Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

TIỂU LUẬN xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong quá trình phát triển kinh tế giai đoạn 2011 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92 KB, 10 trang )

Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong quá trình phát triển
kinh tế giai đoạn 2011-2017, thực trạng và giải pháp trong chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế ở Việt Nam
MỞ ĐẦU
Tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia thường đi liền với
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là cơ cấu ngành kinh tế. Trong những năm
qua, cơ cấu kinh tế của nước ta chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, phát huy lợi thế so sánh ngành và vùng lãnh thổ. Nhờ đó, sau hơn 30 năm đổi
mới, kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng. Từ một nền kinh tế
nông nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm nông nghiệp, Việt Nam đã xây dựng được
cơ sở vật chất - kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước đáp ứng cho sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra môi trường thu hút nguồn lực xã hội cho phát
triển dài hạn và bền vững.
Tuy nhiên, những tiến bộ trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế đó cũng mới chỉ
là buớc đầu và nhìn chung sụ chuyển dịch cơ cấu còn chậm. Cho đến nay, nuớc ta
vẫn là nuớc nông nghiệp, dân cu sống ở nông thôn và lao động nông nghiệp vẫn
chiếm tỷ trọng lớn. Để đạt đuợc mục tiêu: “sớm đưa nuớc ta cơ bản trở thành một
nuớc công nghiệp theo hướng hiện đại” mà Đại hội XII đã đề ra thì còn nhiều vấn
đề phải đuợc tiếp tục nghiên cứu và có giải pháp sát thục.
Với lý do đó, tôi chọn đề tài: “Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh
tế trong quá trình phát triển kinh tế giai đoạn 2011 - 2017, thực trạng và giải
pháp trong chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam”.
NỘI DUNG
1. Một số vấn đề chung về chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
1.1. Cơ cấu kinh tế và cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu kinh tế
Có thể nói có rất nhiều cách nhìn nhận về cơ cấu kinh tế, dưới những góc độ
và khía cạnh khác nhau. Ví như theo quan điểm về duy vật biện chứng và lí thuyết
hệ thống thì cơ cấu kinh tế là một phạm trù kinh tế,là nền tảng của cơ cấu xã hội và
chế độ xã hội. Hay hiểu một cách đầy đủ thì đó là một tổng thể hệ thống kinh tế
bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau,tác động qua lại với nhau trong


những không gian và thời gian nhất định ,trong những điều kiện kinh tế - xã hội
nhất định ,được thể hiện cả về mặt định tính lẫn định lượng, cả về số lượng và chất
lượng,phù hợp với mục tiêu được xác định của nền kinh tế. Nhưng dù nhìn nhận
theo góc độ nào thì nói chung cơ cấu kinh tế quốc dân là tổng thể những mối
quan hệ về chất lượng, số lượng giữa các bộ phận cấu thành trong một thời
gian và trong một điều kiện kinh tế xã hội nhất định.
Phân loại cơ cấu: Nền kinh tế quốc dân dưới giác độ cấu trúc là sự đan xen
nhiều loại cơ cấu khác nhau, có mối quan hệ chi phối lẫn nhau trong quá trình phát
1


hiển kinh tế. Có nắm vững được từng loại cơ cấu cụ thể của nền kinh tế quốc dân
thì mới có thể thực thi các giải pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả.
Nhưng loại cơ cấu kinh tế cơ bản quyết định sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế
bao gồm: Cơ cấu ngành kinh tế: bao gồm 3 nhóm ngành chính là công nghiệp,
nông nghiệp và dịch vụ; cơ cấu vùng, lãnh thổ kinh tế; cơ cấu thành phần kinh tế.
Cơ cấu kinh tế là nhân tố cơ bản quyết định sự tồn tại ,phát triển kinh tế của
các nước . Một nước muốn có kinh tế phát triển thì phải có sự phân chia hợp lý
giữa các ngành nghề, các vùng lãnh thổ...không có một nền kinh tế nào lại phát
triển manh được nếu chỉ dựa vào nông nghiệp ,hay công nghiệp, hay dịch vụ.
Chính vì vậy, giải quyết vấn đề cơ cấu kinh tế luôn là trọng tâm của việc hoạch
định kế hoạch phát triển kinh tế các nước.
Cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu ngành kinh tế là tổng hợp các ngành hợp thành các tương quan tỷ lệ
biểu hiện mối liên hệ giữa các nhóm ngành của nền kinh tế quốc dân.
Cơ cấu ngành phản ánh phần nào trình độ phân công lao động xã hội chung
của nền kinh tế và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, thay đổi mạnh mẽ cơ
cấu ngành là nét đặc trưng của các nước đang phát triển. Khi phân tích cơ cấu
ngành của một quốc gia người ta phân tích theo 3 nhóm ngành chính: nông nghiệp
(bao gồm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp), công nghiệp (bao gồm công

nghiệp và xây dựng), dịch vụ (bao gồm các ngành kinh tế còn lại như: thương mại,
bưu điện, du lịch...).
Việc phân tích cơ cấu ngành của nền kinh tế không chỉ dừng lại ở những
biểu hiện về mặt lượng (số lượng ngành, tỷ trọng) mà quan trọng hơn là phân tích
được mặt chất của cơ cấu: vị trí, vai trò của ngành hiện tại trong nền kinh tế, sự
tương tác giữa công nghiệp và nông nghiệp trong phát triển, khả năng hướng
ngoại, quan hệ giữa cơ cấu ngành với cơ cấu lãnh thổ và cơ cấu theo thành phần
kinh tế...
Mặt khác, cơ cấu ngành "luôn luôn vận động, phát triển", nhất là trong điều
kiện cơ chế thị trường. Bởi vậy, khi phân tích cơ cấu ngành cần thấy rõ tính quy
luật của sự vận động và luôn đặt ra phương hướng chuyển dịch cơ cấu ngành cho
thích ứng yêu cầu phát triển kinh tế trong từng giai đoạn.
1.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu ngành kinh tế là một pham trù động, nó luôn luôn thay đối theo từng
thời kỳ phát triển bởi các yếu tố họp thành cơ cấu không cố định. Qua trình thay
đối cơ cấu nghành từ trạng thái này sang trạng thái khác ngày càng hoàn thiện hơn,
phù họp với môi trường và điều kiện phát triển gọi là sự chuyến dịch cơ cấu ngành
kinh tế. Chuyến dịch cơ cấu ngành kinh tế không chỉ là thay đối về số lượng các
ngành, tỷ trọng của mỗi ngành mà còn bao gồm sự thay đổi về vị trí tính chất, mối
quan hệ trong nội bộ cơ cấu ngành. Việc chuyến dịch cơ cấu ngành phải dựa trên
2


cơ sở một cơ cấu hiện có và nội dung của sự chuyển dịch là cải tạo cơ cấu cũ, lạc
hậu chua phù họp để xây dựng cơ cấu mới tiên tiến, hoàn thiện và bổ sung cơ cấu
cũ nhằm biến cơ cấu cũ thành cơ cấu mới hiện đại và phù họp hơn.
Sự chuyến dịch cơ cấu ngành kinh tế mang tính quy luật, đó là khi thu nhập
đầu nguời tăng lên thì tỷ trọng nông nghiệp trong tống sản phẩm sẽ giảm xuống,
còn tỷ trong của công nghiệp và dịch vụ sẽ tăng lên. Khi đạt đến trình độ nhất định,
tỷ trọng của dịch vụ sẽ tăng nhanh hơn tỷ trọng của công nghiệp.

Xu huớng chuyến dịch cơ cấu ngành đã đuợc hai nhà kinh tê học là E.Engel
và A.Fisher nghiên cứu khi đề cập sự thay đổi về nhu cầu chi tiêu và sự thây đổi cơ
cấu lao động. Ngay từ cuối thế kỷ 19, E.Engel đã nhận thấy rằng, khi thu nhập của
các gia đình tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu cho luơng thực thực phẩm giảm nên tất yếu
dẫn đến tỷ trọng nông nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế sẽ giảm đi khi thu nhập
tăng lên. Quy luật E.Engel đuợc nghiên cứu cho sự tiêu dùng luơng thực, thực
phẩm, nhung có ý nghĩa quan trọng trong việc định huớng nghiên cứu tiêu dùng
cho các loại sản phẩm khác. Các nhà kinh tế gọi luơng thực, thực phẩm là sản
phẩm thiết yếu, hàng công nghiệp là sản phẩm tiêu dùng lâu bền và việc cung cấp
dịch vụ là hàng hóa tiêu dùng cao cấp. Thực tế phát triển của các nuớc đã chỉ ra xu
huớng chung là khi thu nhập tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu cho hàng tiêu dùng lâu bền
tăng phù họp với tốc độ tăng thu nhập, còn chi tiêu cho hàng hóa cao cấp có tốc độ
tăng nhanh hơn.
Cùng với quy luật tiêu thụ sản phẩm của E. Engel, quy luật tăng năng suất
lao động của A. Fisher cũng làm rõ xu huớng chuyến dịch cơ cấu ngành kinh tế
qua việc phân bố lao động. Trong quá trình phát triển, việc tăng cuờng sử dụng
máy móc và các phuơng thức canh tác mới đã tạo điều kiện nâng cao năng suất lao
động. Ket quả là đế đảm bảo luơng thực thực phẩm cho xã hội sẽ không cần đến
lực luợng lao động nhu cũ, có nghĩa là tỷ lệ lao động trong nông nghiệp sẽ giảm.
Nguợc lại, tỷ lệ lao động đuợc thu hút vào công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng
do tính co giãn về nhu cầu sản phẩm của hai khu vực và khả năng hạn chế hơn
trong việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật đế thay thế lao động, đặc biệt là hoạt động dịch
vụ.
2. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay
2.1. Những thành tựu đã đạt được trong những năm qua :
Chuyến dịch cơ cấu ngành kỉnh tế
Sau hơn 30 năm đổi mới, kinh tế nước ta liên tục tăng trưởng và phát triển
hết sức khả quan. Việc phát hiển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã tạo
nên một môi trường kinh tế có tính cạnh tranh và năng động hơn. Trong giai đoạn

này cơ cấu kinh tế ngành của nước ta đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực: tỷ

3


trọng của ngành nông nghệp giảm dần, tăng dần tỉ trọng của ngành công nghiệp và
dịch vụ.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong ngành công nghiệp
Chuyển dịch cơ cấu của khu vực công nghiệp được thực hiện gắn liền với sự
phát hiển các ngành theo hướng da dạng hóa, từng bước hình thành một số ngành
trọng điểm và mũi nhọn, có tốc độ phát triển cao, thuận lợi về thị trường, có khả
năng xuất khẩu. Các sản phẩm công nghiệp quan trọng đều tăng khá như điện,
thép, phân bón, dầu thô, xi măng, than... Sự phát triển này đã góp phần đáng kể
vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Cơ cấu công nghiệp chuyển dịch tích cực; tỉ trọng
công nghiệp khai khoáng giảm; tỉ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo so với toàn
ngành công nghiệp tăng từ 49,8% năm 2010 lên 50,5% vào năm 2015. Tập trung
cơ cấu lại ngành, lĩnh vực và sản phẩm theo hướng nâng cao giá trị quốc gia, giá trị
gia tăng, chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm. Tích cực mở rộng thị trường
ở các nước, các khu vực, không phụ thuộc quá lớn vào một thị trường. Từng bước
tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Năng lực và trình độ công
nghệ ngành xây dựng được nâng lên.
Giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp bình quân khoảng 10%/năm trong
giai đoạn 1997-2007. về giá trị sản xuất công nghiệp (tính theo giá so sánh năm
1994) năm 2007 ước tăng 17,1% so với năm 2006, trong đó khu vực kinh tế nhà
nước tăng 10,3%; khu vực ngoài nhà nước tăng 20,9%; khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài tăng 18,2%. Cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp cũng chuyển dịch tích
cực theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến từ 83,9% năm 2006 lên khoảng
84,4% năm 2007. Đối với nhóm ngành chế biến nông, lâm, thủy, hải sản, nhất là
chế biến thực phẩm và đồ uống đóng góp quan trọng vào cơ cấu chế biến với tỷ
trọng là 21,0% năm 2006 và khoảng 21,3% năm 2007.

Công nghiệp chế biến xuất khẩu đã phát triển hơn nhiều so với các sản phẩm
xuất khẩu thô. Nhiều sản phẩm công nghiệp không chỉ đáp ứng cơ bản nhu cầu
thiết yếu của nền kinh tế như điện, than, phân bón, sắt thép... mà còn tham gia vào
xuất khẩu và chiếm tỷ trọng cao như: mặt hàng nhựa, dệt may, điện tử và linh kiện
máy tính, thủ công mỹ nghệ... Tăng trưởng xuất khẩu của khu vực này chủ yếu do
một số ngành công nghiệp nhẹ.
Chuyển dịch của khu vực công nghiệp theo hướng hình thành, phát triển một
số ngành và sản phẩm mới thay thế nhập khẩu, ở khía cạnh hiệu quả kinh tế, một
số lọai sản phẩm được sản xuất ra với khối lượng ngày càng lớn như: lắp ráp ôtô,
xe máy, đồ điện tử, đường, xi măng... đã cung cấp cho thị trường nội địa, vốn cần
thiết cho đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, nhiều mặt hàng có chất lượng cao
đã chiếm lĩnh thị trường trong nước. Tỷ trọng xuất khẩu của khu vực FDI tăng
nhanh, tập trung vào nhóm ngành chế biến thực phẩm và dầu khí, đóng góp đáng
kể vào tăng trưởng xuất khẩu của nước ta và có vị trí chủ yếu trong một số mặt
4


hàng xuất khẩu chủ lực. Đây được coi là một trong những yếu tố quan trọng thúc
đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH...
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong ngành nông nghiệp
Trong công cuộc đổi mới, nông nghiệp -nông thôn được đánh giá là một
trong những lĩnh vực nhiều khởi sắc nhất trong các hoạt động kinh tế xã hội. Từ
một nền nông nghiệp lạc hậu, manh mún sản xuất không đủ đáp ứng nhu cầu tối
thiểu tiêu dùng nội địa, sau một thời gian không dài đối với quá trình phát triển xã
hội, đến nay sản xuất nông nghiệp nước ta đang dần hướng tới một nền sản xuất
hàng hoá với nhiều sản phẩm xuất khẩu quan trọng đã xác định được vị thế trên thị
trường thế giới. Không chỉ dừng lại ở niềm tự hào của một đất nước từ thiếu đói
lưong thực đã từng bước vươn lên trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu
lúa gạo hàng đầu thế giới, ngày nay nhiều sản phẩm nông sản khác của Việt Nam
đã vươn lên vị trí hàng đầu thế giới, đồng thời đáp ứng sức tiêu dùng về lương

thực, thực phẩm, rau hoa quả của trên 80 triệu dân trong nước với các sản phẩm
ngày càng phong phú, đa dạng và chất lượng cao.
Công nghiệp nông thôn đã có sự chuyển biến tích cực thực sự. Sự quản lý
cứng, gò bó trước đây đã được xoá bỏ về cơ bản. Những chủ trương, chính sách về
đời sống kinh tế đã dần dần thấm vào mỗi người dân; cơ cấu vốn đầu tư ở nông
thôn đã chuyển theo hướng gianh cho sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công
nghiệp nhiều hơn.
Cơ cấu công nghiệp nông thôn đã thay đổi theo hướng thích ứng với cơ chế
kinh tế mới trong những điều kiện mới. Sự thay đổi rõ nhất là trong cơ cấu thành
phần kinh tế. Kinh tế hộ và các doanh nghiệp tư nhân, trách nhiệm hữu hạn tăng
lên một cách nhanh chóng, trong khi các hợp tác xã và kinh tế Nhà nước giảm đi rõ
rệt.
Nhiều ngành nghề, sản phẩm truyền thống từng bị mai một đã dần dần được
khôi phục lại do yêu cầu khách quan của nền kinh tế, của thị trường trong nước và
quốc tế. Sự phục hồi này thường gắn liền với sự đổi mới, hiện đại hoá các sản
phẩm và công nghệ tmyền thống. Mặt khác, nhiều làng truyền thống được khôi
phục lại có sức lan toả khá mạnh sang các khu vực lân cận.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong ngành dịch vụ
Nền kinh tế nước ta là một tổng thể kinh tế quốc dân thống nhất nó bao gồm
nhiều ngành và mỗi ngành thực hiện một chức năng nhất định. Thương mại -dịch
vụ là một trong những ngành kinh tế quốc dân quan trọng, ở những nuớc có nền
kinh tế phát triển, 80% lực luợng lao động xã hội làm việc trong lĩnh vực dịch vụ
và giá trị dịch vụ chiếm 2/3 trong tổng GDP một nuớc. ? nuớc ta trong thời kì vận
hành nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung truớc đây, hoạt động dịch vụ
chủ yếu chỉ bó hẹp trong khâu phân phối luu thông và do nhà nuớc tổ chức quản
lý, các loại dịch vụ khác thì hầu nhu không có hoặc bị cấm. Cùng với quá trình
5


chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế thị truờng định huớng xã hội chủ nghĩa, ngành

dịch vụ đã từng buớc hình thành và phát triển đa dạng với tốc độ cao, góp phần
phục vụ đắc lực cho sản xuất của các ngành nông nghiệp và công nghiệp.
Tỉ trọng của khu vực dịch vụ luôn ở mức cao trong tổng thu nhập quốc dân
nuớc ta những năm gần đây. Tăng 8,26%, (kế hoạch tăng 8%), năm 2006. Trong
năm 2007 là tỷ trọng khu vực dịch vụ( 38,1%) tăng cao và tốc độ tăng khá ổn định,
quý sau cao hơn quý truớc, trong điều kiện có khó khăn nhiều mặt, nhất là dịch vụ
vận tải, du lịch, thuơng mại, tài chính ngân hàng trong bối cảnh hội nhập
WTO(mức tăng truởng 8,1%).
Trong nội bộ ngành dịch vụ, Buu chính viễn thông có buớc phát triển đáng
kể nhờ việc sử dụng dịch vụ internet và điện thoại di động. Ngoài ra,chính sách
đầu tu phát triển hạ tầng giao thông có hiệu quả của chính phủ đã hình thành hệ
thống giao thông thông suốt từ Bắc tới Nam ,làm gia tăng tỉ trọng nhiều nhất của
nhóm ngành vận tải .Sự gia tăng tỉ trọng còn đuợc nhận thấy trong các nhóm ngành
thuộc về hoạt động khoa học và công nghệ .Vì chính khoa học công nghệ là nền
tảng để tạo buớc tiến về năng suất,hiệu quả, chất luợng của các ngành khác. Đặc
biệt, với sự ra đời của một loại thị trường mới năng động, sáng tạo “Thị trường
chứng khoán” đã làm mới , hứa hẹn mang lại sắc màu mới cho nền kinh tế non trẻ
đầy tiềm năng như Việt Nam.
2.2. Những hạn chế trong chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở nước ta
Trong ngành nông nghiệp
Trước hết là tình trạng kinh tế thuần nông, cây lúa chiếm tỷ lệ tuyệt đối, sức
mua còn rất nhỏ. Trình độ kỹ thuật của công nghiệp nông thôn còn thấp cả về sản
phẩm, thiết bị lẫn công nghệ. Trừ một số mặt hàng thủ công mỹ nghệ, sản phẩm,
của công nghiệp nông thôn có chất lượng thấp, mẫu mã, kiêủ dáng chậm thay đổi,
tốn nhiều nguyên vật liệu, năng lương. Phần lớn thiết bị và công nghệ sản vuất của
công nghiệp nông thôn là công cụ thủ công cải tiến hoặc thiết bị thải loại của các
cơ sở công nghiệp đô thị. Công nghiệp nông thôn nước ta phát triển không đồng
đều, mới chỉ tập trung ở những địa phương có ngành nghề truyền thông, ở ven đô
thị, đầu mối giao thông quan trọng
Cho đến nay, kinh nghiệm kinh doanh của người dân nông thôn trên các lĩnh

vực phi nông nghiệp còn hạn chế, do đó họ chưa dám chấp nhận rủi ro và mạnh
dạn kinh doanh. Hơn nữa, họ cũng thiếu những kiến thức về kinh doanh (kinh
nghiệm và kiến thức về nghiên cứu thị trường, marketing...). Thực tế cho thấy, Việt
Nam đang thừa lao động nhưng lại rất thiếu lao động có kỹ năng không chỉ trong
lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ mà cả chính trong nông nghiệp.
Một vấn đề quan trong nữa là hàng nông sản Việt Nam chưa tạo được
thương hiệu cho riêng mình. Theo bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, hiện
nay, có tới 90% số hàng nông sản xuất khẩu của nước ta phải thông qua trung gian
6


để bán với những thương hiệu nước ngoài, chỉ có khoảng 10% mang thương hiệu
Việt Nam.
Trong ngành công nghiệp
Ngành công nghiệp nước ta tuy đã có những bước chuyển biến đáng kể
nhưng vẫn vấp phải rất nhiều khó khăn chưa thể giải quyết.
Ngành công nghiệp chế biến tuy chiếm khoảng 80% giá trị sản lượng nhưng
chỉ đóng góp 50% giá trị gia tăng của ngành công nghiệp -xây dựng là do đã phát
triển mạnh các lĩnh vực gia công, có giá trị gia tăng thấp. Đây là một nhược điểm
quan trọng làm giảm hiệu quả và sức cạnh tranh trong điều kiện hội nhập . Những
ngành có hàm lượng công nghệ cao, nhất là ngành công nghệ thông tin phát triển
còn chậm và tỷ trọng trong cơ cấu công nghiệp còn ở mức thấp so với khu vực.
Hiện tại những ngành công nghệ cao của công nghiệp nước ta chỉ chiếm 15,7%
trong tổng công nghiệp chế biến (tính theo giá trị sản xuất), công nghệ trung bình
chiếm 31,5% và công nghệ thấp chiếm 52,8%. Nếu tính theo giá trị gia tăng thì tỷ
trọng trên còn thấp hơn nhiều vì phần lớn những ngành công nghệ cao của nước ta
chủ yếu là lắp ráp.
Số lượng cơ sở công nghiệp nước ta tăng nhanh nhưng quy mô phổ biến là
nhỏ. Điều này cũng làm hạn chế sự chuyển dịch cơ cấu công nghiệp trong giai
đoạn CNH, HĐH hiện nay.

Năng lực cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp nước ta còn thấp, trình
độ công nghệ của phần lớn các doanh nghiệp còn lạc hậu, vốn sản xuất kinh doanh
bình quân của một doanh nghiệp còn ở mức thấp....
Trong ngành dịch vụ:
Dịch vụ là ngành có nhiều tiềm năng phát triển ở nước ta trong hơn hai thập
kỉ qua, nhưng ngoài những bước phát triển mạnh đã đạt được thì nhóm ngành này
còn có rất nhiều hạn chế mà chúng ta cần phải kịp thời nhận biết và khắc phục.
Trình độ của các hoạt động dịch vụ còn ở mức thấp so với yêu cầu của sự phát
triển kinh tế và so với trình độ chung của khu vực và thế giới, chất lượng các sản
phẩm dịch vụ còn kém sự cạnh tranh so với các nu?c khỏe. Việc tổ chức quản lý
đối với các hoạt động dịch vụ trong nước chưa mang lại hiệu quả cao, tính tự phát
còn thể hiện khá rõ. Thêm nữa, thị trường dịch vụ chưa hình thành một cách đầy
đủ , dẫn dến cạnh tranh không bình đẳng và thiếu lành mạnh, nhất là thị trường du
lịch, dịch vụ quảng cáo và tiếp thị, dịch vụ xuất nhập khẩu....
Trong một số ngành dịch vụ, khu vực nhà nước vẫn chiếm vị thế độc quyền.
Ví dụ như trong ngành bưu chính viễn thông, các doanh nghiệp nước ngoài chỉ
được tham gia vào thị trường viễn thông Việt Nam thông qua hình thức hợp tác
kinh doanh. Đối với dịch vụ hàng không, các chính sách vẫn chưa thực sự thông
thoáng. Cơ chế hiện tại chỉ cho phép bên nước ngoài tham gia liên doanh không
quá 40% vốn pháp định.
7


Trong khu vực tài chính, các tổ chức tín dụng Việt Nam đang nắm giữ tới 90%
thị phần tiền gửi, riêng ngoại tệ chiếm 85% và không bị giới hạn về các loại tiền gửi.
Thị phần nhỏ nhoi còn lại là của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
2.3. Những giải pháp chuyển dịch ngành kinh tế ở nước ta hiện nay.
Trong ngành công nghiệp:
Ta cần đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu sản phẩm công nghiệp một
cách hợp lý trên cơ sở huy động tối đa sức mạnh của các thành phần kinh tế. Cần

thay đổi định hướng cơ cấu đầu tư công nghiệp, đối với khu vực doanh nghiệp nhà
nước đầu tư để phát triển các ngành xuất khẩu thay vì đầu tư cho thay thế nhập
khẩu. Đối với khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài cần ưu tiên lựa chọn các dự án
có triển vọng công nghệ và thị trường quốc tế. Chuyển hướng đầu tư tập trung cho
các ngành sử dụng nhiều lao động và những ngành có hàm lượng công nghệ - kỹ
thuật cao.
Xác định có trọng tâm và đầu tư đúng mức vào những ngành kinh tế mũi
nhọn, tiếp tục đẩy manh sản xuất theo các nhóm ngành: nhóm ngành có lợi thế
cạnh tranh, nhóm ngành nền tảng và nhóm ngành tiềm năng. Trước mắt, dựa trên
cơ sở lợi thế so sánh động, cần xác định ưu tiên và xây dựng kế hoạch ngắn, hung
và dài hạn đối với các ngành công nghiệp trọng điểm. Chẳng hạn, các ngành công
nghiệp khai thác và chế biến tài nguyên thiên nhiên có chọn lọc phù hợp với điều
kiện về vốn, công nghệ, thị trường giúp cho quá trình tích lũy vốn nhanh hơn, tạo
ra cơ sở ổn định lâu dài cho việc cung cấp những nguyên liệu cơ bản của toàn bộ
sự phát triển công nghiệp, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, bao
gồm các ngành công nghiệp sản xuất tu liệu sản xuất, dầu khô, khí đốt, than, luyện
thép, vật liệu xây dựng... Các ngành công nghiệp sử dụng nhiều vốn, kỹ thuật,
công nghệ nhu các ngành cơ khí chế tạo, đóng tàu, sản xuất hàng tiêu dùng cao
cấp... có ý nghĩa chiến luợc xét về trung và dài hạn. Hiện đại hóa một số ngành cơ
khí có đủ khả năng cung cấp công cụ và thiết bị cho một số ngành nông, lâm, ngu
nghiệp và công nghiệp chế biến.
Ngoài ra, cũng cần nâng cao chất luợng, sức cạnh tranh, hàm luợng khoa học
công nghệ và tỷ trọng giá trị tăng thêm trong sản phẩm công nghiệp xuất khẩu. Cần
nhận thức rằng mục tiêu đặt ra cho công nghiệp nuớc ta là phải thay đổi căn bản tỷ
lệ của 3 nhóm sản phẩm công nghiệp phục vụ xuất khẩu, gồm: một, chế tạo, hai,
gia công- chế biến và ba, nguyên liệu... ,truớc mắt tập trung nguồn lực vào phát
triển nhóm ngành đang có lợi thế cạnh tranh và có thị truờng, gồm các ngành điện,
than, dầu khí, hàng may mặc, giày dép, chế biến khoáng sản... và các ngành có thể
nâng cao nhanh chóng kim ngạch xuất khẩu trong thời gian ngắn, có khả năng
chiếm lĩnh đuợc thị truờng về hàng tiêu dùng thiết yếu. Đây là những ngành chủ

yếu dựa trên nguồn lao động rẻ và tài nguyên thiên nhiên sẵn có, nhung cũng cần
luu ý là những lợi thế này cũng đang có xu huớng giảm nhanh.
8


Trong ngành nông nghiệp
Chuyển đổi nhanh chóng cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn,
xây dựng các vùng sản xuất hàng hoá chuyên canh phù hợp với tiềm năng và lợi
thế khí hậu, đất đai và lao động của từng vùng, từng địa phuơng. Phải áp dụng
nhanh khoa học và công nghệ vào sản xuất, nhất là ứng dụng công nghệ sinh học,
gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến, gắn sản xuất với thị truờng tiêu thụ,
hình thành sự liên kết nông - công - dịch vụ ngay trên địa bàn nông thôn.
Phát triển khai thác hải sản xa bờ và điều chỉnh nghề cá ven bờ họp lý. Đầu
tu phát triển mạnh ngành nuôi, trồng thuỷ hải sản,
Phát triển chăn nuôi huớng chính là tổ chức lại sản xuất, khuyến khích phát
triển hộ hoặc nông trại chăn nuôi quy mô lớn; đầu tu cải tạo nguồn giống, tăng
cuông công tác thú y, chế biến thức ăn chăn nuôi, phát triển đàn bò thịt, sữa và các
cơ sở chế biến thịt, sữa; tìm kiếm thị truờng xuất khẩu.
Bảo vệ và phát triển rừng, tiếp tục thực hiện dự án 5 triệu ha rừng. Tăng
nhanh diện tích trồng rừng mới, kết hợp với khoanh chăn nuôi, bảo vệ tái sinh
rừng. Trồng mới 1.3 triệu ha rừng tập trung, nâng độ che phủ rừng lên khoảng 3839% vào năm 2005; hoàn thành cơ bản công tác định canh định cu và ổn định đời
sống nhân dân vùng núi.
về đất đai: Nhà nuớc tạo điều kiện thuận lợi để nông dân thực hiện đầy đủ,
đúng pháp luật các quyền về sử dụng đất đai; khuyến khích nông dân thực hiện
“dồn điền đổi thửa” trên cơ sở tự nguyện; nông dân đuợc sử dụng giá trị quyền sử
dụng đất để góp vốn cổ phần tham gia phát triển sản xuất, kinh doanh, liên doanh,
liên kết...Tạo điều kiện cho việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất theo quy định
của pháp luật
về tài chính, tín dung: Nhà nuớc cân đối các nguồn vốn để uu tiên đầu tu
thích đáng cho phát triển nông, lâm, ngu nghiệp và điều chỉnh cơ cấu đầu tu theo

huớng phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn
Trong ngành dịch vụ
Đa dạng ho á các ngành dịch vụ, mở rộng thị truờng tiêu thụ các loại sản
phẩm dịch vụ, đáp ứng tốt nhu cầu phát triển kinh tế và đời sống xã hội.
Phát triển thuơng mại, cả nội thuơng và ngoại thuơng, bảo đảm hàng hoá luu
thông thông suốt trong thị truờng nội địa và giao luu buôn bán với nuớc ngoài. Chú
trọng công tác tiếp thị và mở rộng thị truờng nông thôn, thị truờng miền núi; cải
tạo liên kết chặt chẽ giữa các vùng trong nước, củng cố thương mại nhà nước;
Tăng cường vai trò điều tiết của nhà nước. Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ
trên thị trường tăng khoảng 11-14%/ năm
Nâng cao chất lượng, quy mô và hiệu quả hoạt động du lịch. Liên kết chặt chẽ
các ngành liên quan đến hoạt động du lịch để đầu tư phát triển một số khu du lịch tổng
hợp và trọng điểm; đưa ngành du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn.
9


Nâng cao chất lượng, tăng khối lượng và độ an toàn vận tải hành khách,
hàng hoá trên tất cả loại hình vân tải; có các biện pháp tích cực để giải quyết tốt
vận tải hành khách công cộng ở các thành phố lớn như ở Hà Nội, Thành Phố Hồ
Chí Minh, phấn đấu để giảm thiểu tai nạn giao thông... Nâng tỷ lệ thị phần vận tải
quốc tế bằng hàng không, đường biển...
Định hưóng phát triển kinh tế đổi ngoại thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kỉnh tế
trong nước
- về xuất nhập khẩu: Tăng nhanh tổng kim ngạch xuất khẩu, bảo đảm nhập
khẩu những vật tư thiết bị chủ yếu, có tác dụng tích cực đến sản xuất kinh doanh.
Tạo thị trường ổn định cho một số loại mặt hàng nông sản thực phẩm và hàng công
nghiệp có khả năng cạnh tranh: tìm kiếm thị trường cho mặt hàng xuất khẩu mới.
- về thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài: Đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI). Khuyến khích đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghiệp sản
xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến, các ngành công nghệ cao, vật liệu mới,

điện tử, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và các ngành Việt Nam có lợi thế,
gắn với công nghiệp hiện đại và tạo việc làm.
KẾT LUẬN
Ngày nay, trong chiến lược phát triển của các quốc gia trên thế giới thì yếu
tố chuyển dịch cơ cấu kinh tế chiếm một vị trí tương đối quan trọng. Thực tế cho
thấy nhiều nước trên thế giới đã có sự tăng trưởng cao nhờ lựa chọn cho mình một
cơ cấu kinh tế hợp lý như: NICs, Nhật Bản,... đối với Việt Nam qua hơn 10 năm
đổi mới các chuyên gia kinh tế đều có nhận xét rằng chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã
có bước chuyển biến cơ bản. Nước ta đã chuyển sang một thời kỳ mới - thời kỳ
đẩy mạnh phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên trong quá trình phát triển cũng như
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam vẫn còn một số những tồn tại cần được giải
quyết. Dề án đã trinh bày một số nguyên nhân của tình trạng trên và mạnh dạn đưa
ra một số giải pháp mong đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước.

10



×