Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số kinh nghiệm nhỏ giúp học sinh giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2 SKKN TH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.92 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
Tên đầu mục
MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU

Trang
1

2
1.1.Lí do chọn đề tài
2
1.2. Mục đích nghiên cứu
3
1.3. Đối tượng nghiên cứu
3
1.4. Phương pháp nghiên cứu
3
2. NỘI DUNG
3
2.1. Cơ sở lí luận
3
2.2. Thực trạng về kỹ năng giải toán có lời văn của học sinh lớp 2 – 4
Trường Tiểu học Xuân Minh – Thọ Xuân – Thanh Hóa.
2.3. Một số kinh nghiệm đã thực hiện
2.3.1. Tìm hiểu thực tế
2.3.2. Hình thành đôi bạn học tập
2.3.3. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung bài toán
2.3.4. Hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán
2.3.5 Hướng dẫn giải toán và trình bày lời giải
3. 2.3.6. Hướng dẫn chấm chữa
2.3.7.Khích lệ học sinh tạo hứng thú khi học tập


3. 2.4. Hiệu quả đạt được
3. KẾT LUẬN

6
6
7
8
10
12
14
15
15
17

1. MỞ ĐẦU
1.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Dưới sự lãnh đạo của Đảng với mục tiêu đổi mới giáo dục là một trong những
trọng tâm của việc đổi mới. Như chúng ta ai cũng biết môn Toán là một trong
những môn học có vị trí quan trọng ở bậc Tiểu học. Trong những năm gần đây, xu
thế chung của ngành giáo dục cũng đang đổi mới về phương pháp dạy học, về cách
đánh giá nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh trong
quá trình dạy học. Giải toán có lời văn là những bài toán thực tế nội dung bài toán
được thông qua những câu văn nói về những mối quan hệ, tương quan và phụ thuộc
1


liên quan đến cuộc sống hằng ngày với các em. Từ đó giúp học sinh những hiểu
biết cần thiết khi tiếp xúc với những “ Tình huống toán học” trong cuộc sống hàng
ngày.
Môn toán ở tiểu học bước đầu hình thành và phát triển năng lực trừu tượng

hoá, khái quán hoá, kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập toán, phát triển
hợp lý khả năng suy luận và biết diễn đạt đúng bằng lời, suy luận đơn giản, góp
phần rèn luyện phương pháp học tập và làm việc khoa học, linh hoạt sáng tạo. Môn
toán là ''chìa khoá'' mở của cho tất cả các ngành khoa học khác, nó là công cụ cần
thiết của người lao động trong thời đại mới. Vì vậy, môn toán là bộ môn không thể
thiếu được trong nhà trường, đây là những tri thức, kỹ năng vừa đáp ứng cho phát
triển trí tuệ, óc thông minh, sáng tạo, vừa đáp ứng cho việc ứng dụng thiết thực
trong cuộc sống hàng ngày, để các em trở thành những người có ích cho xã hội.
Hiện nay việc đánh giá xếp loại học sinh Tiểu học dựa vào thông tư 22 của
Bộ GD&ĐT có rất nhiều điểm mới, thông tư không yêu cầu chấm điểm mà chỉ
nhận xét và động viên các em. Đây cũng là lí do để giáo viên cần quan tâm tỉ mỉ và
thường xuyên hơn với tất cả đối tượng học sinh trong lớp khi học sinh học các môn
học trong đó có môn Toán. Năm học 2017-2018 tôi được phân công dạy lớp 2A.
Tôi nhận thấy việc dạy các em giải toán có lời văn trong chương trình toán ở bậc
tiểu học nói chung và ở lớp 2A nói riêng là hết sức cần thiết, ở lứa tuổi học sinh
tiểu học, tư duy của các em còn chưa phát triển về mặt suy luận, phân tích. Việc
dạy giải toán có lời văn ở Tiểu học sẽ góp phần giúp học sinh phát triển được năng
lực tư duy, khả năng suy luận, và kĩ năng giải toán đặt nền móng vững chắc cho các
em học tốt trong việc giải toán ở các lớp trên.Với những lí do trên tôi đã chọn đề
tài: " Một số kinh nghiệm nhỏ giúp học sinh giải toán có lời văn cho học sinh lớp
2 ".
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu một số vấn đề lí luận đổi mới phương pháp dạy học môn Toán ở Tiểu
học.
- Tìm hiểu thực trạng việc Dạy- học toán có lời văn lớp 2 và đưa ra các Biện pháp
thực hiện nhằm nâng cao chất lượng học giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2,
Trường Tiểu học Xuân Minh- Thọ Xuân – Thanh Hóa
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Các biện pháp dạy toán có lời văn cho học sinh lớp 2.
- Học sinh lớp 2 – Trường Tiểu học Xuân Minh- Huyện Thọ Xuân – Tỉnh

Thanh Hóa.
2


1.4.Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp dự giờ và quan sát thông qua dự giờ.
- Phương pháp thống kê, sử lí số liệu
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận.
Giải toán có lời văn thực chất là những bài toán thực tế, nội dung bài toán
được thông qua những câu văn nói về những quan hệ, tương quan và phụ thuộc, có
liên quan tới cuộc sống thường xảy ra hàng ngày. Cái khó của bài toán có lời văn
chính là ở chỗ làm thế nào để lược bỏ được những yếu tố về lời văn đã che đậy bản
chất toán học của bài toán. Hay nói một cách khác là làm sao phải chỉ ra được các
mối quan hệ giữa các yếu tố toán học chứa đựng trong bài toán và tìm được những
câu lời giải phép tính thích hợp để từ đó tìm được đáp số của bài toán.
Nhưng làm thế nào để học sinh hiểu và giải toán theo yêu cầu của chương
trình mới, đó là điều cần phải trao đổi nhiều đối với chúng ta – những người trực
tiếp giảng dạy cho các em nhất là việc: Đặt câu lời giải cho bài toán.
Như chúng ta đã biết: Trước cải cách giáo dục thì đến lớp 4, các em mới phải
viết câu lời giải, còn những năm đầu cải cách giáo dục thì đến học kì 2 của lớp 3
mới phải viết câu lời giải…Còn đến nay theo chương trình mới thì ngay từ lớp 1
học sinh đã được yêu cầu viết câu lời giải, đây quả là một bước nhảy vọt khá lớn
trong chương trình toán. Nhưng nếu như nắm bắt được cách giải toán ngay từ lớp 1,
2 thì đến các lớp trên các em dễ dàng tiếp thu, nắm bắt và gọt giũa, tôi luyện để
trang bị thêm vào hành trang kiến thức của mình để tiếp tục học tốt ở các lớp sau.
Ta thấy rằng, giải toán ở tiểu học trước hết là giúp các em luyện tập, vận dụng
kiến thức , các thao tác thực hành vào thực tiễn. Qua đó , từng bước giúp học sinh
phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận logic . Thông qua giải

toán mà học sinh rèn luyện được phong cách của người lao động mới: Làm việc có
ý thức, có kế hoạch, sáng tạo và hăng say, miệt mài trong công việc.
Thực tế qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy ở khối lớp 2, tôi nhận thấy học
sinh khi giải các bài toán có lời văn thường rất chậm so với các dạng bài tập khác.
Các em thường lúng túng khi đặt câu lời giải cho phép tính, có nhiều em làm phép
tính chính xác và nhanh chóng nhưng không làm sao tìm được lời giải đúng hoặc
đặt lời giải không phù hợp với đề toán đặt ra. Chính vì thế nhiều khi dạy học sinh
đặt câu lời giải còn vất vả hơn nhiều so với dạy trẻ thực hiện các phép tính ấy để
tìm ra đáp số.

3


Việc đặt lời giải ngay từ lớp 1, 2 sẽ là một khó khăn lớn đối với mỗi giáo
viên trực tiếp giảng dạy ở lớp 1, 2 nhất là những tuần đầu dạy toán có lời văn ngay
ở việc giúp các em đọc đề, tìm hiểu đề…Một số em mới chỉ đọc được đề toán chứ
chưa hiểu được đề, chưa trả lời các câu hỏi thầy nêu: Bài toán cho biết gì ?...Đến
khi giải toán thì đặt câu lời giải chưa đúng, chưa hay hoặc không có câu lời giải…
Những nguyên nhân trên không thể đổ lỗi về phía học sinh 100% được mà một
phần lớn đó chính là các phương pháp, cách áp dụng, truyền đạt của những người
thầy.
Đây cũng là lý do mà tôi chọn đề tài này, mong tìm ra những giải pháp nhằm
góp phần nâng cao kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2 nói riêng và
trong môn toán 2 nói chung. Để từ đó, các em có thể thành thạo hơn với những bài
toán có lời văn khó và phức tạp ở các lớp trên.
2.2.Thực trạng về kĩ năng giải toán có lời văn của học sinh lớp 2 – Trường
Tiểu học Xuân Minh- Thọ Xuân – Thanh Hóa.
a. Thực trạng chung của nhà trường.
* Thuận lợi:
Nhà trường được sự quan tâm của chính quyền địa phương, của hội phụ huynh

học sinh.
Ban giám hiệu nhà trường năng nổ nhiệt tình, sáng tạo luôn chỉ đạo sát sao việc
dạy học của giáo viên và học sinh.
Đội ngũ giáo viên trong trường luôn nhiệt tình giảng dạy, yêu nghề mến trẻ.
Về học sinh: nhìn chung các em đều ngoan, thật thà, trung thực và có ý thức
vươn lên trong học tập.
* Khó khăn:
- Là một xã dân cư chủ yếu sống bằng nghề nông, đời sống kinh tế còn nhiều khó
khăn chính điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập cũng như chất lượng
học tập của các em.
- Nhiều gia đình đi làm ăn xa gửi con cho ông bà chăm sóc do ông bà đã già yếu
nên không quán xuyến được việc học hành của các cháu.
- Do tâm lý chung của học sinh tiểu học còn ham chơi nên việc học hành của các
em nếu không có sự giám sát chặt chẽ của gia đình thì khó có hiệu quả cao.
- Về cơ sở vật chất của nhà trường: Tuy nhà trường đã có đủ phòng học nhưng
thiết bị nhà trường còn có nhiều hạn chế.
- Về đội ngũ giáo viên: Nhà trường có đội ngũ giáo viên nhiệt tình giảng dạy song
còn gặp nhiều khó khăn do trình độ giáo viên còn chưa đồng đều.
b. Thực trạng của lớp.

4


Năm học 2017-2018 tôi được phân công giảng dạy lớp 2A Trường tiểu học Xuân
Minh – Thọ Xuân – Thanh Hóa.
Lớp 2A do tôi chủ nhiệm và giảng dạy có 25 học sinh. Trong đó:
- Con cán bộ công chức: 1 em.
- Con gia đình nông nghiệp: 24 em.
- Nam: 12 em; nữ: 13 em.
Các em ở rải rác khắp 6 thôn trong xã, có nhiều học sinh ở xa trường nên việc đi

lại của các em gặp rất nhiều khó khăn điều đó cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất
lượng học tập của các em.
- Qua thực tế giảng dạy và thảo luận cùng đồng nghiệp, tôi nhận thấy:
+ Việc đọc đề, tìm hiểu đề đang còn nhiều khó khăn đối với học sinh lớp 2. Vì kĩ
năng đọc thành thạo của các em chưa cao, nên các em đọc được đề toán và hiểu đề
còn thụ động, chậm chạp…
+ Thực tế trong một tiết dạy 40 phút, thời gian dạy kiến thức mới mất nhiều –
phần bài tập hầu hết là ở cuối bài nên thời gian để luyện nêu đề, nêu câu trả lời
không được nhiều mà học sinh chỉ thành thạo việc đọc đề toán.
- Tôi đã khảo sát kĩ năng giải toán có lời văn của 25 học sinh lớp 2A và thu được
kết quả như sau:
Sĩ số
25 em

Giải thành thạo
5 em = 20 %

Kĩ năng giải chậm
7 em = 28 %

Chưa nắm được cách giải
13 em = 52%

Kết quả thu được tôi thấy rằng số học sinh giải thành thạo toán có lời văn rất ít,
chỉ có 5 em chiếm 20% , trong khi đó giải chậm cũng chỉ có 7 em tỉ lệ 28% , trong
khi đó số học sinh chưa nắm được cách giải khá nhiều, có tới 13 em chiếm tỉ lệ
52%, điều này cho thấy học sinh giải toán có lời văn rất hạn chế…
Từ thực trạng trên, để công việc đạt hiệu quả tốt hơn, giúp các em học sinh có
hứng thú trong học tập, nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường, tôi đã mạnh
dạn cải tiến nội dung, phương pháp trong giảng dạy như sau:

2.3. MỘT SỐ KINH NGHIỆM ĐÃ THỰC HIỆN
2.3.1. Tìm hiểu thực tế
Để dạy và học tốt việc đầu tiên của người giáo viên chủ nhiệm đó là cập nhật
nắm bắt các thông tin về học sinh mình. Làm được điều đó thì mỗi giáo viên có
cách làm khác nhau. Là giáo viên chủ nhiệm ai cũng mong muốn học sinh mình
học tốt, chăm ngoan. Muốn biết được cụ thể từng học sinh như thế nào, công việc

5


đầu tiên của tôi đó là tìm hiểu thực thế từng học sinh. Công việc được thực hiện
như sau:
Sau khi nhận lớp tôi tự tìm hiểu thực tế học sinh của lớp mình với nhiều hình
thức như: khảo sát thông tin học sinh thông qua giáo viên chủ nhiệm năm trước,
thông qua các giáo viên bộ môn, thông qua phụ huynh... Học sinh lớp 2A tôi chủ
nhiệm có 25 em, nữ chiếm 13 em. Trong đó số học sinh có hoàn cảnh khó khăn
có: 2 em hộ nghèo, 2 em hộ cận nghèo, 5 em có hoàn cảnh khó khăn, 7 em ở với
ông bà do cha mẹ đi làm ăn xa. Mặt khác trình độ các em không đồng đều (trong
lớp vẫn còn đến 2 độ tuổi), sự quan tâm của cha mẹ cũng không đều... Một số phụ
huynh không biết chữ, trình độ dân trí còn hạn hẹp. Việc học của các em hầu như
khoán trắng cho giáo viên trên lớp. Theo thông tư 22 của Bộ GD&ĐT thì việc học
tập cuả các em phải hoàn thành trên lớp, không yêu cầu học sinh về nhà làm bài
tập. Ở lớp thời lượng một tiết dạy ( 35-40 phút) rất hạn chế với những học sinh còn
khó khăn trong học tập. Với những lí do trên cũng ảnh hưởng không ít đến việc học
của các em.
Sau khi tìm hiểu thực tế hoàn cảnh của từng em, bước tiếp theo tôi tiến hành
khảo sát việc học Toán của học sinh trong lớp. Nhận lớp khoảng hai tuần tôi tiến
hành khảo sát bằng cách ra đề kiểm tra môn toán, trong đó có các dạng bài tập và
một số bài toán giải theo chuẩn kiến thức. Kết quả đạt như sau:
Chất lượng học sinh học gải Toán có lời văn đạt như sau

Hoàn thành tốt
8 em ( 48%)

Hoàn thành
12 em ( 52% )

Chưa hoàn thành
5 = 20%

Sau khi khảo sát xong tôi thông kê việc học tập của các em theo từng mức độ
đạt được của từng em . Từ kết quả đó tôi thông báo kết qủa khảo sát cho phụ huynh
với nhiều hình thức như: thông qua sổ liên lạc, gặp trực tiếp để trao đổi để cùng
phụ huynh phối hợp. Theo thông tư 22 của BGD&ĐT phụ huynh có quyền tham
gia đánh giá chất lượng của con em họ với hình thức thông báo kết quả giúp đỡ
con em mình khi được giáo viên chủ nhiệm thông báo tình hình học tập của các em.
Việc tìm hiểu thực tế học sinh là việc làm cần phải có, công việc này tạo điều kiện
thuận lợi cho giáo viên trong quá trình dạy học. Thông qua kết quả đó tôi phân loại
học sinh theo nhóm đối tượng vào sổ nhật ký cá nhân để tiện việc theo dõi giúp đỡ
từng học sinh. Đồng thời lập kế hoạch cá nhân để có biện pháp giúp đỡ các em với
các biện pháp cụ thể trong từng tiết học, bài học.
Ví dụ: Phân loại học sinh vào sổ theo dõi cá nhân:
Tháng

Học và tên học sinh

Ghi chú
6


Tháng thứ nhất

Tháng thứ hai
.....
Tháng
Tháng thứ nhất
Tháng thứ hai

.....

Trịnh Thị Khánh Huyền
Lúng túng khi phân tích bài toán,
viết lời giải
Có tiến bộ khi phân tích bài toán,
viết lời giải chưa được chính xác.
.....
Học và tên học sinh
Ghi chú
Đỗ Hà Anh
Đọc bài Toán còn chậm
Khi phân tích bài toán còn nhầm
lẫn.
Viết lời giải chưa được chính
xác.
.....

Mỗi em tôi lập một trang trong sổ theo dõi cá nhân của giáo viên. Hàng tháng
tôi nhận xét cụ thể từng học sinh với bộ môn Toán trong sổ nhật kí và thông báo với
phụ huynh về sự tình hình học tập của các em thông qua sổ liên lạc. Theo thông tư
22 giáo viên cần sử dụng sổ liên lạc thường xuyên để thông báo việc học tập của
các em. Từ thực tế tôi thấy các em như: Đỗ Hà Anh, Trịnh Thị Khánh Huyền, Mai
Văn Tùng Dương, Mai Văn Nam, Lê Chí Thanh, Đỗ Quỳnh Chi khi giải Toán có

lời văn các em thường gặp khó khăn. Với những thực tế đó tôi tìm cách đưa ra
phương pháp dạy học phù hợp với từng học sinh để giúp các em có kĩ năng giải
toán tốt.
Từ kết quả đó sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh phù hợp như: Xếp cho những học
sinh có năng lực trong học tập ngồi gần những học sinh còn gặp khó khăn trong
học tập, giáo viên thường xuyên giúp đỡ các em trong 10 phút tự quản .
2.3.2. Hình thành đôi bạn học tập:
Việc hình thành các đôi bạn học tập rất có ích đối với các em. Do vậy mà tôi đã
hình thành đôi bạn học tập ở lớp, đôi bạn học tập ở nhà. Ở lớp thì những em hạn
chế về năng lực học tập sẽ được ngồi bên những học sinh có năng lực về học tập,
với giải pháp này giáo viên tiện việc theo dõi và giúp đỡ các em. Trong học tập
cùng trang lứa các em sẽ thích học bạn hơn học thầy, các em cùng học, cùng chơi.
Thuận tiện cho việc trao đổi và cùng nhau hợp tác. Thông qua đây các em có năng
lực sẽ có điều kiện giúp đỡ bạn mình trong học tập. Trong 10 phút đầu giờ các em
sẽ tự làm bài, tự kiểm tra nhau. Các em có năng lực trong học tập sẽ theo dõi sự
tiến bộ của bạn mình và báo cáo kịp thời với giáo viên chủ nhiệm đầu giờ học.
7


Hình thành đôi bạn học tập không chỉ giúp các em cùng nhau học tập mà còn cùng
nhau giải đáp thắc mắc. các em sẽ có cơ hội thể hiện mình trước bạn bè, rèn kĩ
năng mạnh dạn trong giao tiếp.
Giáo viên theo sát các đối tượng học sinh bằng cách trực tiếp, thông qua các
học sinh để động viên khuyến khích kịp thời, hoặc kiểm tra các em gặp khó khăn
trong giải Toán với những bài tập trên lớp trong các tiết học chính khóa và tăng
cường. vào thời gian kiểm tra bài đầu giờ giáo viên nên trực tiếp hướng dẫn các em
gặp khó khăn trong học tập. Luôn yêu thương gần gũi các em , luôn tạo điều kiện
cho các em có cơ hội thể hiện mình trước bạn bè trong lớp với mục đích giúp các
em yêu thích đến trường, hăng say học tập, giúp các em hiểu rằng: “ mỗi ngày đến
trường là một ngày vui”.

2.3.3. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung bài toán
Việc đọc thông thạo, lưu loát là một trong bốn kĩ năng của học sinh cần đạt.
Các em muốn học tốt các môn trong đó có môn toán thì các em phải đọc tốt. Để tìm
hiểu được nội dung bài toán việc đầu tiên cần phải có đó là học sinh phải đọc thông
thạo. Do vậy mà trong các tiết Tiếng Việt tôi đã kết hợp việc đọc đúng, đọc hiểu
cho học sinh để các em thuận lợi hơn khi học Toán
Trong các bài toán muốn để học sinh hiểu và giải đúng thì tôi lưu ý hướng dẫn
học sinh đọc kĩ đề bài toán 2 đến 3 lần với các hình thức như đọc thầm, đọc thành
tiếng trước lớp. Đối với học sinh lớp 2 việc hướng dẫn các em đọc kĩ đề bài toán là
việc làm quan trọng vì các em mới ở lớp một lên, các em chỉ đọc thuộc các chữ
nhưng chưa hiểu nội dung mình đọc là gì? Bước này trước khi học sinh đọc đề bài
toán (thời điểm đầu năm học) giáo viên định hướng để các em đọc mà hiểu chứ
không đọc suông. Đối với các bài toán giải giáo viên chuẩn bị các đề bài toán trên
bảng phụ ( chuẩn bị đồ dùng dạy học) trong các tiết học Toán. Khi đọc cần giúp
học sinh hiểu nghĩa một số từ khóa quan trọng nói lên tình huống toán học bị che
lấp bởi cái vỏ ngôn ngữ thông thường như: "ít hơn", "nhiều hơn", tất cả", " cả
hai"... khi đọc giáo viên nên gạch chân dưới các từ đó để học sinh dễ nhìn thấy
( đối với thời gian đầu năm học, về sau không cần gạch chân các từ đó). Nếu học
sinh chưa hiểu tôi sẽ giúp các em hiểu nghĩa các từ đó.
Ví dụ: Bài toán: "Lớp 2A có 18 học sinh đang tập hát, lớp 2B có 21 học
sinh đang tập hát. Hỏi cả hai lớp có bao nhiêu học sinh đang tập hát? " (sách Toán
lớp 2 trang 11)
Đối với các đề toán như thế này giáo viên thực hiện theo các bước sau:
+ Giáo viên đọc yêu cầu bài toán, khi giáo viên đọc lưu ý nhắc học sinh đọc thầm
theo. Khi đọc giáo viên cần thể hiện ngữ điệu gây sự chú ý cho học sinh những yêu
cầu bài toán cần giải quyết.
+ Gọi học sinh đọc lại yêu cầu từ 2 đến 3 em, giảm giản về sau.
8



+ Hướng dẫn phân tích giáo viên phải đưa ra một số câu hỏi dẫn dắt để học sinh
nhận biết các điều kiện đã có và điều kiện cần phải giải quyết với hệ thống các câu
hỏi như sau:
? Bài toán đã cho biết gì?
? Bài toán hỏi gì ? Bài toán yêu cầu tìm gì?
Hoặc: Trong bài toán đã cho em biết gì và cần tìm gì?...
Ví dụ: Bài toán:
"Hòa có 4 bông hoa, Bình có nhiều hơn Hòa 2 bông hoa. Hỏi Bình có mấy bông
hoa " (sách Toán lớp 2 trang 24)
Hệ thống câu hỏi hướng dẫn tìm hiểu nội dung bài toán như sau:
- Bài toán cho biết gì? (Bài toán cho biết Hòa có 4 bông hoa, Bình nhiều hơn
Hòa 2 bông hoa).
- Bài toán yêu cầu làm gì? ( Bài toán yêu cầu tìm số hoa của Bình)
Đối với hệ thống câu hỏi giáo viên có thể nâng dần lên về sau khi học sinh đã
có kĩ năng phân tích đề bài. Tuy nhiên ở bước này giáo viên có thể hướng dẫn các
em tự đặt câu hỏi với nhau thông qua thảo luận nhóm ( học sinh có năng lực giúp
các em còn hạn chế). Qua đây giúp các em tự tóm tắt bài toán về sau. Lưu ý ở bước
này giáo viên nên phát huy tính tích cực, chủ động cho học sinh. Có thể các em đưa
ra một số hệ thống câu hỏi khác ý giáo viên nhưng theo suy nghĩ của các em, không
nhất thiết phải máy móc rập khuôn theo giáo viên. Thông qua đây phát huy tính
sáng tạo của học sinh .
Ví dụ: Hệ thống câu hỏi trong bài toán "Năm nay ông 70 tuổi, bố kém ông 32
tuổi. Hỏi năm nay bố bao nhiêu tuổi?" ( Sách toán 2- trang 90) .Hệ thống câu hỏi có
thể như sau:
Số tuổi ông năm nay là bao nhiêu?
Tuổi bố như thế nào so với tuổi ông?
Bài toán hỏi tuổi ai?
Hoặc:
Ông năm nay bao nhiêu tuổi?
Tuổi bố nhiều hơn hay ít hơn tuổi ông?

Tuổi bố ít hơn tuổi ông bao nhiêu tuổi?
Bài toán yêu cầu tìm tuổi ai?
Với hệ thông câu hỏi trên hoàn toàn đúng. Trong bước phân tích bài toán giáo
viên là người định hướng giúp học sinh phát huy tối đa năng lực của mình. Từ đây
các em sẽ có hứng thú trong học tập và yêu thích học toán. Vì vậy giáo viên nên để
học sinh tự đặt câu hỏi để phân tích bài toán tránh áp đặt các em.

9


Trong quá trình Dạy- Học giáo viên nên xem các em là con người với đầy đủ
quyền được vui chơi, được học tập, được lao động, được nhận thức,...được quyền
hỏi và trả lời trong quá trình Dạy- Học.
- Trong giờ học giáo viên nên tạo ra bầu không khí thoải mái, thường xuyên tỏ
ra thân thiện gần gũi các em, với những lời nói nhẹ nhàng, cởi mở thái độ yêu
thương tôn trọng các em.
2.3.4.Hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán
Sau khi tìm hiểu nội dung yêu cầu bài toán xong giáo viên cần hướng dẫn cho
học sinh biết cách tóm tắt bài toán bằng lời, sơ đồ, mẫu vật... Thời gian đầu giáo
viên vừa hỏi học sinh giáo viên vừa tóm tắt trên bảng. Đối với học sinh lớp hai tóm
tắt bằng lời và sơ đồ, mẫu vật là thuận lợi cho học sinh nhận diện bài toán. Mức độ
nâng dần lên về sau với hình thức học sinh tự đọc hiểu, phân tích và tóm tắt bài
toán dưới sự giúp đỡ hướng dẫn của giáo viên.
Bước tóm tắt bài toán giúp các em nhận diện được bài toán từ đây các em có
cơ sở để đặt phép tính đúng cho bài toán.Thông qua hệ thông câu hỏi tìm hiểu nội
dung bài toán giáo viên dẫn dắt các em cách tóm tắt cho phù hợp với bài toán. Với
dạng bài toán về nhiều hơn giáo viên cần định hướng cho các em tóm tắt bằng sơ
đồ đoạn thẳng để học sinh dễ nhận biết yêu cầu cần tìm và giải quyết vấn đề dựa
vào sơ đồ.
Ví dụ Bài toán: "Hòa có 14 bông hoa, Bình nhiều hơn Hòa 3 bông hoa. Hỏi

Bình có mấy bông hoa?"
Giáo viên cần dẫn dắt bằng các câu hỏi để học sinh nhận biết đoạn thẳng biểu
thị số bông hoa của bạn Hòa ngắn hơn đoạn thẳng biểu thị số bông hoa của bạn
Bình. Khi vẽ đoạn thẳng biểu thị số bông hoa của bạn Hòa giáo viên cần giải thích
cho học sinh hiểu vì sao vẽ đoạn thẳng biểu thị số bông hoa của bạn Bình phải dài
hơn đoạn thẳng biểu thị số bông hoa bạn Hòa bởi vì số hoa bạn Bình nhiều hơn số
bông hoa của bạn Hòa.
Đoạn thẳng thứ nhất để biểu thị số hoa bạn Hòa , đoạn thẳng thứ hai dài hơn
đoạn thẳng thứ nhất biểu thị số bông hoa bạn Bình. lưu ý độ dài các đoạn thẳng
phải cân đối và phù hợp.

Tóm tắt:
14 bông hoa
Hòa
3 bông hoa
Bình
10


? bông hoa
Dạng Toán ít hơn:
Bài toán: lớp 2A có 15 học sinh gái, số học sinh trai ít hơn số học sinh gái 3 bạn.
Hỏi lớp 2A có bao nhiêu học sinh trai?
Cách hướng dẫn như trên nhưng nâng dần về sau để học sinh tự tóm tắt
Tóm tắt:

15 học sinh

Gái


Trai

3 học sinh

? học sinh
Cũng có bài toán không tóm tắt bằng sơ đồ mà tóm tắt bằng lời học sinh dễ hiểu
hơn.
Ví dụ: bài Toán" Mỗi con gà có hai chân. Hỏi 6 con gà có bao nhiêu chân?"
(sách Toán 2 trang 95)
Tóm tắt:
1 con có: 2 chân
6 con có: ... chân?
Hoặc có bài giáo viên nên hướng dẫn học sinh tóm tắt bằng mô hình
Ví dụ: Bài toán " Một đoạn dây đồng được uốn thành hình tam giác như hình
vẽ. Tính độ dài đoạn dây đó?"
Tóm tắt:
8cm
6cm
9cm
11


Với các dạng bài toán khác nhau giáo viên tìm cách tóm tắt như thế nào để học
sinh dễ hiểu, từ đó học sinh nhìn vào tóm tắt để giải được bài toán đúng và viết
phép tính đúng với yêu cầu. Toán lớp hai thường có ba hình thức tóm tắt, không
nhất tiết bài nào cũng tóm tắt như nhau.
Không nhất thiết bài toán nào cũng tóm tắt một dạng nhưng tùy thuộc vào từng
bài toán để tóm tắt. Làm thế nào giúp học sinh dễ hiểu và nhận dạng được bài toán,
giải đúng là được.
2.3.5. Hướng dẫn giải toán và trình bày bài giải

a. Hướng dẫn giải Toán:
Dựa vào tóm tắt bài toán để hướng dẫn học sinh xác định được dạng toán để
tìm cách giải phù hợp. Toán lớp 2 thường có các dạng như sau:
- Bài toán về nhiều hơn
- toán về ít hơn
- Tìm một số trong một tổng
Vì vậy khi dạy giải Toán cho học sinh cần hướng dẫn các em có kĩ năng nhận
diện bài toán để biết cách đặt phép tính đúng cho bài toán, cách như sau:
Sau khi học sinh đọc đề và phân tích bài toán giáo viên cho học sinh biết dạng
bài toán bởi những câu hỏi gợi ý và sát với thực tế bài toán yêu cầu. Lưu ý khi
hướng dẫn nhận dạng bài toán giáo viên nên dạy theo hệ thống và có logic với tất
cả dạng các bài. Các tiết học trên lớp tránh giảng qua loa rồi chỉ cho học sinh biết
bài này phải làm phép cộng, trừ, nhân hoặc chia. Việc hướng dẫn học sinh nhận
diện dạng toán là nền tảng cho các em học toán và giải toán lên các lớp trên. Từ
việc nhận dạng bài toán các em sẽ tư duy tìm ra phép tính đúng cho bài toán.
Chẳng hạn như dạng bài toán: " Giải bài toán về nhiều hơn" Thì phép tính đúng
của bài toán là phép cộng hoặc dạng :" giải bài toán về ít hơn" thì phép tính đúng
cho bài toán đó là phép trừ. Ở lớp hai hầu hết các bài giải chỉ giải bằng một phép
tính, không có giải bằng hai phép tính. bước này giáo viên cần hướng dẫn các em
với các dạng câu hỏi để nhận diện bài toán.
Ví dụ : Bài toán " Thùng thứ nhất đựng được 26 lít dầu, thùng thứ hai đựng ít
hơn thùng thứ nhất 12 lít dầu. Hỏi thùng thứ hai đựng được bao nhiêu lít dầu?"
Đối với bài toán này sau khi phân tích, tóm tắt học sinh nhận biết được đây là
dạng " Giải bài toán về ít hơn". Ở bước này giáo viên nên đặt câu hỏi để học sinh
nhận biết như:
Số dầu thùng thứ hai như thế nào so với thùng thứ nhất? ( Số dầu thùng thứ hai
ít hơn thùng thứ nhất)
Đây là bài toán có dạng gì? (Giải bài toán về ít hơn) Thời gian đầu là khó với
các em, giáo viên có thể chỉ ra trực tiếp dạng toán và nâng dần về sau.
12



Sau khi học sinh nhận dạng bài toán giáo viên cần hướng dẫn các em tìm cách
giải quyết (nêu cách làm) với các câu hỏi như sau:
Để tìm số dầu thùng thứ hai em làm gì? ( Ta lấy số dầu thùng thứ nhất trừ đi số
dầu ít hơn của thùng thứ hai) Bước này giáo viên không nên hỏi muốn tìm số dầu
thùng thứ hai em làm phép tính gì? Nếu đặt câu hỏi như thế sẽ không phát huy
được tư duy của các em.
Trước khi học sinh viết phép tính giáo viên cần Hướng dẫn các em tìm câu lời
giải đúng với yêu cầu bài toán. Lưu ý với học sinh bài toán yêu cầu gì mình trả lời
thế. Cụ thể bài toán hỏi gì các em chỉ việc gạch bỏ chữ hỏi và viết câu trả lời sau từ
hỏi.
Ví dụ: Bài toán trên ta viết câu lời giải như sau:
Thùng thứ hai đựng được là:
Số dầu thùng thứ hai đựng được là:
Thùng thứ hai đựng được số dầu là:
Ở bước này giáo viên không nên máy móc rập khuôn bắt học sinh viết một mẫu
lời giải, mà phải để học sinh phát huy tính sáng tạo. Khi học sinh nêu câu lời giải
giáo viên cần gọi nhiều học sinh nêu câu lời giải khác và hướng dẫn uốn nắn các
em tìm ra câu lời giải chính xác, ngắn gọn. Trong giải Toán có lời văn bước này là
bước giúp học sinh phát huy sáng tạo, qua đây giáo viên phát hiện và tìm ra học
sinh có năng khiếu về môn Toán. Đồng thời cũng rèn cho các em có kĩ năng giải
toán tốt.
b. Hướng dẫn trình bày bài giải
Hướng dẫn cách trình bày bài giải đây cũng là bước quan trong vì giáo dục học
sinh có tính cẩn thận. Đối với bước này giáo viên cần có quy định cụ thể ngày từ
đầu năm và tất cả các bài toán giải, để học sinh có thói quen và trở thành kĩ năng
khi trình bày bài giải toán, cụ thể như sau:
Trước hết viết bài giải giữa vở, viết lời giải phải xuống hàng khi viết từ lề vở
trái lùi vào 3 ô, sau đó xuống hàng viết phép tính, phép tính lùi vào 4 ô , đáp số

xuống dòng viết lùi vào 5 ô.

Ví dụ:
Bài giải
Thùng thứ hai đựng được là:
26 - 12 = 14 ( lít dầu)
Đáp số: 14 lít dầu

13


Trong các bài toán không yêu cầu cách trình bày bài giải cụ thể. Nhưng bản
thân tôi đã dạy nhiều năm ở Tiểu học tôi thấy việc trình bày bài bài giải như thế nào
cho đẹp cũng rất cần thiết vì vậy thông qua kinh nghiệm bản thân và cách làm
của đồng nghiệp tôi tự rút ra cách trình bày bài giải như thế là tối ưu nhất.
2.3.6. Hướng dẫn chấm chữa:
Trong các môn học việc chấm chữa là không thể thiếu, việc chấm chữa theo
thông tư 22 của Bộ GD&ĐT năm 2016 có nhiều điểm mới đó là không chấm điểm
bài làm học sinh bằng điểm số mà chỉ nhận xét đánh giá. Thông qua nhận xét đánh
giá giáo viên sẽ đưa ra biện pháp hỗ trợ cho từng học sinh cụ thể với từng môn học
cụ thể. Đây là điều kiện thuận lợi hơn giáo viên giúp đỡ trực tiếp các em trong học
tập tốt hơn.
Việc chấm chữa không chỉ giáo viên thực hiện mà học sinh cũng tham gia
chấm. Học sinh đánh giá nhận xét bài mình làm và bạn làm với nhiều hình thức
khác nhau như: Nhận xét bài làm của bạn, đưa ra cách làm của mình, đồng ý với
cách làm cửa bạn... dưới sự hướng dẫn tổ chức của giáo viên. Trong bước này
học sinh hoàn toàn chủ động trong việc chấm chữa bài của mình và bạn mình một
cách tích cực.
Ví dụ: học sinh tự chấm bài mình rồi đối chiếu với bài bạn rồi tự chữa bài sai.
Cũng có thể các em đổi chéo vở để chấm dưới sự quan sát hướng dẫn của giáo

viên.
Trong các bước giải toán thì bước chấm chữa không thể thiếu, việc chấm chữa
diễn ra song song việc các em làm bài, tránh để học sinh làm xong các bài mới
chấm một lần. Nếu làm như vậy học sinh khó phát hiện ra việc mình giải sai ở chỗ
nào, nhiều bài quá học sinh sẽ nhầm bài này với bài khác. Từ đó các em sẽ khó
nhận biết bài này vì sao sai, bài khác sai ở chỗ nào. .. các trường hợp sai thường rơi
vào những học sinh gặp khó khăn trong giải toán, giải còn chậm, lúng túng. Vì vậy
chúng ta nên giả quyết dứt điểm và áp dụng thông như thông tư 22 của BGD&ĐT
hướng dẫn. Từ đó các em sẽ nhận biết cách giải bài tiếp theo đối với các bài đồng
dạng tiếp theo. Khi chấm chữa giáo viên cần chấm cụ thể từng em và từng bài cụ
thể sai đâu sửa đó. Khi chữa bài giáo viên không nêu phép tính hoặc đọc cho học
sinh viết lại bài giải mà cần định hướng, giảng lại để học sinh tự nhận ra điểm sai
và tự giải lại. làm như vậy mới phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của các em
và các em sẽ nhớ lâu hơn (Toán giải có nhiều câu lời giải khác nhau).
2.3.7. Khích lệ học sinh tạo hứng thú khi học tập.
Đặc điểm chung của học sinh tiểu học là thích được khen hơn chê, hạn chế chê
các em trong học tập, rèn luyện . Tuy nhiên, nếu ta không biết kết hợp tâm lý từng
học sinh mà cứ quá khen sẽ không có tác dụng kích thích. Đối với những em chậm
tiến bộ, thường rụt rè, tự ti, vì vậy tôi luôn luôn chú ý nhắc nhở, gọi các em trả lời
14


hoặc lên bảng làm bài. Chỉ cần các em có một “tiến bộ nhỏ” là tôi tuyên dương
ngay, để từ đó các em sẽ cố gắng tiến bộ và mạnh dạn, tự tin hơn. Đối với những
em Hoàn thành Tốt phải có những biểu hiện vượt bậc, có tiến bộ rõ rệt tôi mới
khen.Chính sự khen, chê đúng lúc, kịp thời và đúng đối tượng học sinh trong lớp đã
có tác dụng khích lệ học sinh trong học tập.
Ngoài ra, việc áp dụng các trò chơi học tập giữa các tiết học cũng là một yếu
tố không kém phần quan trọng giúp học sinh có niềm hăng say trong học tập, mong
muốn nhanh đến giờ học và tiếp thu kiến thức nhanh hơn, chắc hơn. Vì chúng ta

đều biết học sinh tiểu học nói chung, học sinh lớp hai nói riêng có trí thông minh
khá nhạy bén, sắc sảo, có óc tưởng tượng phong phú. đó là tiền đề tốt cho việc phát
triển tư duy toán học nhưng các em cũng rất dễ bị phân tán, rối trí nếu bị áp đặt,
căng thẳng hay quá tải. Hơn nữa cơ thể của các em còn đang trong thời kì phát triển
hay nói cụ thể hơn là các hệ cơ quan còn chưa hoàn thiện vì thế sức dẻo dai của cơ
thể còn thấp nên trẻ không thể ngồi lâu trong giờ học cũng như làm một việc gì đó
trong một thời gian dài. Vì vậy muốn giờ học có hiệu quả thì đòi hỏi người giáo
viên phải đổi mới phương pháp dạy học tức là kiểu dạy học :“ Lấy học sinh làm
trung tâm.”, hướng tập trung vào học sinh, trên cơ sở hoạt động của các em. Trong
mỗi tiết học, tôi thường dành khoảng 2 - 3 phút để cho các em nghỉ giải lao tại chỗ
bằng cách chơi các trò chơi học tập vừa giúp các em thoải mái sau giờ học căng
thẳng, vừa giúp các em có phản ứng nhanh nhẹn, ghi nhớ một số nội dung bài đã
học….
Tóm lại: Trong quá trình dạy học người giáo viên không chỉ chú ý đến rèn
luyện kĩ năng, truyền đạt kiến thức cho học sinh mà còn phải quan tâm chú ý đến
việc: Khuyến khích học sinh tạo hứng thú trong học tập.
2.4. HIỆU QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Với những giải pháp trên bản thân tôi đã thực hiện trong suốt năm học qua Tôi
nhận thấy học sinh lớp 2A nói riêng và học sinh trong khối hai nói chung các em
phát huy được tính tích cực, chủ động sáng tạo dưới sự tổ chức hướng dẫn của giáo
viên. Các giải pháp trên bản thân tôi thường xuyên trao đổi với giáo viên trong
khối thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn của khối, các giáo viên đã vận dụng
và có hiểu quả tốt trong dạy học toán. Giáo viên cùng học sinh luôn luôn họat động
nhịp nhàng và có hiệu quả tốt. Đa số các em yêu thích học toán, biết tự tìm hiểu và
phân tích bài toán. Từ đó các em đã tự tin khi giải các bài toán, viết được các câu
lời giải đúng, có kĩ năng nhận dạng bài toán nhanh hơn so với đầu năm học. Hướng
dẫn học sinh giải toán lời văn với những biện pháp cụ thể là một việc mà giáo viên
dạy học ở tiểu học nên làm. với những giải pháp trên các khối lớp ở cấp Tiểu học
15



có thể vận dụng và nâng dần lên với các lớp học trên. Hiệu quả đề tài cho thấy sự
tiến bộ của học sinh được thể hiện qua kết quả sau:
* Thực trạng ban đầu ( bảng 1)
Sĩ số

Giải thành thạo

25 em

5 em = 20 %

Kĩ năng giải chậm
7 em = 28 %

Chưa nắm được cách
giải
13 em = 52%

Hiệu quả đạt được sau khi đã thực hiện các biện pháp nêu trên (bảng 2):
Sĩ số
25 em

Giải thành thạo
17 em = 88 %

Kĩ năng giải chậm
5 em = 20 %

Chưa nắm được cách giải

0 em

* Chất lượng môn Toán đầu năm học (bảng 3):
Hoàn thành tốt
8 em ( 48%)

Hoàn thành
12 em ( 52% )

Chưa hoàn thành
5 = 20%

Chất lượng môn Toán đến cuối năm học (bảng 4):
HOÀN THÀNH TỐT

HOÀN THÀNH

20 em ( 80%)

5 em ( 20% )

CHƯA HOÀN THÀNH

0

Như vậy: Từ kết quả đạt được ở trên , chúng ta thấy rằng :Nếu khi chưa áp
dụng các biện pháp đã nêu thì thực trạng ban đầu chỉ có 5 em tỉ lệ 20% có kĩ năng
giải thành thạo, còn lại 7 em tỉ lệ 28% có kĩ năng giải chậm và có tới 13 em tỉ lệ
52% chưa nắm được kĩ năng giải, thế nhưng cuối năm học hiệu quả đạt được khá
cao ( bảng 2) đó là số em có kĩ năng giải thành thạo đã có tới 17 em chiếm tỉ lệ

88% còn lại 5 em tỉ lệ 20 giải hơi chậm một chut, số không nắm được kĩ năng giải
toán đã không còn. Từ kết quả thu được ở giải toán có lời văn thì , kết quả đạt được
của môn toán cuối năm cũng tiến bộ vượt bậc so với đầu năm. Cụ thể : nếu kết quả
ban đầu vẫn còn 5 em tỉ lệ 20% Chưa Hoàn thành, và chỉ có 8 em tỉ lệ 48% hoàn
thành tốt (bảng 3) thì cuối năm đã có tới 20 em tỉ lệ 80% Hoàn thành tốt , 5 em tỉ lệ
20% Hoàn thành và đặc biệt số học sinh Chưa Hoàn thành đã không còn. Điều đó
chứng tỏ những biện pháp tôi đã vận dụng nêu trên đã thực sự mang lại hiệu quả
cao.
3. KẾT LUẬN.
16


Việc dạy – học giải toán có lời văn là vấn đề quan trọng trong việc dạy học
toán nói chung và dạy học ở dạng này nói riêng . Việc dạy cho học sinh giải toán có
lời văn thành thạo không phải là khó song cũng không phải là dễ, làm cho học sinh
hiểu được mục đích quan trọng của nó đó là cơ sở ban đầu cho việc tiếp tục học tập
của các lớp trên .Để đạt được hiệu quả cao trong việc dạy- học giải toán có lời văn
nói chung và giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2 nói riêng thì giáo viên cần làm
tốt các vấn đề sau:
- Giáo viên đứng lớp phải luôn xem việc chất lượng là hàng đầu. Các em chính
là sản phẩm lao động của người giáo viên hôm nay sẽ là tương lai của đất nước mai
sau. Ngoài việc cố gắng học hỏi đồng nghiệp ở chuyên môn, vận dụng phương
pháp dạy học tối ưu…thì giáo viên phải luôn sáng tạo trong dạy học không quá
cứng nhắc, vận dụng phương pháp dạy học một cách linh hoạt cho phù hợp với
từng đối tượng học sinh trong lớp
- Phối kết hợp với phụ huynh học sinh dều đặn thông qua sổ liên lạc, gặp mặt
trực tiếp để nắm bắt tình hình học tập của các em cũng như tâm lí của từng học sinh
từ đó có các biện pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh.
- Giáo viên luôn hiểu: Việc rèn các kĩ năng giải Toán cho các em là điều rất cần
thiết cho học sinh Tiểu học. Kĩ năng đó là nền tảng cho các em học toán đối với các

lớp trên…nên cần phải có những biện pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh
trong quá trình rèn các kĩ năng giải Toán cho các em, có như vậy các em mới nắm
vững được các kĩ năng giải toán, từ đó giải toán được một cách thành thạo.
- Và để có kết quả tốt giáo viên cần có sự chuẩn bị chu đáo từng bài học, tiết
học (nghiên cứu kĩ bài soạn trước khi lên lớp). Các tiết dạy cần có và luôn sử dụng
đồ dùng dạy học. Trong khi dạy giáo viên cần sử dụng lời nói ngắn gọn xúc tích dễ
hiểu, gần gũi với các em để học sinh dễ nhận biết các dạng bài toán và giải bài toán
một cách thuận lợi. Cần có các bài tập trong tiết học cũng như thực hành phải vừa
sức với từng đối tượng học sinh.
- Giáo viên cần phải nghiên cứu kĩ và nắm vững thông tư 22 của BGD&ĐT để
vận dụng tốt nhằm phát huy được tính tự giác, tích cực và chủ động cuả các em .
Phải luôn hiểu rằng giáo viên chỉ là người định hướng và chỉ đạo, hoạt động của
thầy và trò phải luôn diền ra đồng bộ song song với nhau. Bản thân giáo viên cần
phải tâm huyết với nghề cùng với tình yêu trẻ. phải thường xuyên học tập bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ nâng cao hiểu biết và cập nhật những phương pháp
mới với nhiều hình thức khác nhau để phục vụ tiết học tốt hơn tạo điều kiện tốt cho
việc nâng cao chất lượng Dạy- Học, tạo nền móng vững chắc cho sự phát triển xã
hội trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
17


Tôi tin rằng với những biện pháp nêu trên cùng với lòng yêu nghề mến trẻ, giáo
viên chúng ta sẽ góp phần nhỏ bé vào việc đưa nền giáo dục của trường sánh vai
ngang tầm với các trường bạn trong huyện và tỉnh…
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân tôi rút ra từ thực tế giảng dạy phần
giải toán có lờiSỞ
vănGIÁO
cho học
sinh VÀ
lớp 2,nhưng

với xu
thế phát HOÁ
triển của giáo dục
DỤC
ĐÀO TẠO
THANH
ngày nay,trong quá trình dạy
học bản
thân phải
còn cố
gắng nhiều trong giảng dạy
PHÒNG
GD&ĐT
THỌ
XUÂN
để theo kịp với xu thế mới của giáo dục Việt Nam .
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện với thời gian và năng lực hạn chế của
bản thân, tôi rất mong được sự góp ý, giúp đỡ của quý cô thầy đồng nghiệp...
Xin trân trọng cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình,
không sao chép nội dung của người khác.

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Nguyễn Thị Thạch

MỘT SỐ KINH NGHIỆM NHỎ
GIÚP HỌC SINH LỚP 2 GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN


Người thực hiện: Nguyễn Thị Thạch
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Xuân Minh-Thọ Xuân
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Toán

18
THANH HOÁ NĂM 2018


Những sáng kiến nào phân loại chưa đúng thì xem danh mục này để phân loại
Phụ lục phân loại các môn học và chủ đề

PHÂN LOẠI LĨNH VỰC SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM THEO CẤP HỌC
Chú ý :
kỹ hướng dẫn và gửi bài đúng quy định.
Hiện tại một số bài gửi đến nhưng không quy định nên chúng tôi mở
không được.
Những đề tài nhiều ảnh có dung lượng lớn đề nghị các đồng chí xử lý ảnh
để giảm dung lượng để gửi mail được.

19


Khi bài các đồng chí gửi đến theo hộp thư điện tử, hàng ngày nhận được
chúng tôi đều trả lời. Mong các đồng chí sau khi gửi 1 ngày kiểm tra lại hộp thư
đã gửi xem kết quả thế nào (không có trả lời có nghĩa chưa nhận được). Có gì
chưa rõ xin liên hệ vào số điện thoại 0988121504 hoặc 0941249370

20




×