Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Chính sách tiền lương khu vực công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.39 KB, 17 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình phát triển chung của nhân loại, của mỗi dân tộc, của mỗi quốc
gia. Vấn đề đảm bảo cuộc sống cho người lao động cả về mặt thể chất lẫn tinh thần
không ngừng được nâng lên luôn là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu.
Đối với bất kỳ một quốc gia nào, vấn đề trả lương cho các cán bộ công chức Nhà
nước, luôn là vấn đề nhận được sự quan tâm của đông đảo người dân để có thể duy
trì, và phát triển nền kinh tế của một đất nước.
Vì vậy mà chính sách trả lương trong khu vực công của một quốc gia có ý nghĩa
quan trọng đối với đất nước đó, với chính sách trả lương phù hợp đúng đắn sẽ giúp
nền hành chính của đất nước đó phát triển ổn định, giúp kinh tế của đất nước đó đi
lên.
Để hiểu rõ hơn chính sách tiền lương trong khu vực công của một quốc gia có
những chính sách gì, em quyết định lựa chọn đề tài: “ Chính sách tiền lương khu vực
công ở Vương quốc Bỉ, bài học cho Việt Nam”. Và từ đó rút ra những bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam, giúp nước ta học hỏi được những điều hay từ các chính sách
trả lương của nước bạn.

Kết cấu bài tiểu luận gồm 3 phần:
Chương 1: Cơ sở lý luận về chính sách tiền lương khu vực công
Chương 2: Thực trạng chính sách tiền lương khu vực công ở Vương quốc Bỉ
Chương 3: Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

1


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG
KHU VỰC CÔNG
1.1: Một số khái niệm:
Khu vực công: được hiểu là khu vực phản ánh hoạt động thực tế về chính trị kinh tế - xã hội và do nhà nước quyết định (chịu sự quản lý của nhà nước).
Tiền lương trong khu vực công: là số tiền nhà nước trả cho cán bộ người lao
động khi làm việc trong khu vực công, căn cứ vào số lượng và chất lượng của lao


động làm ra phù hợp với cung cầu trên thị trường sức lao động và căn cứ vào khả
năng ngân sách của quốc gia và các quy định của pháp luật.
Chính sách tiền lương khu vực công: là quan điểm, phương thức, cách tính toán
để xác định mức tiền lương trong một phạm vi. Tiền lương trong khu vực hành chính
nhà nước không phải là tiền lương được trả theo cơ chế thoả thuận giữa người lao
động và người sử dụng lao động mà chịu sự chi phối trực tiếp của Nhà nước, tiền
lương trong khu vực này có tính độc lập nhất định với tiền lương trên thị trường.
1.2: Vai trò của tiền lương trong khu vực công:
Giúp thu hút, giữ chân cán bộ công nhân viên chức và hướng tới người lao động
có chuyên môn kỹ thuật cao.
Nâng cao năng suất và hiệu quả làm việc ở khu vực công.
Nâng cao dịch vụ cho khu vực công.
1.3: Giới thiệu về Vương quốc Bỉ:
Vương quốc Bỉ nằm ở phía Tây Bắc châu Âu, tiếp giáp với Hà Lan, Pháp, Đức
và Đại công quốc Luxembourg. Dân số của Bỉ khoảng 11,2 triệu người (năm 2013).
2


Bỉ nằm ở giao điểm của các trung tâm kinh tế và đô thị chính của châu Âu và cửa ngõ
hàng hải quốc tế trọng yếu, Biển Bắc. Vì vậy, Vương quốc Bỉ không chỉ nằm trong
vùng có mật độ dân cư cao nhất và có nền giao thương phát triển nhất mà còn nằm ở
trung tâm của trục kinh tế và đô thị chính. Do đó mà kinh tế của Bỉ rất phát triển dù có
diện tích nhỏ (30.528km2), và tài nguyên không nhiều.
Bỉ nằm ở trung tâm của Châu Âu: nơi có 1100 đại diện tổ chức quốc tế (trong đó
có NATO và 6 cơ quan của EU), 600 hãng tin quốc tế, 400 cơ quan đại diện (bên cạnh
Bỉ, Cộng đồng Châu Âu, Tổ chức Hải quan quốc tế...), 1700 đại diện của các công ty
quốc tế và Châu Âu. Mặc dù là một nước nhỏ trong Liên minh Châu Âu nhưng Bỉ có
vai trò quan trọng trong quá trình nhất thể hoá Châu Âu. Là một trong những nước
thành viên sáng lập các thể chế đầu tiên của Liên minh Châu Âu ngày nay, Bỉ luôn đi
tiên phong trong quá trình này và chủ trương xây dựng một Liên minh Châu Âu mạnh

và nhất thể hoá sâu hơn.
1.4: Ý nghĩa của đề tài:
Nhằm có cái nhìn tổng quan hơn về chính sách tiền lương khu vực công ở
Vương quốc Bỉ. Để từ đó đi sâu nghiên cứu cách thức trả lương, quản lý tiền lương ở
khu vực công của Bỉ, và rút ra được những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam đưa ra
các chính sách tiền lương trong khu vực công của mình được hợp lý hơn. Ý nghĩa của
đề tài là giúp Việt Nam học hỏi các cải tiến trong việc trả lương cho cán bộ công chức
trong khu vực công của Bỉ.

3


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG KHU VỰC
CÔNG Ở VƯƠNG QUỐC BỈ
2.1: Tình hình bộ máy công chức ở Vương quốc Bỉ:
Vương quốc Bỉ theo chế độ quân chủ lập hiến, nên vai trò của nền quân chủ
được hiến pháp quy định và bảo vệ. Đứng đầu Nhà nước là Nhà Vua Bỉ. Hiến pháp
quy định rõ địa vị pháp lý của nhà vua và việc truyền ngôi. Nhà vua chỉ bắt đầu nắm
quyền sau khi trang trọng tuyên thệ trước Hạ viện và Thượng viện.
Bỉ đã được một nhà nước liên bang bao gồm 6 đơn vị (3 khu vực và 3 cộng
đồng) từ năm 1993. Đất nước được chia thành 10 tỉnh và 3 vùng. Có hai loại chính
quyền địa phương: tỉnh, thành phố. Nhà nước liên bang có năng lực trong quốc
phòng, công bằng và an sinh xã hội. Cộng đồng có thẩm quyền trong các vấn đề văn
hóa, giáo dục và chính sách ngôn ngữ. Các khu vực có trách nhiệm vận chuyển, công
trình công cộng và một số vấn đề kinh tế. Các tỉnh nói chung là có thẩm quyền trong
các vấn đề quan tâm của địa phương.
Phòng đại diện được tạo thành từ 150 thành viên được bầu trực tiếp bằng phiếu
phổ thông. Thượng viện có 71 thành viên, 40 nhân dân đồng bầu (25 nói tiếng Hà Lan
và 15 nói tiếng Pháp), 21 bởi Cộng đồng bổ nhiệm (10 từ Cộng đồng Pháp, 10 từ
Cộng đồng Flemish và 1 từ Cộng đồng nói tiếng Đức) và thêm 10 thượng nghị sĩ

đồng chọn tham gia (6 từ Cộng đồng nói tiếng Hà Lan và 4 từ Cộng đồng nói tiếng
Pháp). Nghị viện liên bang (Phòng và Thượng viện) bỏ phiếu về luật. Thượng viện,
lần lượt, có quyền hạn duy nhất để giải quyết các xung đột lợi ích có thể phát sinh
giữa Quốc hội Liên bang và Hội đồng của các cộng đồng và các khu vực.

4


Thủ tướng là người đứng đầu chính phủ, kiêm chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và
Nội các. Hội đồng Bộ trưởng bao gồm 15 thành viên, cùng với Thủ tướng Chính
phủ. Tuy nhiên, Bộ trưởng Ngoại giao không phải là thành viên của Hội đồng Bộ
trưởng.
Bỉ được tổ chức thành ba cấp hành chính:
Cấp trên bao gồm các nhà nước liên bang, các cộng đồng và các vùng;
Cấp độ trung bình bao gồm các tỉnh;
Và mức độ thấp hơn được thực hiện của các xã.
Vương quốc Bỉ là thành viên của Liên minh Châu Âu Eu và là một thành viên
của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế OECD (Organization for Economic
Cooperation and Development). Vì vậy mà các chính sách trả lương trong khu vực
công của Bỉ cũng bị ảnh hưởng bởi nhiều chính sách, quy định của Liên minh Châu
Âu Eu và OECD. Hiện nay, Bỉ đang áp dụng mô hình công vụ theo hướng mở, linh
hoạt, và mang lại hiệu quả cao.
Ở Bỉ có ba loại công chức được quy định rõ ràng trong Nghị định Hoàng gia của
02 tháng 10 năm 1937, và đã được sửa đổi nhiều lần (đáng kể nhất vào năm 2004):
Công chức (nhân viên theo luật định): với một vị trí cố định trong bộ máy
nhà nước, được quy định rõ ràng.
Nhân viên phục vụ không dân dụng (với hợp đồng lao động): đa số nhân
viên làm việc trong khu vực công (21% ở cấp liên bang). Họ có vị trí không được
điều chỉnh bởi pháp luật cụ thể.
Các nhà quản lý cấp cao: quản lý.

Công chức của Bỉ có quyền tham gia công đoàn và đình công. Số phụ nữ trong
chính quyền đã ngày một tăng lên và phụ nữ ngày nay chiếm một phần khá lớn trong
5


nhiều Bộ của Bỉ (Việc làm, Xã hội, Y tế và Môi trường, vv). Đa số phụ nữ là nhân
viên hợp đồng, trong khi nam giới lại được làm công chức, giữ những trọng trách
quan trọng trong bộ máy cơ quan nhà nước. Nói chung, đàn ông vẫn chiếm ưu thế ở
những vị trí có trách nhiệm, mặc dù những thay đổi đang diễn ra.
Theo số liệu thống kê của Ngân hàng thế giới về vấn đề việc làm ở khu vực công
và tiền lương của một số quốc gia trên thế giới; năm 2014 nước Bỉ có khoảng
1.931.367 việc làm ở khu vực công, trong đó có các vị trí việc làm ở các cơ quan
trung ương của Bỉ, nhân viên giáo dục , nhân viên y tế, cảnh sát, lực lượng vũ trang...
Các Bộ liên bang Bỉ sử dụng khoảng 306.500 nhân viên. Bộ Tài chính sử dụng hơn
một nửa trong số các dịch vụ dân sự liên bang. Tại Bỉ các dịch vụ dân sự được quy
định trong các Nghị định của Hoàng gia. Các dịch vụ dân sự liên bang được cai trị
bởi đạo luật, sắc lệnh Hoàng gia từ năm 1937, và được thay đổi nhiều lần kể từ đó đến
nay. Và nó có quy định chi tiết về các vấn đề tuyển dụng, lựa chọn, đánh giá nhân
viên và thăng tiến.
Để có thể được làm việc tại các cơ quan dịch vụ dân sự của Bỉ, thì người dân
phải thi tuyển, cạnh tranh công bằng; sau đó Văn phòng tuyển dụng Liên bang sẽ lựa
chọn và tuyển dụng, Văn phòng Liên bang cũng là cơ quan tổ chức thi tuyển công
chức. Việc tuyển dụng và lựa chọn các quan chức nhà nước được thể hiện trong phần
III của Quy định nhân viên cho các cán bộ Nhà nước (Điều 15-44).
Khi họ được tuyển dụng, được ký kết làm nhân viên hợp đồng thì phải cung cấp đầy
đủ giấy chứng nhận hạnh kiểm tốt và đạo đức đứng đắn.
Cũng như ở cấp liên bang, nhân viên phải được tuyển chọn thông qua Ban thường
trực Bí thư đối với việc tuyển dụng nhân viên nhà nước.

6



Năm 2011, chính phủ liên bang làm việc 133 083 công chức, bao gồm cả cảnh sát,
quân sự và tư pháp lệnh. Các thành phố làm việc 267 345 người lao động; tỉnh đã có
14 321 người lao động; và các cộng đồng và khu vực sử dụng 385 405 người.
Thù lao được trả cho công chức Bỉ được quy định rõ trong Nghị định Hoàng gia
ngày 29 tháng 6 năm 1973 thiết lập hệ thống tiền lương cơ bản đối với công chức (các
thủ tục tính toán tiền lương, điều kiện thâm niên, vv). các khoản phụ cấp lương hưu,
tiền thưởng hoặc bồi thường có thể được thêm vào tiền lương cơ bản này. Thang
lương ở cấp địa phương, khu vực và liên bang không tương đương.
Thù lao được dựa trên thâm niên, quy định về an sinh xã hội là sự khác biệt từ trong
việc áp dụng ở khu vực tư nhân và công chức Nhà nước, công chức được hưởng một
chế độ hưu trí đặc biệt. Tiền lương công chức thấp hơn so với các cán bộ làm ở cơ
quan hành pháp và khu vực tư nhân cùng ngành nói chung. Có bốn cấp và một cấp
giữa: từ cao nhất đến thấp nhất, các cấp đó là 1, 2, 2+, 3 và 4. Cấp 1 phần lớn là giới
hạn cho sinh viên tốt nghiệp đại học, nhưng khả năng thăng tiến lên cấp 2 là rất
lớn. Trong cấp 1, có một số phụ cấp, phân biệt giữa tổng thư ký, giám đốc, nhân viên
tư vấn. Nhìn chung, đội ngũ nhân viên hạng trung, và nhân viên cơ sở, công chức
được bổ nhiệm có trách nhiệm lớn, họ được đảm bảo quyền, lợi ích xã hội rộng lớn,
và có triển vọng nghề nghiệp trong tương lai.
Các dịch vụ dân sự Bỉ bị chia thành bốn cấp độ (1, 2, 3, 4) nhưng có thêm cấp độ thứ
năm (cấp 2+), để xác định giá trị, chức năng chuyên ngành đòi hỏi một nền giáo dục
cao hơn.
Bảng 1: Cấp độ trong nền hành chính công tại Bỉ:
Bản chất của công việc
Cấp 1: Quản lý, nghiên cứu
Cấp 2+: Công việc chuyên ngành
Cấp 2: Thi hành, hỗ trợ quản lý

Cấp độ giáo dục

Giáo dục đại học
Trung học trở lên, giáo dục đại học (ngắn
hạn)
7


Cấp 3: Làm việc văn phòng hành chính
Cấp 4: Công việc chân tay

Trung học cơ sở
Giáo dục tiểu học

Nguồn: Hội nghị quốc tế về hệ thống dịch vụ dân sự - Đại học Indiana - dịch vụ dân
sự Bỉ (2007).
Ở Bỉ có một ngân sách riêng để các ban ngành dùng để xây dựng các chính sách
đào tạo. Ngoài ra còn có Giám đốc đào tạo trong từng Bộ. Tuy nhiên, đào tạo và giáo
dục không quan trọng như các tiêu chí khác trong sự nghiệp của cán bộ công
chức. Họ phải vượt qua một chặng đường dài được đào tạo và quản lý tại các trường
đại học để họ được hướng dẫn nghiên cứu khoa học, đó là điều kiện để được lên cấp
công chức. Trong trường hợp không có bất kỳ thoả thuận điều khoản rõ ràng cho sự
luân chuyển thường xuyên của nhân viên liên bang được căn cứ vào Điều 37 và Điều
102 của Hiến pháp, để có những quyết định rõ ràng.
Nền công cụ của Vương quốc Bỉ rất nghiêm ngặt với các Nghị định của Hoàng
gia, các Bộ Luật quy định về việc nhân viên phải tuân thủ giờ làm việc, phải giứ bí
mật tất cả các tài liệu liên quan đến công việc, hạn chế tham gia các cuộc biểu tình,
tuổi nghỉ hưu là trước 65 tuổi.
2.2: Chính sách tiền lương khu vực công của Vương quốc Bỉ:
Nước Bỉ có một nền kinh tế mở. Sự mở cửa kinh tế càng được chú trọng trong
những thập kỷ gần đây. Một nghiên cứu mới đây của Thụy Sĩ (Chỉ số Hội nhập toàn
cầu KOF - Swiss ETHZ) đã đánh giá Bỉ là quốc gia có mức độ toàn cầu hóa cao nhất

thế giới dựa trên các tiêu chí về kinh tế, xã hội và chính trị. Tuy chiếm dưới 0.2% dân
số thế giới, Bỉ là một trong 10 quốc gia dẫn đầu về lượng hàng hoá giao dịch ngoại
thương (Tổ chức thương mại thế giới).
Trong những năm vừa qua, Bỉ đã vượt qua những thách thức lớn về kinh tế và
công nghệ một cách thành công. Ngành dịch vụ hiện chiếm khoảng 75% nhân lực Bỉ,
ngành công nghiệp 23% và ngành nông nghiệp khoảng 2%. Bỉ cũng đã thích ứng với
8


yêu cầu toàn cầu hóa đồng thời duy trì khả năng cạnh tranh bằng cách nâng cao chất
lượng sản xuất và khả năng cạnh tranh của lực lượng lao động.
Để có được những thành công đó là nhờ có đội ngũ cán bộ công chức của Bỉ
năng động, sáng tạo, thích ứng được với mọi điều kiện hoàn cảnh. Với việc áp dụng
chính sách tiền lương, thưởng linh hoạt dựa theo việc đánh giá chất lượng hoạt động
của từng cá nhân công chức, thúc đẩy họ làm việc hiệu quả hơn. Từ đó giúp Chính
phủ Bỉ có thể thu hút duy trì nguồn nhân lực giỏi, kích thích động lực làm việc của
cán bộ công chức, đáp ứng yêu cầu thực tế đặt ra.
Cụ thể là:

- Quy định về chế độ tiền lương:
Ở Bỉ, việc trả lương cho cán bộ công chức được quy định rõ tại các Nghị định
của Hoàng gia, các Bộ luật; thể hiện sự nghiêm ngặt và chặt chẽ của chính sách tiền
lương. Công chức Bỉ được trả lương dựa trên kết quả đánh giá chất lượng hoạt động,
giúp việc trả lương gắn chặt với hoạt động hiệu quả của từng cá nhân. Ngoài ra, Chính
phủ còn tạo lập cho cán bộ công chức những quyền hạn nhất định để thực thi, hoàn
thành nhiệm vụ, công chức Bỉ nắm giữ những quyền lực nhất định trong bộ máy nhà
nước.
Tiền lương được thiết lập bởi Hoàng gia và Chính phủ. Mức lương cơ bản và tiền
thưởng được xem xét hàng năm dựa trên mức sống, lạm phát và mức lương trung bình
của khu vực tư nhân, trong đó thâm niên được coi là yếu tố quan trọng nhất quyết

định đến mức lương hàng tháng, tiền thưởng, phúc lợi.
Số giờ làm việc bình thường ở Bỉ được nhất trí chung là 38 giờ một tuần, mặc dù
nhân viên thường làm việc 40 giờ và được nghỉ 12 ngày một năm.
9


- Chính sách tiền lương tối thiểu:
Chính sách tiền lương tối thiểu của Bỉ được xác định bởi Hội đồng Lao động
Quốc gia, và quy định rõ trong thỏa ước lao động tập thể được ràng buộc giữa các
bên.
Mức lương tối thiểu được thiết lập dựa trên chỉ số giá tiêu dùng, và mức lương
tối thiểu được tính toán trên cơ sở hàng giờ và hàng tháng. Một mức lương tối thiểu
tại Bỉ, được tăng mỗi năm từ khi công chức đó 18 tuổi cho đến khi 22 tuổi, và từ 22
tuổi trở đi sẽ áp dụng một mức lương tối thiểu cho tất cả công chức.
Đây là mức lương tối thiểu mà Bỉ đang áp dụng có hiệu lực từ ngày 01/01/2015.
Đơn vị tính là: € (Euro).

Mức lương tối thiểu theo giờ
Tuổi

Lương tối thiểu mỗi tháng
38 giờ mỗi tuần

39 giờ mỗi tuần

20

1.411,71

8.57


8,35

19

1.321,60

8.03

7.82

18

1.231,49

7.48

7.29

17

1.141,38

6.93

6.75

16

1.051,27


6.38

6.22

Nguồn: Mức lương tối thiểu của các quốc gia EU-2015
- Quy định về chế độ phụ cấp, phúc lợi:
10


Ngoài tiền lương, công chức ở Bỉ còn được hưởng các chế độ phụ cấp (bao gồm
các loại phụ cấp về: trợ cấp hưu trí, trợ cấp gia đình, phụ cấp làm thêm giờ, tiền
thưởng,.......)
Các gói an sinh xã hội toàn diện của Bỉ gồm năm yếu tố chính: trợ cấp gia đình,
bảo hiểm thất nghiệp, nghỉ hưu, trợ cấp y tế và một số chương trình nghỉ ốm mà đảm
bảo tiền lương trong trường hợp ốm đau. Hiện nay, thanh toán sử dụng lao động bình
quân đối với hệ thống an sinh xã hội dừng ở mức 35 phần trăm của tiền lương trong
khi đóng góp của công chức bao gồm 13 phần trăm (2014). Ngoài ra, nhiều công ty
Nhà nước cung cấp các chương trình bổ sung cho các phúc lợi y tế và hưu trí. Cho
thấy Chính phủ Bỉ rất quan tâm tới công chức Nhà nước.
Trợ cấp hưu trí là một trợ cấp quan trọng trong hệ thống trợ cấp đươc tính theo
thời gian làm việc tại các đơn vị cơ quan Nhà nước của công chức và tiền lương họ
nhận được. Tuổi nghỉ hưu bình thường là 65 tuổi và thời gian làm việc là 45 năm đối
với nam và nữ. Trước năm 2009, tuổi nghỉ hưu bình thường ở Bỉ là 65 đối với nam và
60 tuổi đối với phụ nữ và thời gian làm việc 45 năm cho nam, 40 năm đối với nữ.
Nhưng gần đây Bỉ đang có kế hoạch nâng tuổi nghỉ hưu lên.
- Quy định về chế độ nâng bậc lương:
Vương quốc Bỉ có các chính sách, chương trình đào tạo bắt buộc đối với công
chức mới được tuyển dụng và công chức sắp được thăng chức, quy định trung bình là
5 năm; công chức sẽ được học tại hệ thống các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức mới được xem xét nâng bậc.
Ví dụ như: cán bộ công chức Bỉ làm việc tại vị trí trợ lý hành chính và có bằng
trung học, thì sau khi làm việc được 4 năm mà thi đỗ đại học sẽ được xét để xếp bậc
lương mới. Và sau đó cứ 5 năm một lần sẽ được xét nâng bậc lương mới trong tổng số
năm công tác sẽ liên tục thay đổi.
11


- Các chính sách khác:
Ở Bỉ Bộ Lao động Liên bang sẽ chịu trách nhiệm chính trong việc quản lý Nhà
nước về tiền lương đối với cán bộ công chức Nhà nước. Ngoài ra, còn nhận được sự
chỉ đạo giám sát của Chính phủ liên bang.
Lương của cán bộ công chức tại Bỉ được đảm bảo khá cao. Hiện Nhà nước bảo
đảm cho công chức có mức lương bằng khoảng 90% của những người đang làm trong
các doanh nghiệp tư nhân.
Theo thống kê của Ngân hàng thế giới 2013, thì hiện Bỉ đang chi trả trung bình
12,03 triệu euro tiền lương cho một công chức hàng năm. Nó cao hơn một chút với
mức tiền lương được trả cho công nhân trong khu vực tư nhân. Nhìn chung, tiền
lương mà cán bộ công chức Bỉ nhận được đủ để họ sống tốt mà không cần phải nghĩ
tới việc tham nhũng.
 Hoàng gia Bỉ đã rất thành công trong thu hút, duy trì, giữ chân nhân lực
giỏi,tài năng làm việc tại khu vực công, có nhiều biện pháp kích thích động viên nhân
lực. Việc kết hợp chính sách lương với nhiều hình thức thưởng và duy trì nghiêm các
Nghị định Hoàng gia đã góp phần tạo nên đội ngũ cán bộ công chức có kỷ luật cao, hệ
thống công vụ vận hành lành mạnh và có hiệu quả đáp ứng yêu cầu của thực tế.
2.3: Cách thức trả lương:
Tại Bỉ tiền lương được xác định và điều chỉnh mỗi năm bởi Bộ Lao động Liên
bang. Tiền lương trả cho cán công chức Bỉ bao gồm: lương cứng, trợ cấp và các
khoản phúc lợi.
- Tiền lương nhân viên được xây dựng theo hệ thống cấp bậc và có dựa trên thâm

niên công tác, tiền thưởng được đánh giá dựa theo kết quả thực thi công việc những
công chức hoàn thành tốt công việc của mình.
12


- Lương của mỗi nhân viên gồm thưởng ngân sách và tiền làm ngoài giờ. Tuy
nhiên, đối với công chức từ 22 tuổi trở đi được áp dụng theo hệ thống lương thường
niên.
Công thức xác định tiền lương:
TIỀN LƯƠNG HÀNG THÁNG = TIỀN LƯƠNG CỨNG+ PHỤ CẤP
Thông thường: Lương cứng chiếm 75% (lương tối thiểu * hệ số lương cấp bậc),
phụ cấp chiếm 25%.
- Một số loại phụ cấp ngoài như:
+ Phụ cấp chung: bảo hiểm hưu trí, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế...
+ Tri trả cho không làm việc: Nghỉ ốm, nghỉ lễ, các kỳ nghỉ, nghĩa vụ,...
+ Dịch vụ cho người lao động: các chương trình chăm sóc sức khỏe,...
Các hình thức trả lương chính:
+ Trả lương theo hiệu suất công việc dựa trên: mức độ phức tạp của công việc,
tính kịp thời trong công việc…
+ Trả lương theo khả năng thực hiện công việc: năng lực lập kế hoạch, giao tiếp,
hợp tác, định hướng…
+ Trả lương theo giá trị công việc, thái độ với công việc.
Một số ví dụ về mức lương trong trong Khu vực công tại Vương quốc Bỉ:
Mức lương bình quân hàng tháng của cán bộ công chức Bỉ là: 3.750 euro (2014).
Bảng 1: Các mức lương hàng tháng của công chức Bỉ (2014):
Mức lương
Tối đa
Trung bình
Tối thiểu


Tiền
5.000 euro
3.750 euro
2.500 euro
13


2.4: Một số nhận xét:
+ Chính sách trả lương, thưởng dựa trên đánh giá kết quả thực hiện công việc
của từng cá nhân công chức  khuyến khích sự cạnh tranh phấn đấu lành mạnh trong
công chức. Điều này tạo nên một sự khích lệ đáng kể cho những công chức tài giỏi và
hạn chế tình trạng "chảy máu chất xám".
+ Chính phủ Bỉ rất quan tâm tới các chính sách an sinh xã hội, phúc lợi, đãi ngộ
cho các cán bộ công chức, có thêm hiều chính sách khuyến khích tài chính trong hệ
thống chi trả lương chung  cho thấy sự quan tâm của Chính phủ Bỉ dành cho cán bộ,
nhân viên trong khu vực công là rất lớn. Đây là sự đãi ngộ mà rất nhiều quốc gia trên
Thế Giới đang hướng đến để thu hút nguồn nhân lực trong khu vực công.
+ Sự tương quan về tiền lương giữa khu vực công và khu vực tư nhân ở Bỉ rất rõ
ràng, tiền lương khu vực công cao hơn so với khu vực tư nhân  giúp công chức Bỉ
yên tâm làm việc, cho thấy sự cống hiến của họ được thừa nhận và trả công xứng
đáng, đồng thời góp phần thu hút và giữ chân nhân tài trong khu vực công.
CHƯƠNG 3: BÀI HỌC KINH NGHIỆM RÚT RA CHO VIỆT NAM
Tuy Việt Nam và Vương quốc Bỉ nằm ở hai khu vực khác nhau, Bỉ là một quốc
gia nằm ở phía Tây Bắc châu Âu một khu vực tập trung các cường quốc phát triển
kinh tế lớn nhất thế giới như: Đức, Pháp... và Bỉ cũng là một quốc gia có nền kinh tế
rất phát triển; còn Việt Nam năm ở khu vực Đông Nam Á, khu vực tập trung các nền
kinh tế đang phát triển, còn nhiều lạc hậu. Để so sánh chính sách trả lương giữa hai
quốc gia là rất khó, vì mỗi quốc gia cần có một chính sách trả lương cho cán bộ công
chức khác nhau để phù hợp với nền chính trị và điều kiện kinh tế của quốc gia đó.
Nhưng Việt Nam có thể học hỏi các sáng kiến, các quy định hay trong chính sách trả


14


lương công chức của Bỉ; để từ đó đưa ra các chính sách trả lương phù hợp cho cán bộ
công chức nước ta.
Từ những kinh nghiệm của Vương quốc Bỉ trong việc trả lương cho công chức,
em đưa ra một số bài học, khuyến nghị cho Việt Nam như sau:
Nước ta cần sớm tiến hành đổi mới chính sách trả lương cho cán bộ công chức
Nhà nước; nên tiến hành áp dụng việc trả lương cho công chức theo kết quả đánh giá
thực hiện công việc, theo vị trí công việc, theo năng lực làm việc của công chức 
khuyên khích công chức làm việc hiệu quả hơn, công chức được trả lương xứng đáng
với công sức của mình bỏ ra. Do hiện nay, Việt Nam trả lương cho công chức còn
mang nặng tính bình quân, đồng đều ai cũng như ai, làm những cán bộ công chức có
tài năng, năng lực, phẩm chất tốt rời khu vực công, để tìm công việc khác ở khu vực
tư nhân, mang lại lợi ích cao hơn.
Cần thay đổi cơ bản kết cấu tiền lương của công chức, trong đó bao gồm phần
lương “cứng” theo thang, bậc lương quy định chung của Nhà nước và bằng với mức
lương tối thiểu mà từng người đang được hưởng; và phần lương “mềm” chính là tiền
thưởng, các phụ cấp thì cần được trả theo năng suất làm việc, hiệu quả công việc và
mức độ hoàn thành nhiệm vụ, được chi trả từ nguồn kinh phí tăng lương do Chính
phủ phân bổ cho mỗi đơn vị, hoặc từ lợi nhuận mà các tổ chức công thu được.
Hiện nay chính sách trả lương của nước ta đang áp dụng được trả theo ngạch,
cấp bậc đơn thuần; và cấp bậc công chức của nước ta có rất nhiều bậc, ngạch  cán bộ
công chức gặp nhiều khó khăn để nâng cấp bậc, và tiền lương cấp bậc còn chưa thực
sự tương xứng với sự cống hiến của cán bộ công chức. Vì vậy, Chính phủ lên sớm
thực hiện việc trả lương theo hiệu quả công việc, tiền lương cần phải bảo đảm tái sản
xuất sức lao động cho cán bộ công chức.
Cải cách tiền lương cần làm rõ mối quan hệ giữa chính sách tiền lương với các
chính sách trợ cấp, phúc lợi khác như: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, giáo dục và

15


phần tiền nhà ở, điện, nước, phương tiện đi lại, trang bị đồ dùng cho chuyên gia cao
cấp và cán bộ lãnh đạo trong cơ cấu tiền lương. Để có thể trả lương công bằng, xứng
đáng cho mọi cán bộ công chức. Hạn chế hiện tượng chảy máu chất xám đang diễn ra
khá phổ biến ở khu vực công hiện nay.


Tóm lại, việc thực hiện cải cách tiền lương cho cán bộ công chức, đặc

biệt áp dụng hệ thống trả lương dựa trên năng lực và hiệu quả làm việc của cán bộ
công chức, hay theo vị trí công việc là một việc rất khó và chưa có tiền lệ ở Việt Nam.
Tuy nhiên, để đáp ứng được các yêu cầu của thực tế đặt ra thì Việt Nam cần phải sớm
thực hiện cải cách để tạo nên những thay đổi căn bản và đột phá về chính sách tiền
lương ở khu vực công.

KẾT LUẬN
Chính sách trả lương của cán bộ công chức là vấn đề rất quan trọng đối với một
quốc gia. Nó ảnh hưởng đến bản thân cán bộ công chức và gia đình họ, ảnh hưởng tới
các hoạt động của tổ chức công, ảnh hưởng trực tiếp tới ngân sách nhà nước. Vì vậy,
16


mỗi quốc gia nên đưa ra chính sách tiền lương phù hợp, xứng đáng với cán bộ công
chức, và trong khả năng chi trả của ngân sách nhà nước.
Qua bài tiểu luận, em đã phân tích được chính sách trả lương khu vực công của
Vương quốc Bỉ. Bỉ là một quốc gia rất phát triển, và có chính sách trả lương cho công
chức rất hợp lý, và phù hợp với nền kinh tế chính trị của Bỉ. Từ đó em cũng đưa ra
một số những khuyến nghị và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc thực hiện

cải cách chính sách trả lương ở khu vực công. Giúp Việt Nam thực hiện cải cách có
hiệu quả hơn.
Do kiến thức và thời gian có hạn nên bài tiểu luận của em không tránh khỏi
được những thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý từ phía thầy cô, để bài tiểu
luận của em tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn !

17



×