Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

những nguyên tắc căn bản nhất trong giao tiếp đa văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.78 KB, 11 trang )

những nguyên tắc căn bản nhất trong giao tiếp đa văn hóa.
I. Xác định 3 khía cạnh quan trọng nhất trong việc xác định văn hóa doanh
nghiệp.
1. Vai trò của người lãnh đạo.
Người lãnh đạo là người đứng đầu, là người hướng dẫn, chỉ huy một đơn vị,
một tổ chức, một đoàn thể. Nói một cách khác, người lãnh đạo là người có khả năng
chỉ huy và hướng dẫn người khác trong phạm vi và trách nhiệm của mình. Người lãnh
đạo tài giỏi, thành công trong việc chỉ huy, hướng dẫn, điều khiển v.v... Ngoài khả
năng và kiến thức hơn người, người lãnh đạo còn cần phải hội đủ những đức tính cần
thiết và nghệ thuật lãnh đạo một cách khôn khéo để đem lại sự thành công và kết quả
tốt đẹp cho đơn vị mình. Với vai trò là người chỉ huy doanh nghiệp, nhà lãnh đạo phải
xác định được tầm nhìn rõ ràng, chính xác cho doanh nghiệp, xác định được lịch trình
để đạt mục tiêu đó, huy động và thúc đẩy cấp dưới thực hiện mục tiêu.
- Xác định tầm nhìn rõ ràng, chính xác cho doanh nghiệp: nhà lãnh đạo là người vẽ ra
đường lối, mục tiêu, viễn cảnh tương lai của doanh nghiệp. Họ đảm trách những mục
tiêu mang tính thách thức liên quan tới sự thay đổi, và tập trung vào việc thay đổi hành
vi. Nhà lãnh đạo chấp nhận rủi ro và không ngại đương đầu với những tình huống mạo
hiểm trong quá trình đạt đến mục tiêu của mình, vì vậy họ thường coi những việc khó
khăn mà nguời khác tránh là những cơ hội tốt để mình thử sức và chinh phục.
- Xác định lịch trình để đạt mục tiêu đó: Để thực hiện tầm nhìn, nhà lãnh đạo phải xác
định được các bước thực hiện tầm nhìn đó. Họ vạch ra chiến lược và thực hiện những
thay đổi để duy trì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
- Huy động và thúc đẩy cấp dưới thực hiện mục tiêu: Nhà lãnh đạo tập trung vào yếu
tố con người. Họ kêu gọi, lôi kéo những người dưới quyền đi theo mình, hướng tới xây
dựng sự nghiệp chung của doanh nghiệp. Nhà lãnh đạo sử dụng uy tín, ảnh hưởng cá
nhân để thúc đẩy những nguời dưới quyền làm việc. Họ động viên những người dưới


quyền phát huy hết khả năng của mình, cùng làm việc với họ để đạt được mục tiêu lâu
dài.
- Nhà lãnh đạo là người thực hiện các mối liên kết trong và ngoài doanh nghiệp: Nhà


lãnh đạo là cầu nối giữa các bộ phận trong doanh nghiệp với nhau và giữa doanh
nghiệp với hệ thống bên ngoài. Để làm tốt vai trò này, họ phải duy trì được quan hệ cá
nhân thật tốt với các nhân vật chủ chốt trong tất cả các đơn vị trong và ngoài doanh
nghiệp, phải biết lắng nghe và thu nhận ý kiến.
- Liên kết giữa doanh nghiệp với hệ thống bên ngoài: Lãnh đạo doanh nghiệp thường
xuyên tiếp xúc với các đối tác khách hàng, các hội nghề nghiệp, các cơ quan chính
quyền. Họ cần sử dụng mối quan hệ rộng rãi của mình để nhận được nhiều nguồn
thông tin và sự ủng hộ cần thiết. Vì thế, mà nhà lãnh đạo là một nhà hoạt động xã hội
tích cực. Chẳng hạn họ tham gia các câu lạc bộ dành cho doanh nghiệp. Ở đó họ không
chỉ nắm bắt được các cơ hội thương mại mà còn kết giao với nhiều bạn bè, tạo lập
quan hệ xã hội rộng.
- Nhà lãnh đạo cũng phải là một nhà quản lý doanh nghiệp: Họ phải xây dựng, thực
thi các chiến lược, lập kế hoạch thực hiện và kiểm tra, đánh giá mức độ thực hiện mục
tiêu của doanh nghiệp. Với vai trò này, nhà lãnh đạo chỉ thực hiện quản lý ở cấp cao,
chứ không rơi vào quản lý tiểu tiết.
- Lập kế hoạch, phân bổ nguồn lực: Nhà lãnh đạo phải đưa ra được bản kế hoạch phù
hợp với tình hình phát triển, với nguồn lực của doanh nghiệp. Họ biết điểm mạnh,
điểm yếu của doanh nghiệp là gì để có một kế hoạch chung với toàn doanh nghiệp. Từ
đó, họ đưa ra hướng phân bổ, sử dụng các nguồn lực của công ty.
- Kiểm tra, đánh giá mức độ thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp: Là người chịu
trách nhiệm về kết quả cuối cùng mà doanh nghiệp đạt được, vì vậy nhà lãnh đạo cần
thường xuyên đánh giá mức độ thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp tới đâu. Họ phải
có những quyết định thay đổi kịp thời để điều chỉnh mục tiêu.


2. Văn hóa doanh nghiệp.
Văn hoá doanh nghiệp chính là tài sản vô hình của mỗi doanh nghiệp. Cùng với
sự phát triển của nền kinh tế thị trường thì việc xây dựng văn hoá doanh nghiệp là một
việc làm hết sức cần thiết nhưng cũng không ít khó khăn. Có rất nhiều định nghĩa khác
nhau về văn hoá. Theo E.Heriôt thì “Cái gì còn lại khi tất cả những cái khác bị quên đi

- cái đó là văn hoá”. Còn UNESCO lại có một định nghĩa khác về văn hoá: “Văn hoá
phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi
cá nhân và của mỗi cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ, cũng như đang diễn ra trong
hiện tại, qua hàng bao nhiêu thế kỷ nó đã cấu thành một hệ thống các giá trị, truyền
thống, thẩm mỹ và lối sống và dựa trên đó từng dân tộc khẳng định bản sắc riêng của
mình”.
Văn hoá doanh nghiệp là toàn bộ các giá trị văn hoá được gây dựng nên trong
suốt quá trình tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp, trở thành các giá trị, các
quan niệm và tập quán, truyền thống ăn sâu vào hoạt động của doanh nghiệp ấy và chi
phối tình cảm, nếp suy nghĩ và hành vi của mọi thành viên của doanh nghiệp trong
việc theo đuổi và thực hiện các mục đích. Cũng như văn hoá nói chung, văn hoá doanh
nghiệp có những đặc trưng cụ thể riêng biệt. Trước hết, văn hoá doanh nghiệp là sản
phẩm của những người cùng làm trong một doanh nghiệp và đáp ứng nhu cầu giá trị
bền vững. Nó xác lập một hệ thống các giá trị được mọi người làm trong doanh nghiệp
chia sẻ, chấp nhận, đề cao và ứng xử theo các giá trị đó. Văn hoá doanh nghiệp còn
góp phần tạo nên sự khác biệt giữa các doanh nghiệp và được coi là truyền thống của
riêng mỗi doanh nghiệp.
Nhìn nhận một cách tổng quát, chúng ta thấy văn hoá trong các cơ quan và
doanh nghiệp ở nước ta còn có những hạn chế nhất định: Đó là một nền văn hoá được
xây dựng trên nền tảng dân trí thấp và phức tạp do những yếu tố khác ảnh hưởng tới;
môi trường làm việc có nhiều bất cập dẫn tới có cái nhìn ngắn hạn; chưa có quan niệm


đúng đắn về cạnh tranh và hợp tác, làm việc chưa có tính chuyên nghiệp; còn bị ảnh
hưởng bởi các khuynh hướng cực đoan của nền kinh tế bao cấp; chưa có sự giao thoa
giữa các quan điểm đào tạo cán bộ quản lý do nguồn gốc đào tạo; chưa có cơ chế dùng
người, có sự bất cập trong giáo dục đào tạo nên chất lượng chưa cao. Mặt khác văn
hoá doanh nghiệp còn bị những yếu tố khác ảnh hưởng tới như: Nền sản xuất nông
nghiệp nghèo nàn và ảnh hưởng của tàn dư đế quốc, phong kiến.
Văn hoá doanh nghiệp có vị trí và vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của

mỗi doanh nghiệp, bởi bất kỳ một doanh nghiệp nào nếu thiếu đi yếu tố văn hoá, ngôn
ngữ, tư liệu, thông tin nói chung được gọi là tri thức thì doanh nghiệp đó khó có thể
đứng vững và tồn tại được. Trong khuynh hướng xã hội ngày nay thì các nguồn lực
của một doanh nghiệp là con người mà văn hoá doanh nghiệp là cái liên kết và nhân
lên nhiều lần các giá trị của từng nguồn lực riêng lẻ. Do vậy, có thể khẳng định văn
hoá doanh nghiệp là tài sản vô hình của mỗi doanh nghiệp. Văn hoá của doanh nghiệp
được thể hiện ở phong cách lãnh đạo của người lãnh đạo và tác phong làm việc của
nhân viên. Với đối tác khi quan hệ thì ngoài việc quan tâm tới lợi nhuận của công ty
họ còn đánh giá doanh nghiệp qua văn hoá của doanh nghiệp đó.
Sự thành công của mỗi doanh nghiệp, đặc biệt là ở các nước châu á thường
được dựa trên mối quan hệ cá nhân của người lãnh đạo, còn các nước Tây Âu thì thành
công của doanh nghiệp lại được dựa trên các yếu tố như khả năng quản lý các nguồn
lực, năng suất làm việc, tính năng động của nhân viên.
Để xây dựng văn hóa doanh nghiệp trước hết chúng ta phải có quan điểm cụ thể
về vai trò của văn hoá doanh nghiệp. Sự thắng thế của bất cứ một doanh nghiệp nào
không phải ở chỗ là có bao nhiêu vốn và sử dụng công nghệ gì mà nó được quyết định
bởi việc tổ chức những con người như thế nào. Con người ta có thể đi lên từ tay không
về vốn nhưng không bao giờ từ tay không về văn hoá. Văn hoá chỉ có nền tảng chứ
không có điểm mốc đầu cuối. Do vậy, xuất phát điểm của doanh nghiệp có thể sẽ là rất
cao nếu như nó được xây dựng trên nền tảng văn hoá. Các doanh nghiệp khi xây dựng


đều phải có nhận thức và niềm tin triệt để, lúc đó văn hoá sẽ xuất hiện. Mọi cải cách
chỉ thực sự có tính thuyết phục khi nó tách ra khỏi lợi ích cá nhân, còn văn hoá doanh
nghiệp thì phải bảo vệ cho mọi quyền lợi và lợi ích của cá nhân.
Trong điều kiện toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới và quá trình cạnh tranh quốc
tế ngày càng gay gắt thì văn hóa doanh nghiệp được chú trọng xây dựng và phát triển.
Nó trở thành một loại tài sản vô hình đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong kho tài sản
doanh nghiệp và là một trong những công cụ cạnh tranh khá sắc bén. Những doanh
nghiệp không có nền văn hóa mạnh khó có thể cạnh tranh cao trên thị trường. Đồng

thời, doanh nghiệp có thể tạo ra và tăng uy tín của mình trên thị trường thông qua việc
xây dựng và phát triển một nền văn hóa doanh nghiệp mạnh. Các tập đoàn đa quốc gia
có nhiều chi nhánh hoạt động ở nhiều nước trên thế giới, thường phải đối mặt với môi
trường kinh doanh đa sắc tộc, đa quốc tịch và đa văn hóa. Để tăng cường sức mạnh và
sự liên kết giữa các chi nhánh của các công ty đa quốc gia ở các nước khác nhau, các
tập đoàn phải có một nền văn hóa đủ mạnh. Hầu như tập đoàn đa quốc gia nào cũng có
bản sắc văn hóa riêng của mình và đây được coi là một trong những điều kiện sống
còn, một loại vũ khí cạnh tranh lợi hại. Các công ty đa quốc gia có mục đích kinh
doanh chiến lược, nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng và danh tiếng cao về chất lượng sản
phẩm và dịch vụ trên thị trường thế giới. Những kết quả này có thể coi là sản phẩm
của quá trình vận động của văn hóa tập đoàn. Tuy nhiên, để đạt được những đỉnh cao
của sự thành công đó, các tập đoàn phải mất nhiều thời gian và tiền bạc. Chẳng hạn, để
có nhãn hiệu Pepsi Cola nổi tiếng với màu xanh tươi trẻ, Tập đoàn Pepsi phải chọn
cách tiếp cận văn hóa phương Đông - sản xuất loại đồ uống mang nhãn hiệu Pepsi
Cola với biểu tượng thiếu âm và thiếu dương (biểu tượng của những người theo Phật
giáo) để đến với khách hàng là những tín đồ của Phật giáo. Để bảo hộ cho biểu tượng
này, Tập đoàn phải chi tới 500 triệu USD và giá của nhãn hiệu Pepsi đã lên tới 55 tỷ
USD. Đối thủ cạnh tranh của Pepsi Cola là Tập đoàn Coca Cola. Tập đoàn này có nền
văn hóa hùng mạnh và với những ưu thế về danh tiếng, uy tín cũng như nghệ thuật
kinh doanh đã chiến thắng Pepsi Cola trên thương trường mặc dù đồ uống Coca Cola


chỉ được xếp thứ 7 trong số 12 loại đồ uống hàng đầu của nước Mỹ về chất lượng và
đồ uống này đã bị người tiêu dùng châu Âu tẩy chay vào năm 1999.
Có thể nói, Văn hoá doanh nghiệp là nhằm tạo ra quy tắc ứng xử cho doanh
nghiệp mà không phải tạo ra tác dụng chỉ đạo. Cách làm này của các doanh nghiệp
không chỉ có tác dụng thúc đẩy cho doanh nghiệp mình thực hiện được phương thức
kinh doanh "lấy con người làm trung tâm", mà còn làm cho năng lực phát triển sản
phẩm và năng lực đoàn kết hiệp đồng tập thể của doanh nghiệp trở nên phồn vinh, tăng
thêm sự gắn bó của nhân viên với doanh nghiêp, nâng cao hiệu quả kinh doanh.

Xây dựng văn hóa doanh nghiệp: Văn hóa doanh nghiệp được thể hiện ở nhiều
cấp độ khác nhau. Cấp dễ thấy nhất đó là thực thể hữu hình như những đồ vật: báo
cáo, sản phẩm, bàn ghế, phim... hoặc công nghệ: máy móc, thiết bị, nhà xưởng... hoặc
ngôn ngữ: chuyện cười, truyền thuyết, khẩu hiệu... hoặc các chuẩn mực hành vi: nghi
thức, lễ nghi, liên hoan... hoặc các nguyên tắc, hệ thống, thủ tục, chương trình. Cấp thứ
hai đó là các giá trị được thể hiện, Giá trị xác định những gì mình nghĩ là phải làm, nó
xác định định những gì mình cho là đúng hay sai. Giá trị được phân chia làm 2 loại.
Loại thứ nhất là các giá trị tồn tại sẵn ngay trong doanh nghiệp một cách khách quan
và hình thành tự phát. Loại thứ hai là các giá trị mà lãnh đạo mong muốn doanh nghiệp
mình có và phải xây dựng từng bước. Cấp thứ ba là các ngầm định nền tảng. Đó là các
niềm tin, nhận thức, suy nghĩ và xúc cảm được coi là đương nhiên ăn sâu trong tiềm
thức mỗi cá nhân trong doanh nghiệp. Các ngầm định nền tảng này là nền tảng cho các
giá trị và hành động của mỗi thành viên.
Như vậy những giá trị, ngầm định nền tảng là khó thấy nhưng nó lại là nền tảng
cho mỗi hành động đặc biệt là các ngầm định nền tảng. Vậy để xây dựng được những
giá trị, các ngầm định nền tảng phù hợp ta phải xác định đâu là phương tiện để những
tiềm năng, nền tảng đó trở thành những hành động cụ thể. Các phương tiện thể hiện đó
được chia thành 4 loại: phong cách làm việc; quá trình ra quyết định; phong cách giao
tiếp; cách đối xử với nhau.


3. Xây dựng tinh thần làm việc theo nhóm.
Đây là một nét văn hóa mới nơi công sở, mang giá trị gắn kết các cá nhân rất
cao. Trong môi trường làm việc tập thể, mọi cá nhân hiểu và tin rằng việc tư duy, lập
kế hoạch, quyết định và hành động sẽ được thực hiện tốt hơn khi tất cả cùng hợp tác.
Để khai sinh ra nét văn hóa này bạn cần thực hiện những hành động sau đây.
Các giám đốc điều hành phải làm cho nhân viên hiểu rằng lối làm việc theo
nhóm và sự hợp tác tương trợ giữa họ thật sự được mong đợi. Không ai hoàn toàn sở
hữu một phạm vi hay một khâu nào trong quá trình làm việc cả. Những người thật sự
làm chủ những vị trí hay một qui trình nào đó lại thường rất cởi mở, luôn sẵn sàng tiếp

thu những ý tưởng và nguồn tư liệu cung cấp bởi những người khác. Những nhà điều
hành xây dựng mô hình đội nhóm thông qua mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân và
với các bộ phận khác của tổ chức.
Làm việc theo nhóm là hoạt động luôn được công nhận và đánh giá cao. Những
người lang thang cô độc, cho dù có là một nhà sản xuất xuất sắc tới mức nào đi nữa thì
cũng được đánh giá thấp hơn những cá nhân đạt được thành quả cùng với nhiều người
khác. Sự đền bù, tiền thưởng và những phần thưởng...phụ thuộc vào thực tế mức độ
hợp tác cũng như đóng góp và thành tựu đạt được của từng cá nhân. Những vấn đề và
nghiên cứu quan trọng được thảo luận trong các công ty đều nhấn mạnh hoạt động đội
nhóm.
Xây dựng niềm tin: Khi người ta tin tưởng ai đó, họ sẽ có cảm giác an toàn và
sẵn sàng cống hiến. Nên nhớ, làm việc theo nhóm muốn thành công, điều đầu tiên là
phải có niềm tin giữa các thành viên với nhau, tin vào người lãnh đạo.Các nhóm có thể
xây dựng lòng tin bằng cách nói chuyện cởi mở với nhau không chỉ về vấn đề công
việc mà còn về sở thích, những điều không thích, về nối sợ hãi hay mối quan tâm và
thói quen trong cuộc sống hằng ngày. Niềm tin tăng lên khi các thành viên có thể thoải
mái chia sẻ cảm xúc, nhận được sự đồng cảm chứ không phải những phản ứng tiêu cực
hay sự khinh bỉ từ những người khác trong nhóm.


Thiết lập các quy tắc trao đổi thông tin rõ ràng. Các thành viên trong nhóm nên
thống nhất một quy tắc chung về việc họ nên trả lời người khác như thế nào, phân
chia, theo dõi công việc từng mảng ra sao và khi có vấn đề nảy sinh thì cần rà soát từ
đâu. Mỗi thành viên phải cam kết tìm kiếm và chia sẻ thông tin cho nhau. Giao tiếp
nhóm nên được chia sẻ chứ không phải là để gây ấn tượng.
Chấp nhận nhiều kiểu giao tiếp khác nhau: Có nhiều yếu tố ảnh hưởng giao tiếp
của từng người như tuổi tác, giới tính, ngôn ngữ, văn hóa và cá tính. Nếu không hiểu
điều đó, những khác biệt này có thể tạo ra rào cản đáng kể khi giao tiếp nhóm, khiến
công việc kém hiệu quả. Một số thành viên trong nhóm có thể thích nói chuyện,
thường đưa ra các ý tưởng cao xa trong khi họ vẫn đang suy nghĩ về một chủ đề. Vài

thành viên khác lại thích nghiên cứu kĩ thông tin và tổng hợp chúng trước khi nói, bởi
họ muốn có sự chắc chắn, rõ ràng. Họ có thể không đưa ra ý kiến trong cuộc họp,
nhưng lại thường có thể tổng hợp ý kiến ngẫu nhiên của người khác.
Không chỉ cá nhân các thành viên trong nhóm phân tích phong cách giao tiếp
của mình mà cả nhóm nên nói chuyện cởi mở về những khác biệt để tìm cách thích
ứng với tất cả mọi người, tạo điều kiện cho mỗi thành viên phát huy được thế mạnh
của bản thân, đóng góp hiệu quả nhất cho công việc chung.
Xây dựng quy trình xử lý xung đột: Các thông tin liên lạc giữa các thành viên
với nhau cũng như với những người ngoài nhóm yêu cầu phải rõ ràng và cởi mở để
không có cơ hội cho sự bất đồng do hiểu nhầm. Mâu thuẫn của các thành viên cần phải
giải quyết triệt để, theo một quy trình rõ ràng và căn cứ vào đó để áp dụng về sau.
Dành thời gian giao tiếp cá nhân ngoài công việc Mối quan hệ thân tình giữa
các thành viên trong nhóm là những đóng góp quan trọng vào thành công của nhóm và
giúp giảm thiểu sự xuất hiện cũng như mức độ xung đột. Mặc dù mối quan hệ giữa các
thành viên trong nhóm chủ yếu là về công việc, các nhóm sẽ mạnh hơn, gắn kết hơn
khi các thành viên coi trọng và đánh giá cao mối quan hệ mang tính cá nhân Tìm các
lĩnh vực cùng quan tâm, trao đổi về các chủ đề bên ngoài công việc có thể xây dựng sự


gắn kết. Thể hiện mối quan tâm đối với bệnh tật của người thân hoặc chúc mừng thành
tích của con cái trong gia đình các thành viên của nhóm... là cách thúc đẩy một bước
tiến dài hướng tới việc tạo ra một đơn vị vững chắc, gắn bó.
II. Hãy liệt kê những nguyên tắc căn bản nhất trong giao tiếp đa văn hóa.
Giao tiếp đa văn hóa chính là sự giao tiếp giữa các nền văn hóa, giữa các cộng
đồng văn hóa khác nhau với những phương thức sống và thế giới quan khác nhau. Bản
thân sự giao tiếp liên văn hóa không phải là một hiện tượng mới mẻ, mà đã trải qua
lịch sử hàng ngàn năm, gắn liền với số phận của tất cả các dân tộc, các cộng đồng
người trên thế giới. Cho đến nay, khi bước vào thế kỷ XXI, nhân loại đã đạt được
những thành tựu to lớn về khoa học và công nghệ. Nhờ các phương tiện truyền thông
hiện đại, nhờ mạng internet, điện thoại di động, điện thoại truyền hình, nhờ vô số các

kênh truyền thanh và truyền hình quốc tế, nhờ sự phát triển mạnh mẽ của kỹ nghệ giao
thông nội địa và quốc tế, nhất là kỹ nghệ hàng không, v.v., cơ hội giao lưu, giao tiếp,
đối thoại, học hỏi lẫn nhau giữa các nền văn hóa và các cộng đồng văn hóa trên khắp
hành tinh ngày càng gia tăng mạnh mẽ. Trong bối cảnh ấy, toàn cầu hóa đã trở thành
một xu thế lịch sử không thể tránh khỏi, lôi cuốn tất cả các dân tộc, các nền văn hóa
trên thế giới. Do vậy, giao tiếp đa văn hóa đã trở thành một bộ phận không thể tách rời
của đời sống xã hội đương đại, trở thành lĩnh vực được nhiều ngành khoa học quan
tâm nghiên cứu.
Có thể nói, sự không hiểu biết hay hiểu biết không đúng về nền văn hóa khác đều
là những vấn đề không thể xem thường của sự giao tiếp liên văn hóa. Chúng có thể trở
thành những nguyên nhân không thể lường trước dẫn đến các cuộc xung đột không
đáng có giữa các thế giới quan văn hóa khác nhau. Chúng ta không thể phủ nhận một
thực tế đáng buồn rằng, cho đến nay, trong thời đại toàn cầu hóa, ở nhiều nước thuộc
khu vực châu Á cũng như trên thế giới, cũng chính vì những lý do nêu trên đã khiến
cho nhiều vấn đề đáng tiếc liên quan đến quan hệ giữa các nền văn hóa, các cộng đồng
văn hóa, các sắc tộc, các thế giới quan văn hóa khác nhau nảy sinh một cách gay gắt.


Đương nhiên, đằng sau các vấn đề đó chính là sự thiếu vắng các tri thức đầy đủ, sâu
sắc về các cộng đồng văn hóa khác, đặc biệt là sự thiếu vắng thái độ khoan dung văn
hóa với thói quen tôn sùng giá trị văn hóa của mình và hạ thấp các giá trị văn hóa
khác.
Để tránh sự hiểu biết không đúng về văn hóa, một mặt, chúng ta phải khắc phục
hiện tượng “mù văn hóa”, vượt qua sự không hiểu biết về văn hóa; mặt khác, trong
việc nhìn nhận các nền văn hóa khác hoàn toàn bình đẳng. Ngoài ra, cũng cần phải loại
bỏ các nguyên nhân tâm lý có thể dẫn tới sự hiểu biết không đúng về các nền văn hóa
khác.
Việc giải quyết sự xung đột giữa các cộng đồng văn hóa được hướng đến một thế
giới toàn cầu dựa trên nền tảng nhân học chung của con người trong tất cả các nền văn
hóa, tức là dựa trên sự tương đồng trong cách thức tư duy và hành động của con người

với tư cách bản chất loài; dựa vào sự dung hòa giữa các thế giới quan văn hóa và đặc
biệt là dựa vào việc tôn trọng tất cả các nền văn hóa khác nhau và bình đẳng với nhau.
Với nguyên tắc này tất yếu diễn ra quá trình thay đổi, chuyển đổi và dần chấp nhận ở
tất cả các thế giới quan và phương thức sống theo hướng tạo ra một thế giới quan văn
hóa toàn cầu. Thế giới quan này dựa trên sự thống nhất trong sự đa dạng của tất cả các
nền văn hóa, một sự thống nhất mà không loại trừ sự đa dạng của các nền văn hóa, các
thế giới quan văn hóa khác.
Để giao tiếp tốt trong môi trường đa văn hoá chúng ta cần lưu ý những nguyên tắc
sau:
- Quan sát và lăng nghe: Khi giao tiếp với ai đó thuộc nền văn hóa khác, việc đầu tiên
bạn cần thực hiện đó là thể hiện khả năng quan sát của mình. Hãy quan sát ngôn ngữ
cơ thể của họ, cách họ cư xử, giao tiếp với bạn và cố gắng sử dụng ngôn ngữ cơ thể,
cách ứng xử cho phù hợp. Mối quan hệ sẽ dần được thiết lập khi giữa bạn và đối tượng
có sự đồng điệu.


- Tôn trọng sự khác biệt: Một số nền văn hóa có cách ứng xử hết sức riêng biệt, điều
mà đối với nền văn hóa khác có thể bị coi như cách cư xử không đúng mực, một sự
xúc phạm.
- Hãy cố gắng học những phong tục tập quán riêng của từng dân tộc, hiểu và thông
cảm cho sự tồn tại của những cá nhân khác nhau trong một nhóm người.
- Đừng khái quát hóa về một cá nhân chỉ bởi vì nền văn hoá riêng của họ. Có rất nhiều
sự tồn tại của những cá nhân khác nhau trong một tập thể.
- Tránh những vấn đề nhạy cảm hoặc những điều ngớ ngẩn như sự chế giễu tôn giáo,
các thành ngữ về giới tính, phân biệt chủng tộc, những cử chỉ không phù hợp.
- Hãy luôn nói câu” Chúng ta ở đây cùng nhau” để thể hiện sự tin tưởng và cổ vũ tinh
thần đoàn kết và hợp tác.
- Không phân theo giọng nói, trọng âm, ngữ pháp hay bề ngoài của một người, hãy
đánh giá phẩm chất qua những phát ngôn và hành động.
- Luôn có ý thức tìm kiếm những mối quan hệ và thách thức đa văn hoá mới.




×