Vốn của NHTM quyết định đến quy mô và khả năng mở rộng hoạt động
kinh doanh của NHTM:
Quy mô của NHTM thể hiện ở Tổng tài sản (tiền, chứng khoán, quy mô cho
vay, tài sản cố định, …), nếu nguồn vốn lớn  tài sản lớn.
Phạm vi: nếu nguồn vốn lớn thì có thể mở rộng hệ thống chi nhánh tại các địa
phương  địa bàn hoạt động rộng.
Khả năng mở rộng hoạt động kinh doanh: nếu nguồn vốn lớn thì có khả năng
cung cấp nhiều loại hình sản phẩm, dịch vụ  đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, …
+ Vốn của NHTM quyết định đến khả năng thanh toán của NHTM đó. Điều
12


này thể hiện như sau:
Nếu nguồn vốn lớn  dự trữ thực tế lớn  tạo điều kiện cho NHTM có thể
tập trung vốn, ứng phó kịp thời với trường hợp khách hàng rút tiền lớn hơn so với
dự kiến ban đầu.
Nếu nguồn vốn lớn  NHTM có thể đa dạng hóa danh mục đầu tư (đầu tư
trên thị trường chứng khoán: dự trữ thứ cấp)  tạo điều kiện phân tán rủi ro 
NHTM có điều kiện kinh doanh an toàn hơn.
Nếu nguồn vốn lớn  NHTM sẽ có uy tín cao trên thị trường  khi NHTM

thiếu hụt trong thanh toán thì có điều kiện thuận lợi trong việc vay mượn và bù đắp
kịp thời thiếu hụt trong thanh khoản, …
Nếu nguồn vốn lớn, NHTM thường được sự trợ giúp từ phía Chính phủ vì nếu
những NHTM lớn mà sụp đổ thì sẽ ảnh hưởng nặng nề tới hệ thống tiền tệ quốc gia
và nền kinh tế.
+ Vốn của NHTM quyết định tới khả năng cạnh tranh của NHTM đó. Nếu có
nguồn vốn lớn thì NHTM sẽ có ưu thế hơn trong cạnh tranh, điều này thể hiện như
sau:
Cạnh tranh về giá:
Nguồn vốn lớn giúp NHTM tạo dựng được lợi thế nhờ quy mô  do đó giảm
được chi phí bình quân  có điều kiện cạnh tranh về giá.
Nguồn vốn lớn giúp NHTM có điều kiện giao dịch với khách hàng lớn  giá
trị giao dịch lớn  chi phí giao dịch bình quân cho 1 hợp đồng thấp  giảm được
chi phí bình quân  cạnh tranh về giá.
Nguồn vốn lớn giúp NHTM có điều kiện giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh
 có điều kiện giảm chi phí bù đắp rủi ro.
Cạnh tranh về sản phẩm, dịch vụ:
Nguồn vốn lớn giúp NHTM có điều kiện để đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ,
ứng dụng những công nghệ mới.
Nguồn vốn lớn giúp NHTM có điều kiện để nâng cao chất lượng sản phẩm,

13


mở rộng khách hàng, …
1.1.2.6. Các nguồn vốn của Ngân hàng thương mại
Nguồn vốn nói chung của NHTM được hình thành từ các nguồn vốn chủ
yếu:
- Vốn chủ sở hữu ( vốn tự có)
- Vốn huy động

- Vốn đi vay
- Vốn khác
Mỗi loại vốn đều có những tính chất, vai trò riêng trong tổng nguồn vốn của
NHTM và đều có tác động ít nhiều đến hoạt động kinh doanh của NHTM.
a. Vốn chủ sở hữu
* Khái niệm: Là nguồn vốn do NHTM tự tạo lập ra, thuộc sở hữu riêng có của
NHTM.
* Đặc điểm:
- Chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng (khoảng 5 10%) nhưng lại có tính chất Quyết định đến sự hình thành và tồn tại của ngân hàng
- Nguồn vốn này mang tính ổn định cao (vì nó thuộc sở hữu của NHTM và
NHTM không có nghĩa vụ phải hoàn trả)
* Vai trò:
- Bảo đảm an toàn cho hoạt động của NHTM
- Vốn tự có với vai trò hoạt động: mua sắm tài sản cố định, xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật, tạo điều kiện tổ chức mọi hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
-Vốn tự có góp phần điều chỉnh mọi hoạt động kinh doanh của ngân hàng (quy
mô, giá trị tài sản cố định, cơ cấu tài sản,…)
* Thành phần:
Vốn chủ sở hữu của NHTM bao gồm:
+ Vốn hình thành ban đầu:
Trước khi tiến hành kinh doanh, theo quy định của pháp luật, ngânhàng phải
có một lượng vốn nhất định, đó là vốn pháp định (hay vốn điều lệ).Tuỳ theo hình
14


thức sở hữu, do nhà nước cấp nếu là ngân hàng quốc doanh, docổ đông đóng góp
nếu là ngân hàng cổ phần, do các bên đóng góp nếu là ngân hàng liên doanh và của
cá nhân nếu là ngân hàng tư nhân.
Vốn hình thành ban đầu là vốn điều lệ của NHTM. Theo quyết định số
327/QĐ- NH5 ban hành ngày 04/10/1997 của Thống đốc NHTM Việt Nam thì:

“ Vốn pháp định của NHTM là mức vốn tối thiểu phải có để thành lập Ngân hàng ”,
còn “Vốn điều lệ của NHTM là vốn do các cổ đông đóng góp và được ghi vào điều
lệ hoạt đông của Ngân hàng”. Vốn điều lệ của Ngân hàng phải luôn lớn hơn hoặc
bằng vốn pháp định và có thể đươc hình thành từ nhiều nguồn vốn khác nhau tùy
thuộc vào hình thức sở hữu.
+ Vốn chủ sở hữu bổ sung trong quá trình hoạt động:
Vốn chủ sở hữu của ngân hàng không ngừng được tăng lên theo thời gian nhờ
có nguồn vốn bổ sung. Nguồn bổ sung này có thể từ lợi nhuận hay từ phát hành
thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm... Đặc điểm của hình thức HĐV này là không
thường xuyên, song giúp cho NHTM có được lượng vốn chủ sở hữu lớn vào lúc cần
thiết.
+ Các quỹ:
Trong quá trình hoạt động, ngân hàng có nhiều quỹ. Mỗi quỹ có một mục đích
riêng: Quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tổn thất, quỹ bảo toàn vốn, quỹ phúc lợi,
quĩ khen thưởng... Các quỹ này được hình thành từ thu nhập của ngân hàng, bao
gồm: Quỹ bổ sung vốn điều lệ và quỹ dự phòng bù đắp rủi ro. Ngoài ra vốn chủ sở
hữu bổ sung là một bộ phận trong nguồn vốn tự có của NHTM, nó tồn tại dưới dạng
các quỹ chuyên dụng, các quỹ đặc biệt của Ngân hàng như: quỹ dự trữ bổ sung vốn
điều lệ, quỹ phát triển kỹ thuật, quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng…
+ Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần:
Các khoản vay nợ trung và dài hạn, ổn định có khả năng chuyển đổi thành cổ
phần thì được coi là một bộ phận vốn chủ sở hữu của ngân hàng. Ngân hàng có thể
sử dụng vốn theo các mục đích kinh doanh của mình như có thể đầu tư vào nhà cửa,
đất đai và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn.
15


b. Vốn huy động.
* Khái niệm:
Vốn huy động là bộ phận lớn nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng

thương mại. Với việc huy động vốn, ngân hàng có được quyền sử dụng vốn và có
trách nhiệm phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng hạn cho người gửi. Ngân hàng có thể
huy động vốn từ dân cư, các tổ chức kinh tế – xã hội... với nhiều hình thức khác
nhau. Vốn huy động không phải là nguồn vốn thuộc sở hữu của NHTM nhưng lại là
yếu tố quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vốn huy động của
NHTM được xem là những giá trị tiền tệ mà Ngân hàng huy động được từ các tổ
chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua việc thực hiện các nghiệp vụ
huy động vốn và được dùng làm vốn kinh doanh.
* Đặc điểm:
- Không thuộc sở hữu của NHTM.
- Có tính biến động cao, không ổn định (cần phải dự trữ)
- Chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của NHTM.
- Là loại nguồn vốn đa dạng về: Nguồn gốc hình thành, Thời hạn các khoản
huy động, Giá trị các khoản huy động, Loại tiền huy động.
* Vai trò:
Là nguồn vốn chủ yếu của các ngân hàng thương mại, đáp ứng hầu hết các
nhu cầu về hoạt động tín dụng của các ngân hàng này.
* Thành phần:
Ngân hàng có thể sử dụng nhiều công cụ huy động vốn khác nhau nhưng
chủ yếu là công cụ:
Tiền gửi:
+ Tiền gửi không kỳ hạn (tiền gửi thanh toán/ tiền gửi giao dịch):
+ Tiền gửi có kỳ hạn
Tiền gửi tiết kiệm:
+ Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn
+ Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn
16


Các nguồn huy động khác:

Huy động bằng cách phát hành giấy tờ có giá: Trái phiếu ngân hàng, kỳ phiếu
ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi...
c. Vốn vay.
* Khái niệm:
Là nguồn vốn mà NHTM có được dựa trên mối quan hệ vay mượn trên thị
trường liên ngân hàng, dựa trên các quỹ cho vay đã được thiết lập.
* Đặc điểm:
- Không thuộc sở hữu của ngân hàng.
- Chiếm tỷ trọng ko lớn (ko quá lệ thuộc vào nguồn vốn này để kinh doanh)
- Độ ổn định cao hơn nguồn vốn huy động.
- Chi phí cao, lãi suất nhạy cảm với sự thay đổi của lãi suất thị trường.
- Thời hạn rất ngắn (ngày, tuần).
* Vai trò:
Có vai trò đặc biệt đối với việc kinh doanh của NHTM (giải quyết nhanh nhu
cầu, với khối lượng lớn).
* Thành phần: Vay NHTW, vay các NHTM khác.
Khi khả năng huy động vốn bị thiếu hụt mà nhu cầu thanh toán, chi trả cho
khách hàng tăng cao thì NHTM phải vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu thanh
toán, chi trả. Vốn được hình thành trên quan hệ vay mượn giữa NHTM với NHTW
hoặc với các tổ chức tín dụng khác được gọi là vốn đi vay. Nguồn vốn này thường
được sử dung khi NHTM đã sử hết lượng vốn khả dụng mà vẫn không đủ vốn hoạt
động kinh doanh. Thông thường, NHTM sẽ ưu tiên việc vay từ các tổ chức tín dụng
trong nền kinh tế trước, sau đó mới đến đi vay của NHTW.
Khi NHTM vay vốn của NHTW gọi là hình thức chiết khấu, tái chiết khấu để
bù đắp thiếu hụt trong thanh toán, bổ sung vốn dự trữ… Ngân hàng Nhà nước điều
hành việc vay mượn này một cách chặt chẽ, NHTM phải thực hiện các điều kiện
đảm bảo và kiểm soát nhất định .
d. Vốn khác.
17



* Khái niệm:
Là nguồn vốn hình thành trong quá trình cung cấp dịch vụ ngân hàng cho
khách hàng
* Đặc điểm:
- Không thuộc sở hữu của NHTM.
- Quy mô nhỏ.
- Chi phí ko cao.
- Độ ổn định thấp.
* Vai trò:
Phục vụ cho các hoạt động của ngân hàng thương mại như các ngồn vốn khác.
* Thành phần:
- Nguồn vốn nhận tài trợ ủy thác đầu tư.
- Nguồn vốn trong thanh toán.
- Nguồn vốn khác: vay nước ngoài, vay công ty mẹ (nếu có), …
NHTM còn có thể tạo lập vốn kinh doanh cho mình thông qua việc thực hiện
một số nghiệp vụ như: làm trung gian thanh toán, phát hành các công cụ nợ như: Kỳ
phiếu, trái phiếu, tín phiếu trên thị trường vốn, làm nghiệp vụ đại lý… Qua đó
NHTM có thể sử dụng một lượng vốn tạm thời nhàn rỗi đáng kể trong quá trình thu
hộ hoặc chi hộ khách hàng. Các khoản vay này có ý nghĩa rất quan trọng nhằm bổ
sung cho các nguồn tiền gửi, đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung, dài hạn; là
giải pháp tình thế trong hoàn cảnh khó khăn cho NHTM.
Tóm lại, vốn huy động là loại vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn
vốn của NHTM. Điều này hoàn toàn phù hợp về mặt cơ sở lý luận vì NHTM luôn
được xem là doanh nghiệp kinh doanh đồng vốn, lấy vốn đi vay để cho vay. Vốn
huy động là công cụ chính, giữ vị trí quan trọng trong hoạt động kinh doanh của các
NHTM quyết định trực tiếp tới những nguồn lợi cũng như uy tín của Ngân hàng.
1.1.3. Huy động vốn của Ngân hàng Thương mại
1.1.3.1. Khái niệm về huy động vốn


18


Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động vốn cho vay, đầu tư và
cung cấp các dịch vụ Ngân hàng khác. Huy động vốn – hoạt động tạo nguồn vốn
cho NHTM – đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của
NHTM: Nó được xem là lẽ sống quan trọng nhất của các NHTM, đặc biệt là những
Ngân hàng có quy mô lớn. Huy động vốn có thể được xem là một trong những
nghiệp vụ xuất hiện sớm nhất trong hoạt động của các ngân hàng thương mại. Trong
giai đoạn sơ khai của hoạt động ngân hàng, những nghiệp vụ này chỉ đơn thuần là
hoạt động cất giữ các tài sản có giá nhắm mục đích đảm bảo an toàn, và lúc này,
người phải trả phí là người gửi tiền chứ không phải là các ngân hàng, các khoản tiền
chỉ được xem đơn thuần là vật được kí gửi chứ hoàn toàn không đóng vai trò là
nguồn vốn đối với các ngân hàng thương mại, tiền lúc này không được xem là tiền
tệ theo đúng nghĩa của nó, vì không có khả năng luân chuyển, không sinh ra được
lợi nhuận. Khi nhu cầu tín dụng gia tăng, nghiệp vụ ngân hàng phát triển, vị thế đó
bị đảo ngược, ngân hàng là người phải trả phí (lãi suất – giá cả của tín dụng), và
nguồn tiền được kí gửi thay đổi vai trò của nó, trở thành nguồn vốn khả dụng và lớn
nhất của các ngân hàng thương mại hiện nay. Chính vì vậy, trái ngược với quá khứ,
ngân hàng là người phải đi nài nỉ khách hàng gửi tiền. Nếu trước đây, ngân hàng là
người bị động trong quan hệ này thì hiện nay, hầu hết tất cả các ngân hàng đều có
các chính sách, phương thức để lôi kéo nguồn tiền gửi này và chính vì vậy các
phương thức huy động vốn ngày càng trở nên quan trọng, phong phú và đa dạng
hơn. Có thể nói, hiện nay, hoạt động huy động vốn là một trong những hoạt động
hết sức quan trọng và liên quan đến sự sống còn của các ngân hàng thương mại.
Có thể đưa ra định nghĩa như sau: “Hoạt động huy động vốn của các ngân
hàng thương mại là hoạt động mà trong đó các ngân hàng này tìm kiếm nguồn vốn
khả dụng từ các chủ thể khác nhằm mục đích kinh doanh và đảm bảo sự vận hành
bình thường, hiệu quả của bản thân nó theo đúng các quy định pháp luật”.
1.1.3.2. Mục tiêu và nguyên tắc trong công tác huy động vốn của Ngân hàng

thương mại
a. Mục tiêu công tác huy động vốn của Ngân hàng thương mại:
19


Mục tiêu trong công tác huy động vốn là cơ sở cho việc đề ra kế hoạch và
chiến lược về nguồn vốn của Ngân hàng. Nguồn vốn của Ngân hàng khá đa dạng,
bao gồm nhiều thành phần, một số thành phần tuy không ổn định nhưng lại có khả
năng giao dịch cao và lãi suất thấp (đồng nghĩa với chi phí huy động vốn thấp).
Nhưng ngược lại một số thành phần hạn chế khả năng phát hành Séc, có tính ổn
định cao nhưng đi đôi với nó là lãi suất cao (đồng nghĩa với chi phí huy động vốn
cao). Do đó cơ cấu vốn, chi phí vốn, tính chất ổn định, thời hạn của nguồn vốn là
nhân tố quan trọng đánh giá chất lượng của nguồn vốn và là mục tiêu mà các Ngân
hàng thương mại đều hướng tới. Đây là những yếu tố quan trọng trong việc thực hiện
mục tiêu “an toàn, hiều quả” của Ngân hàng.
Thứ nhất: Tìm kiếm nguồn vốn rẻ.
Thứ hai: Tạo ra cơ cấu nguồn vốn phù hợp và ổn định.
Thứ ba: Xây dựng qui mô và sự tăng trưởng nguồn vốn ổn định.
Thứ tư: Điều hành tốt nguồn vốn phục vụ kinh doanh.
b. Các nguyên tắc trong huy động vốn.
Nguyên tắc thứ nhất: Việc huy động vốn phải dựa trên cơ sở nhu cầu cho vay.
Ngân hàng phải tính toán nhu cầu cho vay để xác định số vốn cần huy động. Các
Ngân hàng phải đảm bảo cân đối giữa huy động vốn và sử dụng vốn về qui mô, về
kỳ hạn để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Ngân hàng.
Nguyên tắc thứ hai: Ngân hàng nhận tiền gửi của khách hàng (bao gồm các
Doanh nghiệp tư nhân, Doanh nghiệp nhà nước, các cơ quan nhà nước, đoàn thể xã
hội và các tầng lớp dân cư) phải có trách nhiệm hoàn trả đầy đủ, đúng hạn cả vốn
lẫn lãi theo thỏa thuận trước giữa khách hàng và Ngân hàng. Theo đo, quy định
ngân hàng không được huy động quá 20 lần tổng số vốn tự có và quỹ dự trữ của
mình.

Nguyên tắc thứ ba: Ngân hàng không được phát hành trái phiếu mà việc phát
hành trái phiếu đó tạo cho các chủ sở hữu giành được quyền quản lý trực tiếp và
gián tiếp đối với Ngân hàng.
1.1.3.3. Các hình thức huy động vốn
20


Sau khi đã sử dụng hết lượng vốn tự có nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu
giao dịch, thanh toán của khách hàng thì các NHTM phải tiến hành huy động vốn từ
bên ngoài. Thông thường nguồn vốn huy động này chiếm một tỷ trọng tương đối
lớn trong kết cấu nguồn vốn của NHTM, nó rất cần thiết để đảm bảo cho NHTM có
thể hoạt động một cách bình thường. Quá trình huy động vốn của NHTM chủ yếu
dưới các hình thức sau:
Nhận tiền gửi:
Tiền gửi tại NHTM gồm có tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn. Trong
đó:
+ Tiền gửi không kỳ hạn (tiền gửi thanh toán/ tiền gửi giao dịch):
Là hình thức tiền gửi mà khách hàng có thể rút vốn ra bất kỳ lúc nào không
cần báo trước cho ngân hàng. Mục đích của loại tiền gửi này là nhằm đảm bảo an
toàn về tài sản, thực hiện các khoản chi trả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp cũng như các khoản thanh toán trong tiêu dùng của cá nhân đồng thời
hạn chế được chi phí tổ chức thanh toán, bảo quản tiền và vận chuyển tiền. Đối với
bộ phận vốn này không ổn định nên ngân hàng phải thường dự trữ lại với số lượng
rất lớn để đáp ứng yêu cầu của khách hàng do đó ngân hàng thường áp dụng lãi suất
thấp cho loại tiền gửi này.
+ Tiền gửi có kỳ hạn: là loại tiền gửi mà khi khách hàng gửi tiền vào ngân
hàng có sự thỏa thuận với ngân hàng để chọn một loại thời hạn gửi tiền thích hợp.
Theo nguyên tắc, đối với loại tiền gửi này, người gửi tiền chỉ được rút ra khi đến
hạn. Tuy nhiên, trên thực tế do áp lực cạnh tranh mà ngân hàng cho phép khách
hàng rút trước kỳ hạn. Trong trường hợp này, người gửi không được hưởng lãi như

tiền gửi có kỳ hạn mà sẽ được áp dụng với lãi suất không kỳ hạn nếu rút ra truớc khi
đáo hạn. Đây là nguồn vốn rất ổn định vì ngân hàng biết trước thời điểm mà khách
hàng sẽ rút tiền ra nên ngân hàng thường đưa ra nhiều loại kỳ hạn khác nhau nhằm
đáp ứng nhu cầu gửi tiền của khách hàng.
Huy động tiền gửi tiết kiệm:

21


Về bản chất, tiền gửi tiết kiệm là một bộ phận thu nhập của người lao động
chưa sử dụng cho tiêu dùng, họ gửi vào Ngân hàng với mục đích tích lũy tiền một
cách an toàn và hưởng lãi trên khoản tiền gửi đó. Đây là hình thức huy động tiền
gửi theo kiểu truyền thống của ngân hàng. Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền gửi của
cá nhân được gửi vào tài khoản tiền gửi tiết kiệm, được xác nhận trên thẻ tiết kiệm,
được hưởng lãi theo qui định của ngân hàng nhận gửi tiết kiệm và được bảo hiểm
theo qui định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi. Mục đích của người gửi tiết kiệm
là để hưởng lãi và tích lũy. Trong nền kinh tế thị trường tiền gửi được phát triển
dưới hai hình thức đó là: Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ
hạn.
+ Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Là loại tiền gửi mà người gửi có thể rút ra
bất cứ lúc nào song ít được sủ dụng cho việc thanh toán.
+ Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Là loại tiền gửi có sự thỏa thuận giữa Ngân
hàng và người gửi về thời gian rút tiền (thường có lãi suất cao hơn tiền gửi tiết kiệm
không kỳ hạn).
Huy động vốn bằng cách phát hành công cụ nợ (giấy tờ có giá trị):
+ Trái phiếu ngân hàng: Là việc ngân hàng phát hành ra công chúng một loại
công cụ nợ dài hạn thường là 5 đến 10 năm. Trên trái phiếu sẽ ghi rõ mệnh giá, lãi
suất, thời gian đáo hạn. Lãi suất trái phiếu ngân hàng thường cao hơn hoặc ngang
bằng trái phiếu Chính Phủ. Nguồn huy động này mang tính chất ổn định về thời
gian, lượng vốn thu về lớn song chi phí bỏ ra cũng khá lớn.

+ Kỳ phiếu ngân hàng: Đây là hình thức huy động với kỳ hạn ngắn hơn, lãi
suất cao hơn lãi suất tiết kiệm, dễ chuyển thành tiền mặt khi cần thiết và nó được
các nhà đầu tư rất ưa thích.
+ Chứng chỉ tiền gửi: Đây là giấy xác nhận khoản vay của ngân hàng, có xác
nhận về lãi suất, số tiền vay, ngày đáo hạn. Trước đây lãi suất của các loại chứng chỉ
này là cố định nhưng để phù hợp với điều kiện và thích hợp hơn cho khách hàng thì
nó có thể mang lãi suất theo thoả thuận. Hình thức này mang tính chất đầu tư ngắn

22


hạn, hấp dẫn các nhà kinh doanh nhỏ và hộ gia đình. Bên cạnh đó thời gian đáo hạn
là cố định nên nó đem lại nhiều tiện ích cho ngân hàng.
Việc phát hành hai loại phiếu nợ này tùy thuộc vào mục đích huy động vốn của
NHTM cũng như sự chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước. Đặc điểm của các loại
giấy nợ này là chúng có lãi suất cao hơn so với lãi suất tiền gửi và tiền gửi tiết kiệm,
có tính ổn định cao, nhưng quyền đòi tiền xếp sau các loại tiền gửi khác.
Huy động vốn qua đi vay các Ngân hàng (NHTW và NHTM khác)
Ngày nay, các khoản vốn vay càng chiếm tỷ trọng lớn cũng như vị trí đặc biệt
quan trọng trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Vốn vay của ngân hàng có thể
hình thành từ nhiều nguồn khác nhau nhưng chủ yếu vẫn bao gồm những nguồn cơ
bản sau:
+ Vay từ Ngân hàng trung ương.
Các NHTM kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận trên cơ sở đi vay để cho vay. Huy
động vốn thực chất cũng là hình thức đi vay vốn từ dân cư, từ các tổ chức kinh tế,
Doanh nghiệp. NHTM phải trả lãi cho những khoản huy động đó. Song song với
điều đó, các NHTM lại sử dụng chính những đồng vốn huy động được để cho vay
với lãi suất cao hơn lãi suất huy động, từ đó tạo ra lợi nhuận từ việc chênh lệch lãi
suất đó. Thế nhưng dù có thận trọng đến mức nào đi chăng nữa trong hoạt động cho
vay thì NHTM cũng khó tránh khỏi những lúc thiếu khả năng chi trả hay thanh toán

cho khách hàng. Trong những trường hợp đó, sau khi đã thực hiện các biện pháp tài
chính cần thiết mà vẫn không tìm kiếm đủ vốn cần thiết thì giải pháp cuối cùng là đi
vay NHTW. Với tư cách là Ngân hàng của các ngân hàng, NHTW sẽ trở thành vị
cứu tinh cho các NHTM trong trường hợp thiếu vốn thanh toán.
Ở nước ta hiện nay, các NHTM vay vốn từ NHTW chủ yếu dưới các hình thức
sau:
- Vay vốn ngắn hạn bổ sung: Là hình thức các NHTM xin vay vốn bổ sung cho
vốn ngắn hạn của mình. Trong hình thức vay này, các NHTM chỉ được vay khi còn
hạn mức tín dụng đã thỏa thuận.

23


- Tái cấp vốn: Là hình thức NHTW cho các NHTM vay trên cơ sở chứng từ có
giá. Các chứng từ này phải là những chứng từ có chất lượng, có thể chuyển đổi
thành tiền khi cần thiết. Tái cấp vốn được thực hiện dưới hai hình thức: cho vay có
đảm bảo và cho vay tái chiết khấu.
- Vay để thanh toán: Là khoản vốn có thời hạn tương đối ngắn, được NHTM
sử dụng để bù đắp những thiếu hụt tạm thời trong thanh toán.
+ Vay từ các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên Ngân hàng..
Khi đối đầu với những tình huống khó khăn về tài chính, để đảm bảo uy tín
cho Ngân hàng thì giải pháp tốt nhất là đi vay. NHTM có thể đi vay từ các tổ chức
tín dụng khác trên thị trường liên Ngân hàng hay thị trường tiền tệ trong và ngoài
nước.
- Các hình thức huy động vốn khác.
Ngoài các hình thức huy động vốn trên, NHTM cũng có thể thu hút nguồn vốn
nhàn rỗi từ dân cư, từ nền kinh tế thông qua các hoạt động ủy thác về các dịch vụ xã
hội như: dịch vụ câu lạc bộ…, làm trung gian thanh toán hoặc đứng ra làm dịch vụ
đại lý phát chứng khoán cho các công ty… Nhờ những hình thức huy động trên,
Ngân hàng có thể sử dụng một lượng vốn tạm thời nhàn rỗi đáng kể trong quá trình

thu hộ hoặc chi hộ.
1.1.4. Vai trò của nguồn vốn huy động đối với hoạt động kinh doanh của Ngân
hàng thương mại
NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt, kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ tín
dụng. Trong quá trình chuyển mình cùng nền kinh tế, các NHTM đã chuyển dần
sang hạch toán kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của mình,
không còn bao cấp như trước nữa, các NHTM có xu hướng phát triển đa năng. Các
nguồn vốn huy động được sẽ quyêt định quy mô cũng như định hướng hoạt động
của NHTM, dựa vào nguồn vốn huy động này để các NHTM thực hiện các nghiệp
vụ tín dụng, đầu tư …
-

Vốn là nền cơ sở, là nền tảng trong hoạt động kinh doanh của các Ngân

hàng thương mại.
24


-

Vốn quyết định khả năng cạnh tranh của Ngân hàng thương mại.

-

Vốn đảm bảo khả năng thanh toán và uy tín của Ngân hàng Thương mại.

-

Vốn quyết định quy mô hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Thương mại.


-

Nguồn vốn huy động còn ảnh hưởng tới kết quả hoạt động kinh doanh của

Ngân hàng Thương mại.
Bản chất của NHTM kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ: đi vay để cho vay, hay
nguồn vốn NHTM huy động được sẽ là nguồn để các NHTM cho vay đối với các
doanh nghiệp, các cá nhân và tổ chức khác, nên có thể khẳng định công tác huy
động vốn càng có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt đông kinh doanh của ngân hàng.
Do vậy, công tác huy động vốn là một mảng hoạt động lớn của NHTM và quyết định
rất lớn đến sự thành công hay thất bại trong kinh doanh của ngân hàng.
1.2. Hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng Thương mại
1.2.1. Quan niệm về hiệu quả huy động vốn
“Hiệu quả hoạt động kinh doanh” là mục tiêu cao nhất, là đích đến mà mọi
chủ thể kinh doanh đều muốn đạt tới. Với các NHTM cũng vậy, hiệu quả kinh
doanh luôn được chú trọng quan tâm và một ngân hàng muốn hoạt động có hiệu quả
thì việc đầu tiên đó là công tác huy động cũng phải có hiệu quả. Bởi huy động vốn
là hoạt động đầu tiên trong cả quy trình kinh doanh của NHTM, nó ảnh hưởng đến
việc tồn tại và phát triển của NHTM.
Hiệu quả huy động vốn của NHTM chính là mối tương quan giữa kết quả thu
được của hoạt động huy động vốn với chi phí huy động vốn của ngân hàng. Vốn
huy động phù hợp với nhu cầu sử dụng mà vẫn đảm bảo được mục tiêu chi phí hợp
lý, đồng thời nguồn vốn đó phải đảm bảm được vấn đề an toàn trong kinh doanh
mà vẫn đem lại khả năng sinh lời cho ngân hàng.
Để đạt được điều đó thì ngân hàng phải có công tác huy động vốn phù hợp
và có hiệu quả.
1.2.2. Sự cần thiết nâng cao hiệu quả huy động vốn
Vốn luôn là một trong những yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình hoạt động
kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Có thể khẳng định rằng không thể thực hiện
25



×