Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

TIỂU LUẬN đẩy MẠNH hợp tác QUỐC tế về KH CN ở VIỆT NAM TRONG GIAI đoạn HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.91 KB, 10 trang )

MỞ ĐẦU
Hợp tác quốc tế về KH&CN đã trở thành một xu thế tất yêu của thời
đại, một trong những yếu tố quan trọng trong mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế
của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nó là nguồn lực to lớn, cầu nối, kênh dẫn
không thể thiếu được đối với hoạt động KH&CN trong nước. Hiện nay, nước ta
đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế về khoa học và
công nghệ đóng vai trò quan trọng trong việc góp phần thiết lập vị thế mới của
Việt Nam và được xác định là một động lực thúc đẩy các hoạt động khoa học và
công nghệ nước ta, nhằm khai thác có hiệu quả thành tựu khoa học và công nghệ
của thế giới, thu hút nguồn lực và công nghệ nước ngoài để nâng cao và phát
triển trình độ khoa học và công nghệ trong nước, góp phần phát triển kinh tế - xã
hội và từng bước hội nhập vào nền kinh tế tri thức của thế giới.
Đại hội XII của Đảng (tháng 01-2016)đã xác định: Phát triển mạnh mẽ
khoa học và công nghệ, làm cho khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách
hàng đầu trên cơ sở tập hợp, đoàn kết đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ ở
trong và ngoài nước nhằm huy động mạnh mẽ nguồn vốn xã hội, nguồn vốn
nước ngoài đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ.
Chính vì vậy, việc “Đẩy mạnh hợp tác quốc tê về khoa học và công
nghệ của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” là một trong những nhân tố
quyết định đến sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước để đi lên CNXH.
NỘI DUNG
1. Một số vấn đề chung về khoa học công nghệ và hợp tác quốc tế về
khoa học và công nghệ
1.1. Một số vấn đề chung về khoa học công nghệ
Theo cách hiểu chung nhất công nghệ là tập hợp những hiểu biết để tạo ra
các giải pháp kỹ thuật. Nó là kết quả của quá trình sáng tạo của con người trong
lao động, là kết tinh trí tuệ mà con người đem lại cho xã hội. Công nghệ là nhân
tố quyết định khả năng của một quốc gia có thể đạt được các mục tiêu tăng
trưởng và phát triển kinh tế ổn định và liên tục. Nó liên quan đến tất cả lĩnh vực
đời sồng kinh tế - xã hội, vì vậy cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm nào đầy


đủ và bao quát nhất về công nghệ.
Theo Tổ chức Phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO), công
nghệ là việc áp dụng khoa học vào sản xuất công nghiệp bằng cách sử dụng kết
quả nghiên cứu khoa học và xử lý chúng một cách có hệ thống và có phương
pháp trong sản xuất.
Theo Bộ Khoa học và công nghệ Việt Nam, công nghệ là hệ thống các
giải pháp được tạo nên bởi sự ứng dụng các kiến thức khoa học, được sử dụng
để giải quyết một hoặc một số nhiệm vụ thực tiễn trong sản xuất, kinh doanh,
1


được thể hiện dưới dạng bí quyết kỹ thuật, phương án, quy trình công nghệ, tài
liệu.,, và các dịch vụ hỗ trợ tư vấn.
Như vậy, công nghệ gồm hai bộ phận cơ bản:
Phần cứng (hardvvare) hay là phần vật tư kỹ thuật, trang thiết bị
(technovvare): là các giải pháp được vật chất hoá như máy móc, thiết bị công cụ,
kết cấu xây dựng, vật liệu, phương tiện vận chuyển, nhà xưởng. Đây chính là
hình thái vật chất của công nghệ giúp con người tăng cường năng lực cơ bắp và
trí lực của mình .
Phần mềm bao gồm bốn bộ phận cấu thành: phần con người (tức là đội
ngũ nhân lực có sức khoẻ, kỹ năng và kinh nghiệm sản xuất, làm việc có trách
nhiệm với năng suất cao); phần thông tin (gồm các dữ liệu, thuyết minh bản vẽ,
dự án, phần mô tả sáng chế chỉ dẫn kỹ thuật điều hành sản xuất...); phần tổ chức
(bao gồm các quan hệ, việc bố trí, sắp xếp, đào tạo nhân lực cho các hoạt động
như phân chia nguồn lực, xây dựng mạng lưới lập kế hoạch kiểm tra, điều hành);
phần bao tiêu, tức là phần nghiên cứu thị trường đầu ra.
Khác với khoa học, công nghệ có đặc điểm là, các giải pháp kỹ thuật của
công nghệ đóng góp trực tiếp vào sản xuất và đời sống nên được sự bảo hộ dưới
dạng “sở hữu công nghệ”, vì vậy, nó là hàng hóa để bán.
1.2. Hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ

Hợp tác quốc tế về KH&CN là quá trình phát triển khoa học và công
nghệ quốc gia và tích hợp để trở thành bộ phận cấu thành tích cực của hệ
thống khoa học và công nghệ quốc tế với thể chế được thống nhất, đảm bảo
lợi ích lâu dài cho các quốc gia và các cộng đồng khoa học
Trong bối cảnh thế giới mới hiện nay, để tận dụng các cơ hội, hạn chế các
tác động tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, các nước, đặc
biệt là các quốc gia không ngừng tăng cường liên kết, hợp tác về khoa học và
công nghệ với các nước khác. Hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ là một
trong những biện pháp quan trọng để các nước khai thác được các thành quả
nghiên cứu mới về khoa học và công nghệ của thế giới, tận dụng được vốn, công
nghệ, nhân lực của đối tác và để phát huy lợi thế so sánh của mình trong nghiên
cứu khoa học và công nghệ. Mức độ hội nhập và hợp tác quốc tế tùy thuộc vào
tiềm lực và khả năng khoa học và công nghệ của mỗi quốc gia. Thông thường
những nước đang phát triển tham gia tích cực hơn trong hợp tác quốc tế về khoa
2


học và công nghệ, bởi vì các nước này muốn tiếp cận các công nghệ tiên tiến từ
bên ngoài, từ đó nâng cao năng lực công nghệ nội sinh của mình.
Hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ được diễn ra dưới các hình
thức như: nhận thầu từng phần, sản xuất liên doanh và chuyên môn hoá, cung
cấp thiết bị toàn bộ, trao đổi giấy phép, bằng phát minh sáng chế…
2. Hợp tác về khoa học và công nghệ ở Việt Nam
2.1. Thành tựu về hợp tác về khoa học và công nghệ
Trước yêu cầu của tình hình mới, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều
chủ trương quan trọng, đồng thời tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chính sách
nhằm tăng cường hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ. Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 chỉ rõ phát triển khoa học và công nghệ phải
thực sự trở thành động lực then chốt của quá trình phát triển. Quyết định số
418/QĐ-TTg, ngày 11-4-2012, của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược

phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011 - 2020 cũng khẳng định hội
nhập quốc tế về khoa học và công nghệ là mục tiêu, đồng thời là giải pháp quan
trọng để góp phần đưa khoa học và công nghệ Việt Nam sớm đạt trình độ quốc
tế. Hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ phải được thực hiện tích cực, chủ
động, sáng tạo, bảo đảm độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia, bình đẳng và
cùng có lợi. Hoạt động khoa học và công nghệ của Việt Nam đến năm 2020 và
tầm nhìn đến năm 2030 bám sát quan điểm chủ động hợp tác và hội nhập quốc
tế sâu rộng với định hướng dài hạn và kế hoạch hợp tác quốc tế trung hạn. Nghị
quyết số 20-NQ/TW, ngày 31-10-2012, của Hội nghị Trung ương 6 khóa XI về
phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế cũng xác định quan điểm phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ
là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng nhất để phát
triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Nhận thức được vấn đề này, Việt Nam đã và đang có những nỗ lực đáng
kể để tăng cường tiềm lực, nâng cao trình độ khoa học và công nghệ trong nước,
từng bước hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ, góp phần thực hiện hiệu
quả các chương trình phát triển kinh tế - xã hội và giải quyết các nhu cầu cấp
thiết của sản xuất và đời sống. Hiện nay, bên cạnh việc tiến hành đổi mới toàn
diện và đồng bộ trong quản lý, tổ chức và hoạt động khoa học và công nghệ, Bộ
Khoa học và Công nghệ đang tập trung các nguồn lực để triển khai có hiệu quả
Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011 - 2020, Kế hoạch
khoa học và công nghệ trung hạn 5 năm 2011 - 2015 và các chương trình, đề án
trọng điểm quốc gia về khoa học và công nghệ trong các lĩnh vực ưu tiên tới
năm 2020, trong đó có Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia, Chương trình
phát triển công nghệ cao, Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia; Chương
trình phát triển thị trường khoa học và công nghệ... Đây là các chương trình đặc
biệt quan trọng, có khả năng tác động mạnh mẽ tới tiềm lực và trình độ khoa học
và công nghệ trong nước, tăng cường hơn hội nhập quốc tế về khoa học và công
3



nghệ; từ đó góp phần quan trọng nâng cao tốc độ và chất lượng tăng trưởng của
nền kinh tế, thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ về hợp tác khoa học và công nghệ với
gần 70 nước, tổ chức quốc tế và vùng lãnh thổ. Hơn 80 hiệp định hợp tác khoa
học và công nghệ cấp chính phủ và cấp bộ đã được ký kết và đang thực hiện.
Việt Nam đang là thành viên của gần 100 tổ chức quốc tế và khu vực về khoa
học và công nghệ. Từ năm 2000 đến nay, có hơn 540 thỏa thuận, hợp đồng hợp
tác quốc tế được thực hiện tại các cơ sở nghiên cứu triển khai các cấp; hơn 400
nhiệm vụ nghiên cứu song phương giữa các tổ chức khoa học và công nghệ Việt
Nam với các tổ chức khoa học và công nghệ của các nước trên thế giới đã và
đang được thực hiện. Bộ Khoa học và Công nghệ đang tích cực triển khai thực
hiện Đề án “Hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ đến năm 2020” được
phê duyệt tại Quyết định số 735/QĐ-TTg, ngày 18-5-2011, của Thủ tướng
Chính phủ; xây dựng và ban hành một số văn bản quy phạm liên quan, như
Chương trình hợp tác nghiên cứu song phương và đa phương về khoa học và
công nghệ đến năm 2020, Chương trình tìm kiếm và chuyển giao công nghệ
nước ngoài vào Việt Nam đến năm 2020, Chương trình Hợp tác nghiên cứu song
phương và đa phương về khoa học và công nghệ đến năm 2020, Chương trình
Tìm kiếm và chuyển giao công nghệ nước ngoài đến năm 2020... Hoạt động hội
nhập quốc tế về khoa học và công nghệ nói chung đã đạt được những kết quả
quan trọng, nhiều hiệp định và thỏa thuận hợp tác liên chính phủ quan trọng
được hoàn tất đàm phán và ký kết, như Hiệp định hợp tác giữa Chính phủ Việt
Nam và Chính phủ Hoa Kỳ về sử dụng hòa bình năng lượng hạt nhân (Hiệp định
123), đánh dấu bước tiến quan trọng về sự tin cậy trong quan hệ hợp tác giữa
Việt Nam và Hoa Kỳ về sử dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình, mở
ra những triển vọng to lớn cho cả hai bên trong việc thúc đẩy những dự án hợp
tác cụ thể về ứng dụng bức xạ cũng như phát triển điện hạt nhân phục vụ phát
triển kinh tế - xã hội của mỗi nước. Ngoài ra, còn có các hiệp định và thỏa thuận

hợp tác khác được hai bên ký kết, như Hiệp định hợp tác giữa Chính phủ nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Liên bang Nga về đối tác
chiến lược trong lĩnh vực giáo dục, khoa học và công nghệ; Thỏa thuận về hợp
tác công nghệ, nghiên cứu và giáo dục giữa Bộ Khoa học và Công nghệ Việt
Nam và Bộ Khoa học, Nghiên cứu và Công nghệ I-ran; Biên bản thảo luận giữa
Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam và Cơ quan hợp tác quốc tế Hàn Quốc
(KOICA) về Dự án thành lập Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam - Hàn
Quốc (V-KIST); Hiệp định Dự án hỗ trợ xây dựng chính sách đổi mới và phát
triển các cơ sở ươm tạo doanh nghiệp (BIPP) với Vương quốc Bỉ và một số các
văn bản hợp tác khác.
Hoạt động hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ trong khuôn khổ đa
phương và song phương được duy trì và có bước phát triển đáng kể thời gian
qua, giúp thể hiện vị thế và vai trò về khoa học và công nghệ của Việt Nam
trong cộng đồng quốc tế. Bộ Khoa học và Công nghệ tích cực, chủ động tham
gia, đàm phán, ký kết biên bản các cuộc họp Ủy ban liên chính phủ trong khuôn
khổ hợp tác song phương và đa phương; tham gia các diễn đàn quốc tế, đẩy
4


mạnh sự tham gia sâu hơn của Việt Nam trong các tổ chức quốc tế và khu vực,
như Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA), Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
(APEC), Ủy ban Sử dụng không gian vì mục đích hòa bình của Liên hợp quốc
(COPUOS)...; tổ chức đón và làm việc với hơn 20 đoàn vào triển khai các hiệp
định, thỏa thuận đã ký; trao đổi, thảo luận, mở rộng các nội dung và hoạt động
hợp tác về khoa học và công nghệ; trình Thủ tướng Chính phủ ban hành hai
quyết định trong khuôn khổ Đề án hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ,
đó là Quyết định phê duyệt Chương trình hợp tác nghiên cứu song phương và đa
phương về khoa học và công nghệ đến năm 2020 và phê duyệt Chương trình tìm
kiếm và chuyển giao công nghệ nước ngoài đến năm 2020 (1).

Các hoạt động hợp tác về sở hữu trí tuệ được triển khai trong khuôn khổ
WTO, APEC, ASEAN, hợp tác song phương với Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới
(WIPO), với các quốc gia Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp; hợp tác với các cơ quan
sở hữu trí tuệ trong khu vực và của các quốc gia khác vẫn được duy trì và phát
triển, điển hình với Cơ quan sáng chế châu Âu (EPO), Hoa Kỳ, Ô-xtrây-li-a,
Nga, Xin-ga-po, Lào... Việt Nam đang tích cực tham gia và thực hiện các hiệp
định tầm khu vực và thế giới nhằm đáp ứng tiến trình hội nhập quốc tế; tiếp tục
triển khai hiệu quả chương trình hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ cũng như đẩy
mạnh hợp tác quốc tế nhằm tranh thủ sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế phục vụ
cho sự phát triển của hệ thống sở hữu trí tuệ Việt Nam; triển khai hiệu quả các
thoả thuận, chương trình, dự án hợp tác về sở hữu trí tuệ với các đối tác quốc tế.
Bên cạnh đó, một số chương trình hợp tác với các đối tác nước ngoài cũng
được triển khai mạnh mẽ, góp phần hỗ trợ đổi mới sáng tạo, chuyển giao công
nghệ. Thông qua chương trình hợp tác với Công ty ABI (Nhật Bản), quy trình
công nghệ bảo quản quả vải thiều bằng công nghệ CAS được hoàn thiện và lần
đầu tiên giới thiệu sản phẩm tại Hội chợ hàng nông sản Kan-đa ở Tô-ky-ô.
Thông qua hợp tác với Công ty Juran (I-xra-en), dây chuyền xử lý quả vải không
xông SO2 (lưu huỳnh đi-ô-xít) đang được giới thiệu và triển khai thử nghiệm tại
Bắc Giang. Hiệp định tài trợ Dự án đổi mới sáng tạo (IPP) giai đoạn 2 được ký
kết thành công, nhằm hỗ trợ hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật để
Luật và Chiến lược khoa học và công nghệ của Việt Nam đi vào cuộc sống; tăng
cường đào tạo về đổi mới sáng tạo và hình thành đội ngũ chuyên gia tư vấn đổi
mới công nghệ cho các doanh nghiệp.
Hiện nay, Bộ Khoa học và Công nghệ đang tích cực tiếp tục triển khai Dự
án “Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu, khoa học và công nghệ”
(FIRST) do Ngân hàng Thế giới (WB) tài trợ và Chương trình đối tác đổi mới
sáng tạo Việt Nam - Phần Lan (IPP) giai đoạn 2 (2014 - 2018); triển khai Dự án
“Xây dựng trung tâm đào tạo cán bộ quản lý khoa học và công nghệ cho Lào”;
tổ chức triển khai Dự án “Hỗ trợ xây dựng chính sách đổi mới và phát triển cơ
sở ươm tạo doanh nghiệp” hợp tác với Vương quốc Bỉ, đồng thời tiếp tục thực

hiện Đề án tăng cường mạng lưới đại diện khoa học và công nghệ ở nước ngoài.
Hoạt động hợp tác nghiên cứu chung song phương theo nghị định thư tiếp tục
được triển khai mạnh mẽ nhằm thu hút các nguồn lực và kinh nghiệm từ các đối
5


tác nước ngoài để phát triển khoa học và công nghệ quốc gia. Mạng lưới đại
diện khoa học và công nghệ ở các địa bàn, quốc gia trọng điểm tiếp tục được
kiện toàn để làm đầu mối kết nối thông tin, triển khai các nhiệm vụ khoa học và
công nghệ.
Hợp tác quốc tế về an toàn bức xạ, an toàn hạt nhân, đẩy mạnh ứng dụng
năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình được duy trì và có bước phát triển.
Hoạt động hợp tác quốc tế trong ứng dụng năng lượng nguyên tử, an toàn bức xạ
hạt nhân phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và phát triển bền vững đất nước
được thúc đẩy. Việt Nam đã và đang tranh thủ sự hỗ trợ của các đối tác nước
ngoài, tổ chức quốc tế và khu vực nhằm hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật liên quan đến an toàn, an ninh hạt nhân, phát triển kết cấu hạ tầng điện
hạt nhân, đào tạo nhân lực trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử; triển khai các
hoạt động hợp tác quốc tế nhằm đẩy mạnh các hướng ứng dụng bức xạ và đồng
vị phóng xạ trong các ngành y tế, nông nghiệp, công nghiệp, tài nguyên và môi
trường có thế mạnh của Việt Nam và tạo điều kiện nâng cao năng lực cạnh tranh
cho các sản phẩm và hàng hóa trong nước.
Công tác hợp tác song phương và đa phương với các tổ chức thông tin,
thư viện, thống kê khoa học và công nghệ của các nước và quốc tế tiếp tục được
tăng cường và mở rộng trong thời gian qua. Các hoạt động trao đổi chuyên môn,
nghiệp vụ chuyên ngành thông tin, thư viện và thống kê; tìm kiếm đối tác mới
và tiến hành các dự án hợp tác nghiên cứu chung, hoạt động của Mạng nghiên
cứu và đào tạo Việt Nam (VinaREN) trong khuôn khổ TEIN4/APAN và hoạt
động ứng dụng công nghệ mạng tiên tiến phục vụ nghiên cứu khoa học và đào
tạo cán bộ được đẩy mạnh.

2.2. Hạn chế trong hợp tác về khoa học và công nghệ
Hợp tác và hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ ở các địa phương
chưa được thúc đẩy và đồng đều; Nguồn kinh phí đối ứng trong nước để thực
hiện các dự án còn hạn hẹp; Hoạt động chuyển giao khoa học và công nghệ ở
các doanh nghiệp trong nước chủ yếu mới chỉ dừng ở mức tiếp nhận thông qua
các dự án đầu tư trực tiếp hoặc viện trợ của nước ngoài, có rất ít đầu tư nghiên
cứu, làm chủ và đổi mới công nghệ. Số doanh nghiệp chủ động đầu tư, hợp tác
nghiên cứu khoa học còn rất ít.
Tuy nhiên, trên thực tế, nguồn nhân lực khoa học và công nghệ ở nước ta
hiện nay vẫn chưa đủ năng lực để tham gia hiệu quả vào các hoạt động khoa học
và công nghệ quốc tế và khu vực; hàm lượng khoa học và công nghệ đóng góp
cho các hoạt động khoa học và công nghệ quốc tế và khu vực còn thấp. Các tổ
chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, các trường đại học chưa đủ
năng lực và điều kiện xúc tiến mở rộng các hoạt động hội nhập quốc tế do cơ sở
vật chất, kỹ thuật không đồng bộ, môi trường làm việc chưa chuyên nghiệp, cán
bộ nghiên cứu đầu đàn và nhân viên kỹ thuật có trình độ còn thiếu,... Phần lớn
các hoạt động hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ trong thời gian qua mới
chỉ được thực hiện trong khuôn khổ các hiệp định/thoả thuận hợp tác song
phương hoặc đa phương. Mối quan hệ hợp tác thường diễn ra “một chiều”, trong
6


đó các đối tác của Việt Nam thường là “bên nhận, bên được hỗ trợ”, các đối tác
nước ngoài là “bên cho, bên hỗ trợ”.
Điều này dẫn đến sự phụ thuộc vào đối tác và không bình đẳng về nghĩa
vụ cũng như quyền lợi của mỗi bên. Việc thực thi các quy định pháp luật về sở
hữu trí tuệ chưa hiệu quả, mặc dù hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về sở
hữu trí tuệ đã đáp ứng được tính đầy đủ và phù hợp với các cam kết quốc tế mà
Việt Nam là thành viên; các cơ quan thực thi quyền chưa đáp ứng yêu cầu cả
chất lượng và số lượng. Bên cạnh đó, nhận thức của lãnh đạo các cấp, các ngành

và toàn xã hội về vấn đề này còn hạn chế. Các hoạt động chuyển giao công nghệ
ở các doanh nghiệp chủ yếu mới chỉ dừng ở mức tiếp nhận thông qua các dự án
đầu tư trực tiếp hoặc viện trợ của nước ngoài, chưa có đầu tư nghiên cứu, làm
chủ và đổi mới công nghệ. Các doanh nghiệp thường thiếu thông tin khoa học và
công nghệ trong nước và ngoài nước. Sự gắn kết giữa hoạt động nghiên cứu
khoa học và phát triển công nghệ với hoạt động đào tạo nhân lực khoa học và
công nghệ cũng như nhu cầu hội nhập của doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế.
3. Giải pháp đẩy mạng hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ ở
Việt Nam trong thời gian tới.
Đại hội XII của Đảng đã xác định: Để góp phần đạt được mục tiêu đưa
Việt Nam về cơ bản sớm trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, phát
triển mạnh mẽ khoa học - công nghệ, làm cho khoa học - công nghệ thực sự là
động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri
thức. Đặc biệt các công nghệ mới theo xu hướng của cuộc cách mạng số, cách
mạng công nghiệp lần thứ 4, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức
cạnh tranh của nền kinh tế; bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Phát triển đồng bộ khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ
thuật và công nghệ, đáp ứng yêu cầu cơ bản của một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại. Trong thời gian tới, để tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động hội nhập
quốc tế về khoa học và công nghệ nhằm nâng cao khả năng tiếp thu, làm chủ
công nghệ tiên tiến, sáng tạo ra sản phẩm, dịch vụ, công nghệ mới, góp phần vào
việc phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng
sản phẩm, dịch vụ với giá trị gia tăng cao, Bộ Khoa học và Công nghệ tiếp tục
tích cực triển khai thực hiện Đề án “Hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ
đến năm 2020” với các giải pháp chính như sau:
Một là, xây dựng đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học và đội ngũ cán bộ
quản lý vững mạnh đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế về KH&CN.
Trong thời đại hiện nay dưới tác động của cuộc cách mạng KH&CN hiện
đại thì nguồn nhận lực vẫn luôn là yếu tố quyết định đến tiềm lực khoa học công
nghệ của mọi quốc gia. Nguồn nhân lực khoa học công nghệ là lực lượng chủ

chốt của công nghiệp hoá, hiện đại hoá và triển khai khoa hoc- công nghệ. Thiếu
7


nguồn lực này thì không thể nói tới phát triển KH&CN cũng như hội nhập kinh
tế quôc tế. Trong thời đại ngày nay, vai trò của nguồn lực này lại càng phải đặc
biệt coi trọng. Để tăng nguồn lực này, chúng ta cần đẩy nhanh việc đào tạo các
cán bộ khoa học- công nghệ, nhất là cho các ngành kinh tế trọng yếu và các
ngành công nghệ cao, trẻ hoá đội ngũ cán bộ khoa học- công nghệ trong các cơ
sở nghiên cứu, các trường học và các cơ sở kinh doanh, đẩy nhanh tôc độ phát
triển thị trường nhân lực khoa học- công nghệ.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất
lượng cao, quan tâm đào tạo nhân tài để trong tương lai không xa lắm tạo ra
được một đội ngũ các tri thức giỏi, các nhà khoa học lớn, các chuyên gia kỹ
thuật, công nghệ có tầm cỡ thế giới, nhưng cần sắp xếp lại cho hợp lý, có chính
sách thoả đáng để sử dụng có hiệu quả coa hơn đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật
hiện có. Chúng ta phải làm sao để những người có năng lực, có nhiệt tình và có
tính thần trách nhiệm trong hoạt đông xã hội xây dựng đất nước có thể sống ổn
định vững chắc bằng lượng mà không phải làm thêm bằng những việc ngoài
chuyên môn của mình.
Quan tâm hơn nữa chính sách xã hội ưu đãi đối với đội ngũ cán bộ khoa
học, nhất là chính sách vệ tiền lương, nhà ở, điều kiện làm việc và nghiên cứu
khoa học. Có chính sách đặc biệt trong thu hút nhân tài, chính sách khuyến
khích sáng tạo khoa học và công nghệ.
Hai là, Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ cơ chế quản lý, tổ chức,
hoạt động khoa học - công nghệ
Đại hội XII của Đảng coi việc đổi mới tổ chức hoạt động và quản lý khoa
học - công nghệ là một nhiệm vụ chính và là một chính sách cơ bản về phát triển
khoa học - công nghệ trong những năm tới. Chủ trương này thể hiện vai trò quan
trọng của cơ chế quản lý và sự quyết tâm tiếp tục đổi mới cơ bản, toàn diện,

đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý hoạt động khoa học - công nghệ, nhằm giải
phóng năng lực sáng tạo trong hoạt động khoa học - công nghệ ở nước ta. Theo
đó, nhiệm vụ đặt ra là tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ về tổ chức, cơ chế
quản lý, cơ chế hoạt động, công tác xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển
khoa học - công nghệ; phương thức đầu tư, cơ chế tài chính, chính sách cán bộ,
cơ chế tự chủ của các tổ chức khoa học và công nghệ phù hợp với kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cụ thể là, quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống tổ chức khoa học - công nghệ;
xây dựng một số trung tâm nghiên cứu hiện đại. Phát triển, nâng cao năng lực hệ
thống các tổ chức dịch vụ khoa học - công nghệ, phát triển thị trường khoa học
và công nghệ.
8


Tiếp tục xây dựng, thực hiện cơ chế thúc đẩy đổi mới công nghệ theo
hướng ứng dụng công nghệ mới, công nghệ hiện đại, nhằm huy động mạnh mẽ
nguồn vốn xã hội và các nguồn vốn nước ngoài đầu tư cho phát triển khoa học
-công nghệ; thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học
-công nghệ công lập; tăng cường liên kết giữa tổ chức khoa học - công nghệ với
doanh nghiệp.
Xây dựng và thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ,
tôn vinh đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ, nhất là các chuyên gia giỏi, có nhiều
đóng góp. Tạo môi trường thuận lợi, điều kiện vật chất để cán bộ khoa học - công
nghệ phát triển bằng tài năng và hưởng lợi ích xứng đáng với giá trị lao động sáng
tạo của mình. Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt
động nghiên cứu, sáng tạo, tư vấn, phản biện của các nhà khoa học.
Kiện toàn, nâng cao năng lực bộ máy và đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước
về khoa học - công nghệ. Hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ, chuyển giao
công nghệ, tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng sản phẩm, hàng hóa
theo hướng hỗ trợ hiệu quả cho việc vận hành thị trường khoa học - công nghệ.

Ba là, xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án, nhiệm vụ nghiên
cứu chung trong khuôn khổ các thỏa thuận song phương, đa phương. Khuyến
khích hợp tác nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ giữa doanh nghiệp,
trường đại học, viện nghiên cứu, cá nhân trong nước với các đối tác nước ngoài.
Thu hút nguồn kinh phí từ nước ngoài thông qua các dự án nghiên cứu tại Việt
Nam. Tăng cường tổ chức và chủ trì các hội nghị, hội thảo khoa học quốc tế tại
Việt Nam và tham gia các hội nghị, hội thảo khoa học ở nước ngoài. Tổ chức
triển lãm giới thiệu các thành tựu khoa học và công nghệ mới, tiên tiến của các
nước và Việt Nam.
Ba là, phát huy hiệu quả hoạt động của mạng lưới đại diện khoa học và
công nghệ Việt Nam ở nước ngoài. Thu hút các chuyên gia, nhà khoa học là
người nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài tham gia các chương trình, dự
án nghiên cứu, đào tạo nhân lực khoa học và công nghệ, hình thành các nhóm
nghiên cứu mạnh ở Việt Nam, trong đó chú trọng đến các nhóm nghiên cứu
khoa học trẻ.
Bốn là, xây dựng và triển khai nội dung, kế hoạch hợp tác khoa học và
công nghệ tầm quốc gia với các nước mạnh về khoa học và công nghệ và là đối
tác chiến lược của Việt Nam. Hình thành các trung tâm nghiên cứu khoa học
xuất sắc trên cơ sở hợp tác dài hạn giữa các tổ chức nghiên cứu khoa học của
Việt Nam và của nước ngoài. Thí điểm hợp tác xây dựng một số viện khoa học
và công nghệ tiên tiến có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

9


Năm là, xây dựng mạng lưới chuyên gia tìm kiếm công nghệ, xây dựng
báo cáo về thông tin công nghệ quốc tế, hồ sơ công nghệ quốc tế và các báo cáo
khác liên quan đến xu hướng phát triển công nghệ ở nước sở tại và thế giới. Tổ
chức nhóm chuyên gia theo từng lĩnh vực khoa học và công nghệ ưu tiên của
quốc gia, kết hợp giữa chuyên gia công nghệ với chuyên gia quản trị công nghệ;

tổ chức hội nghị, hội thảo khoa học; sinh hoạt chuyên đề, giao lưu giữa các
nhóm chuyên gia tìm kiếm công nghệ với các doanh nghiệp, tổ chức cơ quan
trong nước có nhu cầu tìm kiếm công nghệ nước ngoài; Tiến hành thí điểm cử
các nhà khoa học và công nghệ trẻ Việt Nam vào làm việc trong các doanh
nghiệp công nghệ của thế giới
Sáu là, cần tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức quản lý hoạt động khoa họccông nghệ, bởi tính hiệu quả của hoạt động này một phần rất quan trọng là ở hệ
thống tổ chức quản lý. Hệ thống này đóng vai trò phân phối, tập trung và quản lý lực
lượng cán bộ khoa học- công nghệ, đảm bảo tính hiệu quả của các mục tiêu phát
triển. Một trong những nguyên nhân cơ bản của sự yếu kém về năng lực khoa họccông nghệ quốc gia hiện nay là do tổ chức quản lý khoa học- công nghệ còn kém
hiệu quả. Vì vậy, chúng ta cần tiếp tục đổi mới hệ thống này theo hướng Nhà nước
thống nhất quản lý các hoạt động KH- CN, đảm nhận những nhiệm vụ có ý nghĩa
chiến lược, phát triển tiềm lực, đón đầu và phát triển những công nghệ mới có ý
nghĩa quyết đinh đối với toàn bộ nền kinh tế. Các doanh nghiệp đảm nhân thực hiện
việc ứng dụng các hết quả nghiên cứu khoa học và những tiến bộ KH- CN.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ ngoại giao, Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hoá: vấn đề
và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2006.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
5. Đại học Ngoại thương, Giáo trình kinh tế học quốc tế, Nxb Thống kê,
Hà Nội, 2013.
6. Hà Thị Ngọc Oanh, Kinh tế đối ngoại những nguyên lý và vận dụng tại Việt
Nam, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội, 2006.
7. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn
khoa học Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình
10




×