Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

THỰC TRẠNG NGÀNH PHÂN BÓN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (785.63 KB, 18 trang )

Nguồn TH 11.2018

THỰC TRẠNG VỀ NGÀNH PHÂN BÓN
I.

TỔNG QUAN VỀ NGÀNH PHÂN BÓN VÔ CƠ
1. Thực trạng về ngành phân bón vô cơ trên thế giới
Ngành phân bón vô cơ thế giới đã bước vào giai đoạn bão hòa, tốc độ tăng trưởng

khoảng 2,3%/năm trong giai đoạn 2000-2010, và được IFA dự báo giảm xuống
1,5%/năm đến năm 2020.
Năm 2017, cả thế giới tiêu thụ khoảng 186 triệu tấn phân bón tính theo khối lượng
chất dinh dưỡng, tăng 2,4% so với năm 2016. Tổng nhu cầu phân bón thế giới đến năm
2021/2022 được IFA dự báo là sẽ duy trì ở mức dưới 200 triệu tấn/năm. Khu vực Châu Á
và Châu Mỹ là những khu vực tiêu thụ phân bón nhiều nhất trên thế giới, chiếm hơn
75%, trong khi đó Trung Quốc và một số nước xuất khẩu phân kali ở khu vực Bắc Mỹ và
Đông Âu chi phối thương mại phân bón toàn cầu.
Trung Quốc đang giữ vị thế số 1 thế giới về sản xuất, tiêu thụ và xuất khẩu phân bón.
Công suất sản xuất urea tại Trung Quốc tăng dần từ năm 2010 đến năm 2017, năm 2010
và năm 2011 công suất 66 triệu tấn, năm 2011 công suất 71 triệu tấn, năm 2013 công suất
81 triệu tấn, công suất các năm 2014, 2016 và 2017 lần lượt là 83 triệu, 86 triệu và 80
triệu tấn. Công suất năm 2018 dự kiến là 74 triệu tấn và năm 2019 ở mức 68 triệu tấn,
công suất các năm 2018 và 2019 giảm dần do nhu cầu urea của thị trường nội địa ở mức
60 triệu tấn/năm, việc mất cân đối giữa công suất và nhu cầu là một vấn đề lớn của Trung
Quốc. Năm 2016, Trung Quốc đã sản xuất 67,5 triệu tấn urea, 5,4 triệu tấn MAP và 7,5
triệu tấn DAP. Năm 2015 và 2016, Trung Quốc xuất khẩu một lượng lớn urea, lần lượt là
13,6 và 13,7 triệu tấn, năm 2016 còn 9,8 triệu tấn và năm 2017 là 4,7 triệu tấn. Ngoài
urea, năm 2016 Trung Quốc xuất khẩu 1,8 triệu tấn MAP và 5,6 triệu tấn DAP, thị trường
xuất khẩu lớn nhất là Ấn Độ, lý do lượng urea xuất khẩu giảm dần vì giá trong nước cao
hơn giá xuất khẩu.


1


Nguồn TH 11.2018
Hiện nay thị trường phân bón thế giới đang trong tình trạng cung vượt cầu, sản lượng
dư thừa này được dự báo sẽ tiếp tục tăng ít nhất đến cuối năm 2018 khi các dự án đang
được xây dựng đã đi vào vận hành.
Dự báo đến năm 2021: Theo IFA, nhu cầu phân bón toàn cầu sẽ không vượt quá 200
triệu tấn/năm. Đạm vẫn là loại phân bón được tiêu thụ nhiều nhất nhưng tốc độ tăng
trưởng sẽ thấp hơn lân và kali do những tiến bộ trong kỹ thuật canh tác, sử dụng cân đối
tỷ lệ các loại phân bón. Tính theo khối lượng chất dinh dưỡng, đến năm 2021, lượng tiêu
thụ đạm, lân và kali sẽ đạt lần lượt 117, 45 và 37 triệu tấn, tương ứng với tốc độ tăng
trưởng hàng năm lần lượt là 1,7%, 2,3% và 3,6%. Ở mức độ khu vực, Châu Phi sẽ có tốc
độ tăng trưởng nhanh nhất với 3,6%/năm trong khi Nam Á và Châu Mỹ sẽ tăng trưởng
2,9%/năm. Trong 4 năm tới, khu vực Nam Á sẽ đóng góp 33% vào nhu cầu phân bón
tăng thêm toàn cầu, trong khi Đông Á và Nam Mỹ mỗi khu vực sẽ đóng góp khoảng
22%. Bên cạnh đó, Fertecon cũng dự báo Châu Phi sẽ nổi lên trở thành khu vực có tốc độ
tăng trưởng sản xuất phân Urea lớn nhất thế giới với tốc độ CAGR khoảng 9,5% trong
giai đoạn 2015-2020.
2. Thực trạng về ngành phân bón vô cơ ở Việt Nam
 Tình hình sản xuất phân bón trong nước
Mỗi năm Việt Nam tiêu thụ khoảng 11 triệu tấn phân bón. Trong đó nhu cầu tiêu thụ
phân bón vô cơ chiếm khoảng 90%, nhu cầu tiêu thụ phân hữu cơ và một số chủng loại
khác chỉ vào khoảng 10%. Nhu cầu tiêu thụ cũng có sự dao động trong khoảng mức 1,4
triệu tấn lân, 2,3 triệu tấn urê, gần 4 triệu tấn NPK, các loại phân còn lại như DAP, kali,
SA dao động ở mức 850-950 tấn...
Ngành sản xuất phân bón của Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Từ
chỗ phải nhập gần 60%, Việt Nam đã chủ động được nguồn cung urê, đáp ứng nhu cầu
sản xuất nông nghiệp, phát triển được những loại phân bón mới như DAP, kali,..


2


Nguồn TH 11.2018
Theo Cục Bảo vệ thực vật (Bộ NN-PTNT) cho biết, qua rà soát trong 6 tháng đầu năm
2018, cả nước hiện có 735 cơ sở sản xuất phân bón đủ điều kiện và cấp phép với tổng
công suất 29,5 triệu tấn/năm.
Khi cân đối cung cầu, năng lực sản xuất của các cơ sở sản xuất phân bón trong nước
hiện tại đã dư thừa gấp 3 lần so với nhu cầu sử dụng thực tế. Năm 2017, Việt Nam chỉ sử
dụng khoảng 11,5 triệu tấn phân bón, trong đó phân bón vô cơ chiếm 90,5% với 10,5
triệu tấn và phân bón hữu cơ, sinh học chiếm 9,5% với khoảng 1 triệu tấn.
6 tháng đầu năm 2018, tình hình sản xuất phân bón ở Việt Nam có khá nhiều biến
động do ảnh hưởng của 4 yếu tố cơ bản sau: giá nguyên liệu đầu vào, nhu cầu tiêu thụ
trong nước, năng lực sản xuất phân bón của các doanh nghiệp và các chính sách về thuế.
Theo số liệu của Bộ Công Thương, tổng 6 tháng đầu năm 2018, trên địa bàn cả nước
đã sản xuất được nhiều nhất là phân NPK với 1.487,9 nghìn tấn, đứng thứ hai là phân
đạm Ure với 1.041,1 nghìn tấn, tiếp theo là phân Lân và phân DAP với sản lượng lần lượt
là 738,4 nghìn tấn và 261,8 nghìn tấn. So với cùng kỳ năm 2017, sản lượng phân đạm urê
giảm 5,4%; phân NPK tăng 2%; phân Lân (Tập đoàn Hóa chất Việt Nam) tăng 5,8%;
phân DAP (Tập đoàn Hóa chất Việt Nam) tăng 42,8%.
Nguyên nhân dẫn đến sản lượng phân đạm Ure 6 tháng đầu năm 2018 giảm so với
cùng kỳ năm 2017 là do:
Giá khí dùng để sản xuất phân đạm Ure tăng, sự gián đoạn sản xuất của 3 nhà máy
sản xuất Ure là: nhà máy Đạm Ninh Bình, Đạm Hà Bắc và Đạm Cà Mau. Bên cạnh đó là
nhu cầu tiêu thụ phân Ure trong 6 tháng đầu năm 2018 có xu hướng giảm, do sự xuống
giá các mặt hàng cây công nghiệp (tiêu, cà phê, cao su…) chủ yếu tại khu vực Miền
Trung – Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, nên nhu cầu chăm bón cho các loại cây này đã
sụt giảm. Sự suy giảm về sản lượng phân đạm Ure đã đẩy giá Ure trong nước tăng trong
nửa đầu năm 2018.
Một nguyên nhân có ảnh hưởng rất lớn đến tình hình sản xuất phân bón của các doanh

nghiệp là phân bón hiện đang chịu mức thuế VAT là 0%. Mục đích của việc giảm thuế
3


Nguồn TH 11.2018
VAT về 0% là tạo điều kiện cho người nông dân được mua phân bón giá rẻ, bên cạnh đó,
các doanh nghiệp nhập khẩu phân bón hoặc những đơn vị sản xuất NPK chuyên dùng
nguyên liệu nhập khẩu cũng được hưởng lợi từ chính sách này do không chịu thuế VAT.
Tuy nhiên, mức thuế VAT về 0% lại gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất
phân bón sử dụng nguyên liệu trong nước, bởi các doanh nghiệp này không được kê khai,
khấu trừ và hoàn thuế GTGT đầu vào, phải tính vào chi phí sản phẩm, đẩy giá thành tăng
và lợi nhuận giảm, bất lợi trong cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu cùng loại. Điều này
dẫn đến sản lượng sản xuất phân bón của một số doanh nghiệp có xu hướng giảm trong
nửa đầu năm 2018.
Trái ngược với sự suy giảm sản lượng phân Ure, sản lượng sản xuất phân DAP tăng
đến 42,8% so với nửa đầu năm 2017. Nguyên nhân chủ yếu là do việc áp dụng thuế tự vệ
đối với mặt hàng phân bón DAP/MAP kể từ tháng 3/2018 với mức thuế tự vệ 1,128 triệu
đồng/tấn đã khiến lượng nhập khẩu mặt hàng này giảm, đây là động lực thúc đẩy năng
lực sản xuất của các Công ty trong nước như: DAP Đình Vũ, DAP Lào Cai, …Vì vậy,
tính đến cuối tháng 6/2018, lượng hàng tồn kho của phân bón DAP đạt khoảng 260 nghìn
tấn, tăng 26% so với cùng thời điểm năm 2017. Bên cạnh đó, nhà máy sản xuất NPK của
Tổng Công ty Phân bón và Hóa chất Dầu khí (DPM) bắt đầu đi vào hoạt động đã khiến
sản lượng sản xuất phân NPK nửa đầu năm 2018 tăng 2% so với cùng kỳ năm 2017
 Tình hình nhập khẩu phân vô cơ
Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan, tháng 7/2018 nhập khẩu phân bón đã
giảm cả lượng và trị giá so với tháng 6/2018, giảm lần lượt 32,1% và 33,7%. Đây là
tháng giảm đầu tiên sau khi tăng 4 tháng liên tiếp.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2018, Việt Nam nhập khẩu 2.252.679 tấn phân bón các
loại với trị giá đạt 643,38 triệu USD. So với cùng kỳ năm 2017, nhập khẩu phân bón
giảm 6,2% về lượng và giảm 0,8% về trị giá. Trong đó, nhập khẩu phân DAP giảm đến

31,4% về lượng và 21,2% về trị giá do chịu ảnh hưởng của thuế tự vệ (1,128 triệu đồng/
1 tấn) áp dụng cho mặt hàng này từ tháng 3/2018. Bên cạnh sự suy giảm về lượng và trị
giá nhập khẩu một số mặt hàng như: NPK, DAP, SA, Kali thì nhập khẩu Ure tăng 21,9%
4


Nguồn TH 11.2018
về lượng và 30,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2017. Nguyên nhân của nhập khẩu Ure
tăng là do sản lượng sản xuất mặt hàng này giảm trong 6 tháng đầu năm 2018, do đó
lượng Ure bị thiếu hụt được bù đắp bằng lượng Ure nhập khẩu.
Tình hình nhập khẩu một số dòng phân bón 6 tháng đầu năm 2018 và tỷ lệ
tăng/giảm so với cùng kỳ năm 2017

Trung Quốc vẫn là thị trường cung cấp chủ lực phân bón cho Việt Nam trong 7 tháng
đầu năm nay, chiếm 32,6% thị phần, tuy nhiên tốc độ nhập khẩu từ thị trường này sụt
giảm khá mạnh, giảm 27,78% về lượng và 27,94% trị giá, tương ứng với 814,6 nghìn tấn
và 206,2 triệu USD. Thị trường Nga đứng thứ hai, chiếm 14,8% giảm 14,41% về lượng
và 10,43% trị giá, chỉ với 369,7 nghìn tấn và 116,1 triệu USD.
Ngoài ra, Việt Nam nhập khẩu phân bón từ các nước Đông Nam Á chiếm 13,9%; các
nước EU chiếm 2,9%.
Nhìn chung, 7 tháng đầu năm 2018 lượng phân bón nhập khẩu từ các thị trường đều
tăng trưởng chiếm 57,8%. Đặc biệt, thay vì nhập nhiều từ các thị trường truyền thống như
Trung Quốc, Nga, Belarus thì nay tăng mạnh ở các thị trường như Malaysia, Israel tăng
lần lượt 53,84%; 41,67% về lượng và 75,81%; 47,7% về trị giá so với cùng kỳ.

5


Nguồn TH 11.2018


Đáng chú ý, nhập khẩu phân bón từ hai thị trường Mỹ và Ấn Độ có giá nhập bình
quân cao nhất, cụ thể 1.948,01 USD/tấn đối với Ấn Độ và Mỹ đạt 1.492,51 USD/tấn

Thị trường chủ lực nhập khẩu phân bón 7 tháng đầu năm 2018 (TH số liệu từ TCHQ)
 Tình hình xuất khẩu phân vô cơ
Việt Nam xuất khẩu 250.584 tấn phân bón các loại sang thị trường quốc tế với kim
ngạch xuất khẩu đạt 81.404 nghìn USD. Trong đó, lượng phân bón xuất khẩu cao nhất là
vào tháng 5 với 98.133 tấn, kim ngạch đạt 31.814 nghìn USD. So với quý I/2018, xuất
khẩu phân bón tăng 10,11% về lượng và tăng 12,58% về trị giá. Xuất khẩu phân bón tăng
do nhu cầu tiêu thụ mặt hàng này của các thị trường có xu hướng tăng. Ngoài ra, tình
hình sản xuất phân bón trong nước đang chứng kiến sự phục hồi sản xuất của hai nhà
máy sản xuất phân DAP là DAP Đình Vũ và DAP Lào Cai, bên cạnh đó là sự đi vào sản
xuất của nhà máyNPK Phú Mỹ (thuộc Tổng Công ty Phân bón và Hóa chất Dầu khí ) với
công suất 250,000 tấn/năm đã khiến sản lượng 2 mặt hàng DAP và NPK tăng.
6


Nguồn TH 11.2018
Campuchia tiếp tục là thị trường được các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu nhiều
phân bón nhất trong quý II/2018, chiếm 56,31% về lượng với kim ngạch đạt 47.184
nghìn USD. Việt Nam và Campuchia có rất nhiều điều kiện thuận lợi để hợp tác phát
triển kinh tế. Lợi thế về đường biên giới chung dài1.137 km, trải dài suốt 10 tỉnh của Việt
Nam và 9 tỉnh của Campuchia đã khiến việc thông thương qua các cửa khẩu giữa Việt
Nam và Campuchia có nhiều thuận tiện. Những năm gần đây, Chính phủ Campuchia
đang có chính sách ưu tiên phát triển nông nghiệp nhằm bảo đảm an ninh lương thực,
giảm nghèo cho người dân và từng bước tăng sản lượng xuất khẩu gạo. Vì vậy, nhu cầu
sử dụng phân bón của quốc gia này rất lớn. Hàng năm, Campuchia nhập khẩu khoảng
700.000 tấn phân bón, phần lớn từ các nước láng giềng, trong đó Việt Nam là thị trường
nhập khẩu truyền thống của quốc gia này.
Hiện nay, sản phẩm phân bón Đầu Trâu của Công ty Cổ Phần Phân bón Bình Điền đã

đồng hành với bà con nông dân Campuchia hơn 15 năm, có độ phủ sóng rộng và duy trì
lượng tiêu thụ ổn định tại 26/26 tỉnh, thành của quốc gia này, đem về cho Việt Nam trên
50 triệu USD mỗi năm. Bên cạnh đó, phân bón đạm Cà Mau cũng được sử dụng rất nhiều
trong ngành nông nghiệp của Campuchia. Hiện nguồn ure nhập khẩu từ Việt Nam đang
đứng vị trí số 1 tại Campuchia với tỷ lệ khoảng 47%, trong đó Đạm Cà Mau chiếm 42%.
Kế đến là Hàn Quốc, Singapore, Lào, Malaysia,..
Tình hình xuất khẩu phân bón sang một số nước trên thế giới 6 tháng đầu
năm 2018

7


Nguồn TH 11.2018
Dự báo, thời gian tới nhập siêu phân bón vẫn trong xu hướng tăng nhưng tốc độ sẽ
giảm dần, khi các giải pháp siết chặt nguồn cung thông qua kiểm soát các chỉ tiêu chất
lượng, chỉ những sản phẩm phân bón đảm bảo chất lượng và có đặc điểm vượt trội mới
được cấp phép đưa ra thị trường.
Một số doanh nghiệp xuất khẩu phân bón lớn nhất cả nước

8


Nguồn TH 11.2018

 Xuất khẩu phân NPK
Việt Nam xuất khẩu 66.953 tấn phân NPK, trị giá đạt 25.432 nghìn USD sang các
quốc gia và vùng lãnh thổ. So với quý I/2018, lượng NPK xuất khẩu tăng 21,15%.
Nguyên nhân là do sản lượng NPK sản xuất trong nước tăng bởi sự tham gia sản xuất của
nhà máy NPK Phú Mỹ thuộcTổng Công ty Phân bón và Hóa chất Dầu khí. Bên cạnh đó,
nhu cầu tiêu thụ phân NPK của các nước đang có xu hướng tăng, đặc biệt là Campuchiathị trường tiêu thụ phân NPK lớn nhất của Việt Nam khi hiện nay, chính phủ nước này

đang có nhiều chính sách để phát triển nông nghiệp, Campuchia và Hàn Quốc là 2 quốc
gia được các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh phân bón Việt Nam xuất khẩu nhiều
phân NPK nhất với tỷ trọng về lượng lần lượt là 49,14% và 15,80%.
Thị trường Việt Nam xuất khẩu phân NPK

9


Nguồn TH 11.2018
Công ty CP Phân Bón Bình Điền (BFC) đã chiếm vị trí dẫn đầu và trở thành doanh
nghiệp xuất khẩu nhiều phân NPK nhất với 33,63% tỷ trọng xuất khẩu về lượng, trị giá
đạt 9.790 nghìn USD. Điều này hoàn toàn dễ hiểu bởi hiện nay, Công ty CP Phân Bón
Bình Điền có 5 nhà máy ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam với tổng công suất thiết kế lên đến
950.000 nghìn tấn/năm, đứng đầu lĩnh vực sản xuất và cung ứng phân phức hợp NPK tại
Việt Nam. Các sản phẩm của doanh nghiệp rất đa dạng với trên 100 mặt hàng phân bón
các loại như: NPK hiệu Đầu Trâu Agrotain, phân NPK chuyên dùng, phân NPK TE cao
cấp, phân bón NPK thông dụng, phân khoáng hữu cơ và phân bón lá,... ngày càng có mức
độ phủ sóng rộng rãi tại Campuchia- thị trường tiêu thụ phân bón lớn nhất của Việt
Nam. Tại thị trường Campuchia, BFC hàng năm tiêu thụ trên 80.000 tấn phân bón các
loại, đóng góp khoảng 12% vào tổng doanh thu cả doanh nghiệp. Bên cạnh đó, thị trường
Lào và Myanma cũng đang được Công ty phát triển hệ thống phân phối. Đây là những thị
trường tiềm năng trong tương lai, cạnh tranh trực tiếp với các đối thủ lớn như
Thái Lan, Trung Quốc.
Những công ty xuất khẩu phân NPK lớn nhất cả nước (tính đến tháng 6/2018)

 Xuất khẩu phân Ure
Việt Nam đã xuất khẩu 44.231 tấn phân Ure với kim ngạch 13.228 nghìn USD. Mặc
dù sản lượng phân Ure trong nước giảm so với giai đoạn trước bởi sự gián đoạn sản xuất
cục bộ của một số nhà máy như: đạm Cà Mau, đạm Ninh Bình, đạm Hà Bắc và nguồn
10



Nguồn TH 11.2018
nguyên liệu để sản xuất phân Ure gặp khó khăn bởi giá khí tăng cao. Campuchia tiếp tục
là thị trường tiêu thụ phân Ure chủ lực của nước ta trong quý II/2018, chiếm đến 95,20%
tỷ trọng xuất khẩu mặt hàng này của cả nước, kim ngạch đạt 12.571 nghìn USD. Bên
cạnh đó, Lào và Singapore cũng nằm trong top những quốc gia được Việt Nam xuất khẩu
nhiều phân Ure trong quý II/2018 với tỷ trọng về lượng lần lượt là: 1,74% và 1,13%.
Thị trường Việt Nam xuất khẩu phân Ure

Những công ty xuất khẩu phân Ure lớn nhất cả nước (tính đến tháng 6/2018)

 Xuất khẩu phân DAP
Việt Nam đã xuất khẩu 68.941 tấn phân DAP sang các quốc gia và vùng lãnh thổ trên
thế giới, kim ngạch xuất khẩu đạt 27.883 nghìn USD. Xuất khẩu phân bón DAP tăng đến
68,3% về lượng so với quý I/2018. Nguyên nhân chủ yếu là do sản lượng phân DAP
trong nước tăng bởi các nhà máy: DAP Lào Cai và DAP Đình Vũ đang đẩy mạnh sản
xuất, bên cạnh đó là nhu cầu tiêu thụ lọai phân bón này của một số thị trường tăng cao,
như: Campuchia, Hàn Quốc, Singapore,...Chiếm 57,08% tỷ trọng về lượng xuất khẩu của
cả nước, kim ngạch đạt 16.522 nghìn USD, Campuchia trở thành thị trường tiêu thụ nhiều
phân DAP nhất của nước ta trong quý II/2018. Bên cạnh đó là các thị trường truyền thống
11


Nguồn TH 11.2018
như: Hàn Quốc và Singapore đứng vị trí thứ 2 và 3 với tỷ trọng xuất khẩu về lượng lần
lượt là 20,58% và 20,32%.
Thị trường Việt Nam xuất khẩu phân DAP

Những công ty xuất khẩu phân DAP lớn nhất cả nước (tính đến tháng 6/2018)


12


Nguồn TH 11.2018
II. TỔNG QUAN VỀ NGÀNH PHÂN BÓN HỮU CƠ
1. Thực trạng về ngành phân bón hữu cơ ở Việt Nam
Phân bón hữu cơ bao gồm hai nhóm: phân bón hữu cơ truyền thống và phân bón hữu
cơ công nghiệp.
Phân bón hữu cơ truyền thống là loại phân bón có nguồn gốc từ chất thải của động vật
hoặc phế phụ phẩm trồng trọt, chăn nuôi, chế biến nông lâm thủy sản, phân xanh, rác thải
hữu cơ, các loại than bùn được chế biến theo phương pháp ủ truyền thống. Trong nhóm
này có thể chia thành 5 nhóm nhỏ là: phân chuồng, phân rác, than bùn, phân xanh và
phân hữu cơ khác.
Phân bón hữu cơ công nghiệp là loại phân bón được chế biến từ các nguồn hữu cơ
khác nhau để tạo thành phân bón tốt hơn so với nguyên liệu thô ban đầu. Hiện nay, phân
bón hữu cơ công nghiệp chia thành các loại sau: phân hữu cơ, phân hữu cơ khoáng, phân
hữu cơ sinh học và phân hữu cơ vi sinh.
Thực tế, thị trường sản xuất PBHC là thị trường khổng lồ, có rất nhiều tiềm năng. Đến
thời điểm này, Việt Nam đã có 43.000 ha sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Nhiều bà con ứng
dụng bón phân hữu cơ trong sản xuất. Trong tương lai, Việt Nam cần hơn 200 triệu tấn
phân bón hữu cơ. Lựa chọn, nghiên cứu và chuyển giao công nghệ sản xuất PBHC tiên
tiến phù hợp điều kiện thực tế về nhân lực, trang thiết bị và nguyên liệu sẵn có của Việt
Nam. Tăng tỷ lệ sản phẩm PBHC so tổng số sản phẩm phân bón từ 5% hiện nay lên 10%
trong thời gian tới.
Tính đến tháng 12/2017, số lượng sản phẩm phân bón hữu cơ đang được sản xuất,
kinh doanh và sử dụng là 713 sản phẩm (hữu cơ:32, hữu cơ khoáng: 268, hữu cơ sinh
học: 169, hữu cơ vi sinh: 239, hữu cơ cải tạo đất: 5), chiếm 5% so với tổng số sản phẩm
phân bón (14.318 sản phẩm), còn lại 93,7% là các phân bón vô cơ (13.423 sản phẩm) và
1,3% là phân bón sinh học (182 sản phẩm). Như vậy số lượng sản phẩm phân bón đang

được sản xuất, kinh doanh, sử dụng trong nước thuộc loại phân bón vô cơ đã gấp hơn 19

13


Nguồn TH 11.2018
lần số lượng sản phẩm phân bón hữu cơ (Theo Báo cáo tại Hội nghị “Phát triển phân bón
hữu cơ” ngày 09/03/2018).
 Tình hình sản xuất phân bón hữu cơ
Hiện nay, cả nước có 180 doanh nghiệp (DN) sản xuất PBHC, chiếm 24,5% trên tổng
số 735 DN sản xuất phân bón đã được Bộ NN-PTNT và Bộ Công thương cấp phép, với
quy mô công suất lớn nhỏ khác nhau (từ 20 nghìn đến 500 nghìn tấn/năm).
Tổng công suất của các cơ sở sản xuất phân bón hữu cơ là 2,5 triệu tấn/năm, chiếm
8,5% so với tổng công suất các cơ sở sản xuất phân bón trong nước (29,5 triệu tấn/năm)
và bằng gần 1/10 so với công suất sản xuất phân bón vô cơ (26,7 triệu tấn/năm).
Nhìn chung, các cơ sở sản xuất phân bón hữu cơ công nghiệp trong nước hiện nay đầu
tư trang bị công nghệ sản xuất đơn giản hơn, mức đầu tư thấp hơn so với các công nghệ
của các cơ sở sản xuất phân bón vô cơ với công suất tương đương.
Dây chuyền máy thiết bị sản xuất phân hữu cơ cơ bản bao gồm máy xúc; máy đảo
trộn; máy nghiền, sàng; hệ thống sấy; hệ thống bơm phụ gia, phun vi sinh; hệ thống cân
và đóng gói thành phẩm. Phần lớn dây chuyền máy thiết bị được tạo ra trong nước. Một
số cơ sở sản xuất phân hữu cơ từ rác thải, chất thải chăn nuôi, phụ phẩm cây trồng đã đầu
tư lắp đặt các dây chuyền thiết bị tiên tiến từ các nước phát triển Đức, Bỉ, Hà Lan, Nhật
Bản .v.v như nhà máy sản xuất phân bón hữu cơ của Công ty TNHH Nông nghiệp công
nghệ cao Dabaco, Công ty CP Môi trường và Công trình đô thị Hà Tĩnh, Công ty Cổ
phần Nước – Môi trường Bình Dương v.v.
Các công nghệ sản xuất tiên tiến cho phép rút ngắn thời gian ủ/xử lý nguyên liệu đầu
vào qua việc điều chỉnh chính xác nhiệt độ, độ ẩm, pH trong các thiết bị xử lý kết hợp sử
dụng các chủng vi sinh vật chức năng tạo ra các sản phẩm phân bón hữu cơ chất lượng
cao. Ngoài ra việc cơ giới hóa, tự động hóa các quá trình thu gom, xử lý, cung cấp,

nghiền, sàng gnuyên liệu; quá trình sấy, tạo hạt, đóng bao trong các dây chuyền sản xuất
hiện đại cho phép nâng cao năng suất lao động, công suất sản xuất, giảm giá thành
sản phẩm.
14


Nguồn TH 11.2018
Các nguồn nguyên liệu để sản xuất phân bón hữu cơ ở Việt Nam hiện nay rất đa dạng,
phong phú bao gồm chất thải từ chăn nuôi, thủy sản, chế biến nông sản, phụ phẩm cây
trồng, than bùn, rác thải sinh hoạt và các chế phẩm vi sinh, các nguyên tố khoáng, chất
sinh học bổ sung để nâng cao chất lượng, hiệu quả sử dụng phân bón chủ yếu là từ: Chất
thải chăn nuôi, Phụ phẩm trồng trọt, Chất thải từ công nghiệp chế biến nông sản thực vật,
động vật; Than bùn và các nguồn nguyên liệu tự nhiên, Nguồn rác thải sinh hoạt,..
Như vậy có thể thấy, ở nước ta có điều kiện rất thuận lợi để sản xuất phân bón hữu cơ,
đóng vai trò rất quan trọng trong việc duy trì, bảo vệ độ phì nhiêu cũng như sức sản xuất
của đất, góp phần quan trọng cho việc phát triển nông nghiệp ổn định và theo hướng canh
tác hữu cơ. Ngoài ra sử dụng phân hữu cơ cũng góp phần giảm thiểu phát thải khí nhà
kính. Tuy nhiên có sự mất cân đối khá lớn giửa năng lực sản xuất và số lượng sản phẩm
phân hữu cơ so với phân bón vô cơ (chỉ bằng 1/10 về công suất và 1/19 số lượng sản
phẩm). Do vậy cần phải có giải pháp kịp thời để thúc đẩy phát triển sản xuất và sử dụng
phân bón hữu cơ trong giai đoạn trước mắt và lâu dài.
 Tình hình xuất khẩu phân hữu cơ
Việt Nam xuất khẩu 12.676 tấn phân hữu cơ, kim ngạch đạt 2.224 nghìn USD sang
các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Trong đó, Đài Loan là thị trường xuất khẩu
phân hữu cơ chủ lực của các doanh nghiệp phân bón Việt Nam, chiếm 34,70% về lượng,
trị giá đạt 736 nghìn USD. Tiếp theo là Hàn Quốc và Trung Quốc chiếm tỷ trọng lần lượt
là 15,75% và 12,26%.
Thị trường Việt Nam xuất khẩu phân hữu cơ

15



Nguồn TH 11.2018
Trong lĩnh vực xuất khẩu phân hữu cơ, Công ty CP hữu hạn Vedan Việt Nam là
doanh nghiệp chiếm thế áp đảo so với các doanh nghiệp còn lại. Tỷ trọng xuất khẩu phân
hữu cơ của Công ty này chiếm đến 86,25% lượng xuất khẩu của cả nước, kim ngạch đạt
1.904 nghìn USD. Các loại phân hữu cơ dạng viên và phân bón khoáng của doanh nghiệp
được xuất khẩu ra khoảng 15 thị trường quốc tế, trong đó có Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan,...
Những công ty xuất khẩu phân hữu cơ lớn nhất cả nước (tính đến tháng 6/2018)

 Tình hình nhập khẩu phân hữu cơ
Việt Nam đã nhập khẩu 44.897 tấn phân bón hữu cơ, trị giá 9.852 nghìn USD. Các thị
trường nhập khẩu chính là: Nhật Bản, Hà Lan, Bỉ chiếm tỷ trọng về lượng lần lượt là:
37,90%; 23,58% và 18,77%.
Công ty TNHH Thương Mại Vĩnh Thạnh dẫn đầu top 6 doanh nghiệp nhập khẩu phân
hữu cơ với 16,51% tỷ trọng về lượng, trị giá 2,357 nghìn USD. Được thành lập từ năm
1997, sau hơn 20 xây dựng và phát triển, Công ty TNHH Thương Mại Vĩnh Thạnh đã tạo
dựng được uy tín trên thị trường. Các sản phẩm của Công ty đều là các sản phẩm nhập
khẩu chính hãng từ các quốc gia phát triển trên thế giới như: Nhật Bản, Hà Lan, italya,...,
vì thế các sản phẩm phân bón của Công ty luôn đạt chất lượng cao và được nhiều người
tin dùng. Với hệ thống trên 500 đại lý trên toàn quốc và đội ngũ nhân viên dồi dào kinh
nghiệm, Vĩnh Thạnh luôn cung cấp sản phẩm chất lượng nhất đến tận tay bà con nông
16


Nguồn TH 11.2018
dân. Bên cạnh đó, Công ty TNHH Nagu Việt Nam và Công ty CP đầu tư phân bón Toàn
Cầu cũng là những doanh nghiệp nhập khẩu nhiều phân hữu cơ nhất.
Những công ty nhập khẩu phân hữu cơ lớn nhất cả nước (tính đến tháng 6/2018)


17


Nguồn TH 11.2018

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. />2. />=2ahUKEwih6fzP9NXeAhVMF4gKHYmHCFIQFjABegQIBxAC&url=http%3A%2F%2Fwww.
sbsc.com.vn%2FHandlers%2FDownloadReport.ashx%3FReportID%3D1904&usg=AOvVaw1X
gF_btAFnAf5r4flB-Cml
3. />4. />5. />17_FPTS.pdf
6. />7. />8. />9. />10. />11. />12. />13. />14. />15. />
18



×