Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Phân tích thực trạng xuất nhập khẩu Việt Nam năm 2009 và triển vọng năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.52 KB, 40 trang )

Đề bài:
1. Phân tích thực trạng XNK VN năm 2009 và triên vọng năm 2010
2. Trình bày kết quả tác động của khủng hoảng tài chính quôc tế đến
KTTM VN năm 2009
Bài làm
Câu 1
Tình hình xuất - nhập khẩu Việt Nam năm 2009
Hai mươi năm qua, xuất - nhập khẩu đã trở thành động lực quan trọng
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần không nhỏ để duy trì tốc độ tăng trưởng
trung bình 7,3%/năm. Năm 2009, trong bối cảnh khủng hoảng tài chính - kinh
tế toàn cầu, nền kinh tế nước ta đang đứng trước nhiều khó khăn, trong đó có
nguy cơ đối mặt với sự suy giảm xuất - nhập khẩu. Để có thể vượt qua khủng
hoảng, điều thiết yếu là phải duy trì được mức thâm hụt thương mại thấp, giải
quyết công ăn việc làm cho người lao động, đặc biệt là khu vực sản xuất
chuyên xuất khẩu, đồng thời tìm cách khuyến khích sản xuất và tiêu dùng trong
nước.
Tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu tới hoạt động xuất - nhập khẩu và
tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
Khủng hoảng cho vay thế chấp dưới chuẩn lan rộng ở Mỹ kể từ giữa năm
2007 đã dẫn tới tình trạng suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay. Năm 2008, nền
kinh tế thế giới và trong nước có nhiều biến động vô cùng phức tạp. Giá dầu
thô, nhiều loại nguyên liệu, thực phẩm và các loại hàng hóa khác trên thị
trường thế giới tăng mạnh trong những tháng đầu năm khiến cho lạm phát xảy
ra tại hầu khắp các nước trên thế giới. Đến cuối năm, giá cả các loại hàng hóa
và nhiên liệu lại sụt giảm mạnh do tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu. Tác
động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng
trực tiếp tới hoạt động xuất - nhập khẩu của Việt Nam trong năm 2008.
Đặc biệt, khuynh hướng suy giảm kim ngạch xuất - nhập khẩu đã trở nên rõ nét
ngay từ đầu năm 2009, đặt ra vấn đề cấp bách cho Chính phủ trong điều hành
chính sách kinh tế vĩ mô nhằm bảo đảm tăng trưởng kinh tế và an sinh xã hội.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 1-


2009 ước tính đạt 3,8 tỉ USD, giảm 18,6% so với tháng 12-2008 và giảm
24,2% so với cùng kỳ năm trước. Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 1-2009
ước tính đạt 4,1 tỉ USD, giảm 27,6% so với tháng trước đó và giảm 44,8% so
với cùng kỳ năm 2008. Do tốc độ giảm của kim ngạch hàng hóa nhập khẩu
nhanh hơn tốc độ giảm của kim ngạch hàng hóa xuất khẩu nên mức nhập siêu
tháng 1-2009 đã giảm nhiều, ước tính 300 triệu USD, bằng 7,9% tổng kim
ngạch hàng hóa xuất khẩu, thấp hơn nhiều so với mức nhập siêu 2,4 tỉ USD của
cùng kỳ năm trước..
Phân tích cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam có thể nhận thấy,
trong năm 2008, sáu thị trường xuất khẩu chính là Mỹ, EU, ASEAN, Nhật Bản,
Trung Quốc và Ô-xtrây-li-a đã chiếm tới 80% tổng khối lượng hàng hóa xuất
khẩu. Bản thân nền kinh tế các nước ASEAN và Trung Quốc cũng phụ thuộc
rất lớn vào các nền kinh tế còn lại, nên suy thoái kinh tế của Mỹ, EU và Nhật
Bản sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới tình hình xuất khẩu của Việt Nam trong
năm 2009. Các mặt hàng chủ lực xuất khẩu vào thị trường Mỹ là giầy dép,
hàng dệt may và các sản phẩm về gỗ; vào EU là giầy dép, hàng dệt may và hải
sản; vào ASEAN là dầu thô và gạo; vào Nhật Bản và Ô-xtrây-li-a là dầu thô;
vào Trung Quốc là cao su, sẽ chịu nhiều ảnh hưởng không nhỏ.
Hàng nhập khẩu của Việt Nam cũng tập trung cao ở các thị trường chính như
ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, EU, Mỹ và ấn Độ. Các thị trường này chiếm
tới 66% tổng kim ngạch nhập khẩu. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là máy
móc thiết bị phụ tùng, ngoài ra còn nhập xăng dầu các loại, máy vi tính và linh
kiện, chất dẻo nguyên liệu từ các nước ASEAN; sắt thép và vải từ Trung Quốc;
sắt thép từ Nhật Bản. Trong thương mại nội vùng, năng lực sản xuất hàng xuất
khẩu của Việt Nam còn kém hơn rõ rệt so với các đối thủ cạnh tranh. So sánh
về quy mô, Việt Nam luôn ở trạng thái nhập siêu so với các nước ASEAN và
Trung Quốc. Hơn nữa, hàm lượng giá trị sản xuất gia tăng trong hàng hóa nhập
khẩu từ các nước ASEAN, Trung Quốc cao hơn hẳn so với hàng hóa chúng ta
xuất khẩu sang ASEAN và Trung Quốc. Hàng hóa nhập khẩu từ các nước
ASEAN và Trung Quốc chủ yếu là máy móc thiết bị và nguyên liệu đầu vào

cho sản xuất. Suy thoái kinh tế toàn cầu, kéo theo sụt giảm kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam sang các nước, vì vậy cũng làm giảm nhu cầu đầu vào phục
vụ xuất khẩu, vì vậy làm giảm nhu cầu nhập khẩu của Việt Nam.
Năm 2009 tình hình XNK của Việt Nam gặp nhiều khó khăn do khủng
hoảng kinh tế toàn cầu dẫn đến sự đình trệ sản xuất và hạn chế tiêu dùng ở
những nước vốn là thị trường xuất khẩu lớn ở Việt Nam như Mỹ, Nhật Bản…
Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2009 ước đạt khoảng 56.5 tỷ USD, giảm
9,9%so với năm 2008, nguyên nhân giảm này là do giá cả thế giới giảm , riêng
yếu tố giảm giá trong 9 tháng đầu năm làm kim ngạch xuất khẩu giảm trên 6 tỷ
USD, đây là một yếu tố nằm ngoài tầm kiểm soát của chúng ta.Khối lượng
hàng hóa xuất khẩu có sự tăng lên đáng kể giúp chúng ta giảm thiểu đáng kể
tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu, làm giảm tác động tiêu cực đến việc làm và
thu nhập của người lao động. Vấn đề lớn nhất tồn tại trong những năm qua là
việc xuất khẩu vẫn phụ thuộc vào các mặt hàng nông sản, lâm, thủy, hải sản.
Các mặt hàng công nghiệp vẫn mang tính chất gia công. Mức tăng XK chủ yếu
vẫn do các mặt hàng XK chủ lực tăng: hàng dệt may tăng 90 triệu USD, dầu
thô tăng 33 triệu USD…
Khu vực kinh tế trong nước đạt 26,730 tỷ USD trong năm 2009, giảm
5,1%so với năm 2008. Kim ngạch XK của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài đạt 2.793 tỷ USD trong tháng 12 và đạt 29,854 trong cả năm giảm
13,5%so với năm 2008. Dẫn đầu về kim ngạch XK của các mặt hàng chủ yếu
trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam năm 2009: dệt may 9,004tỷ USD, thủy
sản 4,207 tỷ USD, gạo 2,662tỷ USD, giầy dép 4,015 tỷ USD…Một trong
những điểm nổi bật của nền kinh tế năm 2009 là việc XK gạo đạt mức kỉ lục.
Dù vậy, giá trị xuất khẩu dầu thô đã giảm 40% so với năm 2008 và là mặt hàng
có mức giảm mạnh nhất về giá trị xuất khẩu. Chỉ có một số ít các mặt hàng
tăng giá trị xuất khẩu so với năm 2008 gồm: rau quả đạt 4,31 triệu USD,tăng
6,1%; chè đạt 178 triệu USD tăng 21,3%, hạt tiêu đạt 356 triệu USD tăng
14,3%.
Dù được đánh giá là một trong ít nền kinh tế phục hồi tốt nhất trong khu

vực nhưng dưới ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu, năm 2009 kim
ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam giảm sút khá sâu. Tuy nhiên do tốc độ
giảm kim ngạch xuất khẩu chậm hơn tốc độ giảm kim ngạch nhập khẩu nên
nhập siêu giảm xuống chỉ còn khoảng 11 tỷ USD thấp hơn 6 tỷ USD so với
năm 2008. Đây là tín hiệu tích cực của việc cải thiện cán cân thương mại. Như
vậy, xuất khẩu chủ yếu vẫn dựa vào khai thác lợi thế so sánh sẵn có mà chưa
xây dựng được các ngành công nghiệp có mối liên kết chặt chẽ với nhau để
hình thành chuỗi giá trị gia tăng xuất khẩu. Trong thời gian tới xuất khẩu của
Việt Nam sẽ chịu thách thức lớn hơn, nhất là trong bối cảnh tác động của
khủng hoảng những rào cản thương mại mới ngày càng nhiều với các hành vi
bảo hộ thương mại tinh vi tại các thị trường lớn sẽ dành cho các mặt hàng xuất
khẩu đặc biệt là các mặt hàng chủ lực của Việt Nam: khoáng sản, nông , lâm.
hải sản.
Nhập khẩu
Về nhập khẩu hàng hóa ,kim ngạch nhập khẩu qua các tháng 9,10,11,12
liên tục tăng so với cùng thời kỳ năm trước với tốc độ tăng trưởng lần lượt là
13,9%;14,5%;44,5%;15,7%. Về thị trường nhập khẩu có 8đối tác chủ yếu
chiếm hơn 85% tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2009: Trung Quốc 16,1 tỷ
USD tăng 2,7%so với năm 2008, ASEAN 13,4 tỷ USD giảm 31,3%, Mỹ 2,8tỷ
USD giảm 9,1%...
Như vậy, nhập siêu hàng hóa năm 2009 ước tính vẫn ở mức 12,2tỷ USD, giảm
32,1% so với năm 2008 và bằng 21,6%tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2009.
Tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2009 ước đạt 67,5 tỷ USD giảm 16,4%so với
năm2008 gồm khu vực kinh tế nhà nước đạt 43,9 tỷ USD giảm 16,8%, khu vực
có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 24,9 tỷ USD giảm 10,8% so với năm
2008, máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng chiếm 29,5% tổng kim ngạch nhập
khẩu, nguyên nhiên vật liệu chiếm 61,3%, hàng tiêu dùng chiếm 8,7%. Từ đó
phản ánh những khó khăn của sản xuất trong nước do suy giảm kinh tế.,so với
những năm gần đây cán cân thương mại đã có sự cải thiện đáng kể, thể hiện
quyết tâm của chính phủ trong việc kiềm chế nhập khẩu những mặt hàng không

cần thiết.
Nhập khẩu có 8 thị trường chiếm đến 85% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt
Nam trong năm 2009, đứng đầu là Trung Quốc với 16,1 tỉ đô la Mỹ, các nước
Đông Nam Á là 13,4 tỉ đô la Mỹ, Nhật Bản 7,3 tỉ đô la Mỹ, Hàn Quốc 6,7 tỉ đô
la Mỹ, Đài Loan 6,2 tỉ đô la Mỹ, châu Âu là 5,5 tỉ đô la Mỹ, Mỹ là 2,8 tỉ đô la
Mỹ, Úc là 1 tỉ đô la Mỹ.

10 ĐIỂM NỔI BẬT CỦA NGÀNH THỦY SẢN VIÊT NAM NĂM 2009
Năm 2009 là một năm “lận đận” của ngành thuỷ sản Việt Nam với
nhiều khó khăn về thị trường tiêu thụ, nguồn nguyên liệu trong nước và
các rào cản kĩ thuât .
Lần đầu tiên sau 13 năm, xuất khẩu thuỷ sản đạt tăng trưởng âm: Lần
đầu tiên kể từ năm 1997, xuất khẩu thuỷ sản trong các tháng liên tục đạt
tăng trưởng âm so với cùng kỳ năm ngoái do khủng hoảng tài chính làm
giảm nhu cầu tiêu thụ tại các thị trường chính và do nguồn nguyên liệu
trong nước sụt giảm mạnh. 11 tháng đầu năm, xuất khẩu thuỷ sản của cả
nước đạt 1.106.849 tấn, trị giá 3,877 tỷ USD, giảm lần lượt 3,3% và 7,4%
so với cùng kỳ năm ngoái. Ước tính kim ngạch XK thuỷ sản cả năm 2009
sẽ đạt trên 4,2 tỉ USD, giảm 6,6% so với năm 2008.
Khủng hoảng nguyên liệu chế biến thuỷ sản, khiến giá tăng: Năm 2009
là năm khủng hoảng thiếu nguyên liệu các loại thuỷ sản xuất khẩu chính
của Việt Nam. Sản lượng thuỷ sản nuôi như tôm và cá tra giảm do năm
2008 nông dân bị thất thu nên giảm diện tích nuôi vào năm 2009, bên
cạnh nguyên nhân chi phí đầu vào tăng mạnh như thức ăn nuôi tăng. Sản
lượng thuỷ sản khai thác cũng giảm mạnh do ảnh hưởng của các cơn bão
lớn, chi phí xăng dầu tăng và sự kiện Trung Quốc cấm biển cũng ảnh
hưởng đáng kể.
Nga nhập khẩu thuỷ sản Việt Nam trở lại: Sau khi xem xét các biện
pháp Việt Nam đã áp dụng trong lĩnh vực đảm bảo CL và ATTS, các sản
phẩm cá và hải sản xuất khẩu vào Liên bang Nga, VPSS đã cho phép

nhập khẩu các lô hàng cá và hải sản của 30 doanh nghiệp Việt Nam. Việc
hạn chế số lượng doanh nghiệp được phép xuất khẩu là nguyên nhân
chính khiến xuất khẩu vào thị trường này giảm mạnh so với cùng kỳ năm
ngoái. Tính đến hết tháng 11/2009, thị trường này nhập khẩu 46.344 tấn
thuỷ sản Việt Nam, trị giá 80,68 triệu USD, giảm gần 60% so với cùng kỳ
năm ngoái, trong đó mặt hàng cá tra chiếm tới 80% kim ngạch với 63,9
triệu USD, giảm 63% so với cùng kỳ năm ngoái.
Cá tra bị truyền thông “bôi bẩn” ở một số thị trường: Năm 2009, báo
chí một số nước như Italia, Tây Ban Nha, Na Uy, khu vực Trung Đông và
Niu Dilân thay nhau đưa tin không trung thực nhằm hạ bệ cá tra Việt
Nam, ít nhiều gây ảnh hưởng đến tâm lý của người tiêu dùng các nước
này và các nước lân cận, làm giảm nhu cầu tiêu thụ đối với mặt hàng này.
Đạo luật Nông nghiệp Farm Bill 2008 của Mỹ gây nhiều tranh cãi:
Theo Đạo luật Nông nghiệp Mỹ 2008 (Farm Bill 2008) dự kiến có hiệu
lực từ ngày 1/1/2010 sẽ ảnh hưởng lớn đến việc xuất khẩu cá tra và cá ba
sa của Việt Nam. Trước hết, nếu cá tra, cá ba sa Việt Nam bị định nghĩa
lại là catfish thì sẽ là đối tượng quản lý của đạo luật này (theo Farm Bill
2002 cá tra, cá ba sa của Việt Nam không phải là catfish - tên gọi chung
cá da trơn, mà thuộc dòng pangasius). Thứ hai, trong luật có một điều
khoản gọi là “chính sách tương đương”, có nghĩa là các quốc gia xuất
khẩu cá da trơn vào thị trường Mỹ phải đáp ứng các điều kiện tương
đương với Mỹ về luật pháp, năng lực thực hiện luật, kiểm soát năng lực
sản xuất... Do vậy trong trường hợp, Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) nói
công nghiệp nuôi và chế biến cá tra, cá ba sa của Việt Nam không tương
đương với điều kiện của Mỹ thì tất nhiên cá tra của Việt Nam sẽ bị cấm
xuất vào Mỹ, đó là chưa kể bị thanh tra, giám sát liên tục của USDA.
Farm Bill 2008 cũng chú ý đến việc sử dụng lao động trong sản xuất sản
phẩm nông nghiệp xuất nhập khẩu vào thị trường Mỹ.
Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển sản xuất và tiêu thụ cá tra vùng
đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020. Mục tiêu của đề án là phát triển

sản xuất cá tra đến năm 2010 đạt sản lượng cá nguyên liệu 1,5 triệu tấn,
sản phẩm xuất khẩu đạt 600 nghìn tấn, tiêu thụ nội địa 100 nghìn tấn và
giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 1,5 tỷ USD, Đến năm 2015 sản lượng cá
nguyên liệu đạt 1,8 triệu tấn, sản phẩm xuất khẩu đạt 2,2 tỷ USD; Đến
năm 2020 sản lượng cá nguyên liệu đạt 2 triệu tấn, sản phẩm xuất khẩu
900 nghìn tấn, giá trị kim ngành xuất khẩu đạt 3,0 tỷ USD.
Chiến dịch: “Nói không với tôm bơm chích tạp chất”: Ngày
29/7/2009, tại Cà Mau, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt
Nam đã tổ chức Hội nghị Doanh nghiệp “Nói Không với Tôm bơm chích
Tạp chất”. Hội nghị đã thảo luận và thống nhất lên án mạnh mẽ những
hành vi bơm chích tạp chất, lưu thông nguyên liệu tôm bơm chích và xem
đây là những hoạt động vi phạm pháp luật, gây tổn hại đến ngành công
nghiệp tôm Việt Nam, cộng đồng doanh nghiệp và người nuôi tôm, ảnh
hưởng đến uy tín và chất lượng tôm Việt Nam trên thị trường thế giới.
Kết quả là chất lượng tôm nguyên liệu đã được nâng cao rõ rệt, 70 - 80%
tôm nguyên liệu vào nhà máy có thể chế biến hàng chất lượng cao, định
mức sản xuất đã trở về với chuẩn mực quy định…
Thuế chống bán phá giá tôm giảm xuống còn gần 0%: Ngày 8/9/2009,
kết quả xem xét cuối cùng thuế chống bán phá giá đối với tôm tôm đông
lạnh Việt Nam nhập khẩu vào Mỹ giai đoạn từ 1/2/2007 đến 31/1/2008
được Bộ Thương mại Mỹ (DOC) công bố giảm còn gần bằng 0%. Theo
đó, mức thuế chống bán phá giá đối với cả 3 bị đơn bắt buộc gồm Minh
Phú Corp, Camimex và Phuong Nam đều giảm xuống mức gần bằng 0%.
Quy định IUU của EU có hiệu lực từ 1/1/2010: Theo quy định
1005/20ngày 29/09/2008 của Hội đồng Châu Âu, từ ngày 01/01//2010,
EU sẽ áp dụng luật IUU yêu cầu tất cả lô hàng hải sản khai thác phải có
chứng nhận khai thác hải sản, nếu thiếu sẽ không được phép xuất vào EU.
Để giúp doanh nghiệp thuỷ sản và ngư dân hiểu và thực hiện quy định
này, VASEP đã phối hợp với Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi Thuỷ
sản, Nafiqad, Bộ NN & PTNT tuyên truyền thông tin, tổ chức các buổi

hội thảo tập huấn cho các doanh nghiệp, ngư dân, đại lý và các chi cục địa
phương về các vấn đề liên quan đến quy định và việc thực hiện quy định
này. Tháng 12/2009, Bộ NN & PTNT đã ra quyết định 3477/QĐ-BNN -
KTBVNL và 3720 /QĐ-BNN - KTBVNL ban hành quy chế chứng nhận
thuỷ sản khai thác xuất khẩu vào thị trường Châu Âu để hướng dẫn thực
hiện quy định này.
Từ đầu năm đến nay, tình hình xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ gặp
nhiều khó khăn nhưng vẫn có những điểm sáng như xuất khẩu sang thị
trường Hồng Kông tăng 17,5%, kim ngạch đạt 6,4 triệu USD; xuất khẩu
sang thị trường Mêhicô tăng 121%, đạt 3,5 triệu USD; xuất sang thị
trường Ấn Độ tăng 8,2%, đạt 3,4 triệu USD và xuất khẩu sang thị trường
Thổ Nhĩ Kỳ tăng 1,7%, đạt 3,87 triệu USD.
Nhập khẩu gỗ nguyên liệu từ thị trường Myanma tăng mạnh, đạt 3,37
triệu USD. Trong tuần đến ngày 19/8/2009 các doanh nghiệp nhập khẩu
trên 7 nghìn m3 gỗ căm xe từ thị trường Myanam, giá nhập khẩu gỗ căm
xe từ thị trường này trung bình ở mức 431 USD/m3.
Trong 15 ngày cuối tháng 7/2009, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng
góm sứ mỹ nghệ và gia dụng của Việt Nam đạt 4,3 triệu USD, tăng 30%
so với kỳ trước. Trong đó, xuất khẩu các mặt hàng gốm sứ mỹ nghệ , đồ
trang trí, gốm sứ sử dụng ngoài trời và đồ chơi bằng gốm sứ tăng mạnh so
với cùng kỳ trước, bên cạnh đó thì các mặt hàng gốm sứ gia dụng cũng
tăng, tuy nhiên mức tăng không cao.
Kim ngạch xuất khẩu nhóm các mặt hàng mây tre lá, thảm, sơn mài
của Việt Nam trong 15 ngày cuối tháng 7 đạt 6 triệu USD, tăng 34% so
với kỳ trước.
Theo thống kê sơ bộ, tuần từ 17/8 đến 20/8/2009 nhập khẩu gỗ nguyên
liệu các loại đạt hơn 17 triệu USD, tăng 2 triệu USD so với kim ngạch
nhập khẩu gỗ nguyên liệu tuần trước đó.
Kim ngạch nhập khẩu gỗ nguyên liệu các loại đạt 90 triệu USD, tiếp
tục tăng 6,6% so với tháng trước nhưng vẫn giảm 8,6% so với cùng kỳ

năm trước. Từ nay đến cuối năm, tình hình nhập khẩu gỗ nguyên liệu các
loại sẽ tiếp tục được cải thiện nhờ nhu cầu sẽ cao hơn mức đầu năm. Ước
tính năm 2009 kim ngạch nhập khẩu gỗ nguyên liệu các loại giảm khoảng
10% so với năm 2008.
Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng gốm sứ mỹ nghệ và gia dụng của Việt
Nam sang thị trường Mỹ trong 15 ngày cuối tháng 7 đạt 550 nghìn USD,
tăng 10,8% so với kỳ trước, nhưng lại giảm 19,9% so với cùng kỳ năm
2008. Đáng chú ý là trong kỳ, xuất khẩu các mặt hàng Chậu gốm, bình
gốm vào thị trường Mỹ tăng khá mạnh, trong khi đó thì xuất khẩu các mặt
hàng đồ chơi và trang trí lại giảm sút.
Kim ngạch nhập khẩu ván MDF từ thị trường New Zealand trong 6
tháng năm 2009 đạt 1,76 triệu USD, giảm 23% so với cùng kỳ năm trước.
Giá nhập khẩu ván MDF từ thị trường này nửa đầu năm 2009 ở ứmc 273
USD/m3, giảm 16% so với mức giá nhập trung bình cùng kỳ.
Xuất khẩu 2009: tăng lượng, giảm giá trị
Theo Bộ Công Thương, năm 2009 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
ước đạt 56,734 tỉ đô la Mỹ, bằng 79% kế hoạch của Quốc hội đặt ra từ
đầu năm (72 tỉ đô la Mỹ) và chỉ chiếm 90,5% kim ngạch xuất khẩu của
năm 2008. Số lượng xuất khẩu các mặt hàng chủ lực như gạo, cao su, than
đá, dầu thô các loại tăng từ 10 - 30% nhưng giá trị thu về thấp hơn 2008.
Các mặt hàng thế mạnh nói trên tăng lượng xuất khẩu nhưng giảm giá trị
thu về, riêng các mặt hàng như: rau quả, chè các loại, hạt tiêu, sắn và các
sản phẩm từ sắn, hóa chất, dệt may có giá trị lẫn số lượng tương đương
với năm 2008.
Trong số 42 mặt hàng nhập khẩu chủ yếu trong năm 2009 có mặt hàng ô
tô nguyên chiếc tăng hơn 25.223 chiếc so với năm 2008 (51.059/76.282),
với kim ngạch nhập khẩu 1.193 tỉ đô la Mỹ; tiếp đó là mặt hàng thức ăn
chăn nuôi nhập khẩu 1,732 triệu tấn, xấp xỉ bằng năm 2008; phân bón có
số lượng nhập khẩu là 1,271 triệu tấn, tăng 41,9% so với 2008, dược
phẩm tăng 234 triệu đô la Mỹ, tăng hơn 27% so với 2008.

Theo các chuyên gia kinh tế, xuất khẩu năm 2009 không đạt mục tiêu
72 tỉ đô la Mỹ như chỉ tiêu Quốc hội đề ra và chỉ bằng 90,5% của năm
2008, ngoài yếu tố ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính còn một nguyên
nhân khác là do cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu của ta chủ yếu ở dạng thô,
đơn điệu và chưa có mặt hàng nào đủ mạnh để làm đầu tàu cho xuất khẩu
cả nước.
Trong năm 2009, 7 thị trường xuất khẩu chiếm đến 80% tổng kim ngạch
xuất khẩu là Mỹ với 11,2 tỉ đô la Mỹ, châu Âu với 9,3 tỉ đô la Mỹ, các
nước Đông Nam Á là 8,5 tỉ đô la Mỹ, Nhật Bản là 6,2 tỉ đô la Mỹ, Trung
Quốc là 4,8 tỉ đô la Mỹ, Hàn Quốc là 2,5 tỉ đô la Mỹ, Úc là 2,2 tỉ đô la
Mỹ.
Như vậy, 6/8 thị trường mà Việt Nam có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất
cũng là những thị trường mà chúng ta nhập khẩu nhiều nhất (cán cân
thương mại âm nếu so sánh giá trị xuất nhập khẩu song phương của Việt
Nam với từng nước nói trên), chủ yếu là các mặt hàng máy móc thiết bị,
dụng cụ, phụ tùng công nghiệp với 29,5%, nguyên vật liệu chiếm 61,3%,
tiêu dùng là 8,7%, vàng chiếm 0,5%.
Năm 2009, đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp chế biến
Bộ Công Thương cho biết, do kim ngạch xuất khẩu 2 nhóm hàng khoáng
sản và nông lâm, thuỷ sản sẽ giảm trong năm 2009 (giảm khoảng 6,6 tỷ
USD). Vì vậy, năm 2009 để duy trì tăng trưởng xuất khẩu, sẽ đẩy mạnh
xuất khẩu các mặt hàng thuộc nhóm hàng công nghiệp chế biến. Đây là
nhóm quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng trên 70%
.
Dự kiến kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp chế biến cũng chỉ
đạt khoảng 52,9 tỷ USD, tăng 38,7% so với năm 2008, tương đương 14,7
tỷ USD.
Bộ Công Thương lưu ý, cần đặc biệt quan tâm chỉ đạo 2 mặt hàng có kim
ngạch xuất khẩu lớn là mặt hàng dệt may (11,5 tỷ USD) và da giày (5,1 tỷ
USD); hàng điện tử và linh kiện máy tính (4,1 tỷ USD), sản phẩm gỗ (3,0

tỷ USD).
DỆT - MAY, DA - GIÀY CHIẾM VỊ TRÍ QUÁN QUÂN

13,6 tỉ USD là kim ngạch xuất khẩu (XK) của ngành dệt - may, da -
giày Việt Nam (VN) có khả năng đạt được trong năm 2009 - một lĩnh vực
sử dụng rất nhiều lao động, trong đó đa phần là lao động nữ.Số liệu này
đã được công bố tại lễ trao giải "Cuộc bình chọn doanh nghiệp (DN) tiêu
biểu ngành dệt - may, da - giày VN 2009" được tổ chức ngày 31.10 tại Hà
Nội.
Thành công bất ngờ
Theo Ban tổ chức cuộc bình chọn DN tiêu biểu ngành dệt - may, da -
giày 2009, mặc dù suy thoái kinh tế toàn cầu diễn ra từ năm 2008 ảnh
hưởng nghiêm trọng đến ngành dệt - may và da - giày - là hai ngành XK
chủ lực của VN - do mức tiêu dùng trên thế giới giảm mạnh. Nhưng được
sự hỗ trợ kịp thời từ chủ trương kích cầu của Chính phủ cùng với nỗ lực
linh hoạt của cộng đồng DN, cả hai ngành kinh tế XK quan trọng này của
VN đã vượt qua được những tác động bất lợi.
Chỉ trong 9 tháng đầu năm, kim ngạch XK của ngành dệt - may đạt 6,7 tỉ
USD, và khả năng đạt mức 9,2 tỉ USD trong cả năm và trở thành ngành
kinh tế XK lớn nhất cả nước. Còn đối với ngành da - giày XK, ông
Nguyễn Đức Thuấn - Chủ tịch Hiệp hội Da - Giày VN - cho biết: "Mục
tiêu đạt 4,4 tỉ USD kim ngạch XK đã trong tầm tay, ngành da - giày sẽ
giành vị trí thứ ba về kim ngạch XK và giữ ổn định việc làm cho hơn
600.000 lao động".
Theo ông Lê Quốc Ân - Chủ tịch Hiệp hội Dệt - May VN: Để đạt được
mục tiêu XK nêu trên, tại thị trường Hoa Kỳ - nơi chiếm tới 55% kim
ngạch XK của ngành dệt - may - các DN đã đồng hành cùng các nhà nhập
khẩu (NK) trong việc xác định lại cơ cấu giá cả hợp lý, trên cơ sở giữ
vững chất lượng sản phẩm dịch vụ, nên trong 9 tháng đầu năm 2009 thị
trường này giảm 12,71% hàng dệt - may từ hầu hết các nước XK tuyền

thống, nhưng lại tăng 18% về lượng và chỉ giảm 4,5% về kim ngạch đối
với hàng dệt may từ VN.
Tại thị trường Châu Âu - nơi thu hút tới 20% kim ngạch XK của ngành
dệt may VN, cộng đồng DN dệt - may VN đã tăng cường được chất lượng
và mở rộng dịch vụ hỗ trợ cho nhà NK, đồng thời tuân thủ chặt chẽ quy
chế mới về an toàn cho người tiêu dùng nên đã giữ được kim ngạch XK
trong 9 tháng đầu năm đạt xấp xỉ 1,25 tỉ USD, chỉ giảm 3,5% trong điều
kiện NK chung vào thị trường này giảm sút đến 11% so với cùng kỳ năm
trước.
Với tinh thần "năng nhặt chặt bị", các DN đã có nhiều nỗ lực mở rộng thị
trường, nên hàng dệt - may VN đã XK vào Hàn Quốc tăng 50%; Arập
Xêút tăng 23%; Thuỵ Sĩ tăng 12,7%; các nước ASEAN tăng 7,8%... Các
DN có kim ngạch XK lớn như Hansoll Vina đạt kim ngạch 240 triệu
USD; TCty May Việt Tiến, TCty May Nhà Bè; Cty cổ phần Sài Gòn 3...
đạt kim ngạch XK trên 100 triệu USD.
Triển vọng năm 2010
THÁCH THỨC CỦA NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM TRONG QUÝ
IV/2009 VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA NGÀNH DỆT MAY ĐỆT MAY ĐẾN
NĂM 2010
Không chỉ riêng có Mỹ đưa ra những rào cản kỹ thuật đối với ngành
Dệt may VN, mà hầu hết các nước có hàng VN nhập khẩu đều đưa ra
những rào cản kỹ thuật, khiến dệt may VN phải đối đầu với nhiều thách
thức.
Ví dụ như với thị trường Nhật Bản (đứng sau thị trường Mỹ và EU), rào
cản kỹ thuật là việc yêu cầu các sản phẩm phải có chứng chỉ sạch và thân
thiện với môi trường.
Mỹ là thị trường XK dệt may lớn nhất của VN, chiếm tới 57% thị phần,
trong khi cả 1 thị trường rộng lớn như EU chỉ là 18 %. Năm 2009, ngành
Dệt may VN đặt mục tiêu kim ngạch XK khoảng 9,2 tỷ USD, trong đó sẽ
đạt trên 5 tỷ USD ở thị trường Mỹ. Con số này vào năm 2010 sẽ là

khoảng 10,5 tỷ USD.
Tuy vậy, ngành Dệt may VN đang phải đối mặt với rất nhiều rào cản kỹ
thuật mới trong việc bảo vệ môi trường cho người tiêu dùng Mỹ, có hiệu
lực từ ngày 1/1/2010. Theo đạo luật này, các lô hàng XK vào Mỹ phải có
giấy kiểm nghiệm của bên thứ 3 xác nhận sản phẩm sử dụng nguyên liệu
đảm bảo cho sức khỏe người tiêu dùng. Nhà sản xuất sẽ phải chịu trách
nhiệm về bất kỳ thiệt hại nào gây ra cho người tiêu dùng. Theo rào cản kỹ
thuật này, VN phải có 1 phòng thí nghiệm hiện đại đủ tiêu chuẩn để được
phía Mỹ công nhận và cấp giấy chứng nhận. Bên cạnh đó phải tiếp tục
tăng tỷ lệ sản xuất nguyên vật liệu trong nước, giảm nhập siêu.
Ngành Dệt may VN cũng được một số doanh nghiệp Mỹ cảnh báo rằng
nếu không sớm nâng năng lực làm hàng chất lượng cao, sẽ khó cạnh tranh
được với các đối tác khác đến từ các nước Châu Á. Áp lực này khiến
ngành Dệt may phải xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn sản phẩm dệt may
phù hợp và hài hòa với các tiêu chuẩn quốc tế. Đồng thời đầu tư nâng cấp
các trung tâm giám định, kiểm tra chất lượng sản phẩm dệt may để hỗ trợ
cho các doanh nghiệp trong quản lý chất lượng và khắc phục các rào cản
kỹ thuật.
Mục tiêu đến 2010 là sản xuất 1 tỷ mét vải:
Hiện nay, khó khăn và cũng là áp lực lớn nhất của ngành Dệt may là
chưa tạo được nguồn nguyên liệu cho sản xuất. Nguyên liệu phục vụ cho
ngành Dệt may được nhập khẩu tới 90%. Do đó, tuy có kim ngạch XK
cao nhưng tỷ lệ thu về lại thấp, chỉ ước khoảng 35-38% tổng kim ngạch.
Do đó, ngành dệt may phải quy hoạch vùng nguyên liệu, đặc biệt là trồng
bông. Mục tiêu chiến lược của ngành Dệt may đặt ra đến năm 2010 là
phải đạt sản lượng 20.000 tấn bông xơ, năm 2015 đạt 40.000 tấn. Tuy
nhiên hiện nay, diện tích trồng bông tại VN lại trông không đồng đều, tập
trung chủ yếu ở Tây Nguyên (42%), vùng duyên hải miền Trung (33%),
miền Bắc (20%) và Đông Nam bộ (5%). Theo thống kê cho thấy trong
niên vụ niên vụ 2007-2008 diện tích trồng bông trên cả nước là

7.446ha cho sản lượng 2.709 tấn, đến niên vụ 2008-2009 diện tích trồng
bông giảm mạnh còn dưới 3.000 ha. Ngành dệt may đã khuyến khích và
quy hoạch tăng thêm diện tích trồng bông. Theo kết hoạch niên vụ 2009-
2010 ước đạt khoảng 10.000 nghìn tấn. Tuy vậy con số này vẫn còn xa
với mục tiêu 20.000 tấn ngành đã đặt ra.
Mặc dù ngành Dệt may đã có kế hoạch phát triển vùng nguyên liệu và
có chính sách hỗ trợ giá cho nông dân, nhưng vấn đề giá còn rất nan giải.
Nếu giá thấp hơn so với các cây trồng khác sẽ khó khuyến khích được

×