Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

CƠ sở lý LUẬN về QUẢN lý THIẾT bị dạy học ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.06 KB, 48 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN
LÝ THIẾT BỊ DẠY HỌC Ở
TRƯỜNG PHỔ THÔNG


- Tổng quan nghiên cứu vấn đề
- Các nghiên cứu ngoài nước
Nhà giáo dục học vĩ đại Tiệp Khắc J.A.Komensky (1592
- 1679) đã đặt nền móng cho dạy học trực quan, với quan
điểm cơ bản là: Dạy học được bắt đầu từ quan sát sự vật, hiện
tượng, quá trình. Trong tác phẩm: “Phép dạy học vĩ đại” ông
viết: “Cái gì có thể tri giác được hãy để cho nhìn, cái nghe
được hãy để cho nghe…đó là quy tắc vàng đối với trẻ em, đối
với dạy học…”
Nhà giáo dục người Nga Usinsky (1824-1870) và các
học trò của ông tiếp tục phát triển nguyên tắc dạy học trực
quan, dựa trên các thành tựu mới về tâm lý học và sinh lý học.
Ông khẳng định trực quan là cái ban đầu, là nguồn gốc của tri
thức, cảm giác cung cấp tài liệu cho hoạt động trí tuệ. Usinsly
viết: “Không có cái gì có thể giúp anh san bằng bức tường
ngăn cách giữa giáo viên và học sinh như là việc anh đưa cho
học sinh xem một bức tranh và giải thích nó, đứa trẻ suy nghĩ
bằng hình dạng, bằng màu sắc, âm thanh và bằng cảm giác
nói chung”.


Nhà giáo dục lỗi lạc người Thụy Sỹ J.H.Pestaloji (17461827) đã phát triển nguyên tắc dạy học trực quan của
Kômensky với tư tưởng chỉ rõ mối quan hệ hữu cơ giữa tri
thức cảm tính với sự phát triển tư duy.
Lê-nin khi phân tích bản chất của quá trình nhận thức
cũng đã chỉ ra quy luật nhận thức của con người là: “Từ trực


quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng
đến thực tiễn là con đường biện chứng của sự nhận thức chân
lí, nhận thức hiện tượng khách quan”.
Năm 1984, Hội nghị quốc tế về GD lần thứ 39 họp tại
Giơ-ne-vơ cũng như nhiều hội nghị về TBDH ở các nước
XHCN đã khẳng định ngành giáo dục cần phải được đổi mới
thường xuyên về mục đích, cấu trúc, nội dung, TBDH và
phương pháp để tạo cho tất cả các HS có những cơ hội học
tập. Tùy theo hoàn cảnh kinh tế, kỹ thuật và xã hội tất cả các
nước trên thế giới đều có khuynh hướng hoàn thiện CSVC và
TBDH nhằm phù hợp với sự hiện đại hóa nội dung, phương
pháp và hình thức tổ chức dạy học. Các nước có nền kinh tế
phát triển đều quan tâm đến việc nghiên cứu, thiết kế, sản
xuất các TBDH hiện đại đạt chất lượng cao, cần thiết cho nhu
cầu phát triển mỗi nước như Tiệp Khắc, Hungari, Pháp, Mỹ,


Đức,…
- Các nghiên cứu trong nước
Năm 2005, chủ nhiệm đề tài Ngô Quang Sơn đã bảo vệ
thành công đề tài cấp Bộ về: “Một số biện pháp quản lý nhằm
nâng cao hiệu quả sử dụng thiết bị giáo dục, ứng dụng công
nghệ thông tin và truyền thông tại các trung tâm GDTX và
trung tâm học tập cộng đồng” mã số B 2004-53-17; Tác giả
khẳng định vai trò quan trọng của TBDH trong các hoạt động
giảng dạy, giáo dục và học tập, đó là “… TBDH là một bộ
phận, là một thành tố, vừa là một phương tiện, một phương
hướng, vừa hàm chứa nội dung của quá trình dạy học, đồng thời
tạo hứng thú nhận thức cho học viên. TBDH là một trong
những điều kiện giúp giáo viên và học viên thực hiện tốt

phương châm dạy học phát huy tính tích cực của học viên, tích
cực hóa quá trình nhận thức, quá trình tư duy của học viên lớn
tuổi…”, đồng thời tác giả đã đưa ra hệ thống 8 giải pháp quản
lý nhằm nâng cao hiệu quả của việc trang bị, sử dụng và bảo
quản TBDH.
Năm 2008, luận văn Thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Thu
Hằng, Sở Giáo dục và Đào tạo Hải Phòng với đề tài “Biện


pháp quản lý CSVC trường học ở các trường THPT chuẩn
quốc gia của Thành phố Hải Phòng”. Tác giả đã đề xuất một
số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này
trên địa bàn nói chung và trong các trường THPT chuẩn quốc
gia nói riêng…
Năm 2013, luận văn Thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị
Thanh, tỉnh Hưng Yên với đề tài “Quản lý thiết bị dạy học ở
các trường THPT huyện Thi Ân, tỉnh Hưng Yên”. Tác giả đã
đề xuất 6 biện pháp quản lý TBDH.
Ở nước ta TBDH còn thiếu, thiết bị lạc hậu, thiết bị sản
xuất kém chất lượng, trang bị chưa đồng bộ, nguồn lực cho
việc trang bị còn hạn chế do điều kiện kinh tế - xã hội còn khó
khăn, chênh lệch giữa vùng miền lớn .... Vì vậy, các nhà
QLGD cần nghiên cứu thực trạng TBDH của đơn vị mình, để
vận dụng mọi nguồn lực có thể của địa phương, đơn vị, trang
bị, sử dụng và bảo quản TBDH phù hợp, tiết kiệm, hiệu quả.
- Một số khái niệm cơ bản của đề tài
-Quản lý
Có nhiều quan điểm khác nhau về quản lý.
Ở góc độ quản lý với tư cách là một chức năng xã hội



dưới dạng chung nhất thì quản lý được xác định là cơ chế để
thực hiện sự tác động có mục đích nhằm đạt được những kết
quả nhất định. Đề cập đến hoạt động quản lý người ta thường
nhắc đến ý tưởng sâu sắc của K.Marx: Một nghệ sĩ vĩ cầm thì
tự điều khiển mình còn dàn nhạc thì cần nhạc trưởng.
K.Marx coi việc xuất hiện của quản lý như một dạng
hoạt động đặc thù của con người được gắn liền với sự phân
công và hợp tác lao động quản lý là kết quả tất yếu cảu sự
chuyển những quá trình lao động cá biệt, tản mạn, độc lập với
nhau thành một quá trình lao động xã hội được tổ chức lại:
Trong tất cả những công việc mà có nhiều người hợp tác với
nhau thì mối liên hệ chung và sự thống nhất của quá trình tất
phải thể hiện ra ở trong một ý chí điều khiển và trong những
chức năng không có quan hệ với toàn bộ hoạt động của công
xưởng, cũng giống như trường hợp nhạc trưởng của một dàn
nhạc vậy. Đó là một thứ lao động sản xuất cần phải được tiến
hành trong một phương thức sản xuất có tính chất kết họ.
Theo F.W.TayLo (1856-1915) người Mỹ được coi là cha
đẻ của Thuyết quản lý khoa học, là một trong những người
mở ra kỷ nguyên vàng trong quản lý đã thể hiện tư tưởng cốt
lõi của mình trong quản lý là: “Mỗi loại công việc dù nhỏ


nhất đều phải quản lý chặt chẽ”. Ông cho rằng: “Quản lý là
biết được chính xác điều bạn muốn người khác làm và sau đó
hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất,
rẻ nhất”.
Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu về khoa học quản lý
cũng bàn nhiều về khái niệm quản lý.

Theo tác giả Trần Kiểm thì: “Quản lý là những tác động
của chủ thể quản lý trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử
dụng, điều chỉnh, điều phối các nguồn lực (nhân lực, vật lực,
tài lực) trong và ngoài tổ chức một cách tối ưu nhằm đạt được
mục đích cảu tổ chức với hiệu quả cao nhất”.[18, tr.6]
Trong giáo trình Khoa học tổ chức và quản lý – một số
vấn đề lý luận và thực tiễn, các tác giả cho rằng “Quản lý là
một quá trình lập kế hoạch, tổ chức, hướng dẫn và kiểm tra
những nổ lực của các thành viên trong một tổ chức và sử dụng
các nguồn lực của tổ chức để đạt được những mục tiêu cụ
thể”.[3, tr.94]
Đề cập đến vấn đề quản lý, tác giả Đặng Vũ Hoạt và tác
giả Hà Thế Ngữ cho rằng. “Quản lý là một quá trình định
hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý một hệ thống nhằm đạt


được những mục tiêu nhất định”.[25, tr.92]
Theo các quan niệm về quản lý ở trên, tuy có cách tiếp
cận khác nhau, nhưng có thể thấy rõ những nội dung bao hàm
một nghĩa chung, đó là:
- Quản lý là công tác phối hợp giữa các cá nhân trong
một tổ chức hoạt động sao cho hiệu quả để đạt mục tiêu chung
của tổ chức đó đặt ra.
- Quản lý có mối liên hệ được thể hiện giữa hai bộ phận
là chủ thể quản lý và đối tượng bị quản lý. Chủ thể quản lý tác
động liên tục có tổ chức, có định hướng thông qua một hệ
thống luật lệ, nguyên tắc và biện pháp cụ thể là cho một tổ
chức vận hành đúng mục tiêu, có hiệu quả.
Như vậy, có thể hiểu: quản lý là sự tác động có ý thức,
có định hướng, chủ chủ đích của chủ thể quản lý lên đối

tượng quản lý làm cho tổ chức vận hành đúng mục tiêu chung
của tổ chức đề ra của nhà quản lý.
Quản lý gồm 4 chức năng cơ bản:
Kế hoạch: lập kế hoạch là chức năng đầu tiên của quản
lý, là tập hợp những mục tiêu có các nội dung cơ bản với


những nội dung hoạt động, chương trình hành động cụ thể và
các phương thức hoạt động để đạt được các mục tiêu đã hoạch
định trước khi tiến hành thực hiện các nội dung do chủ thể
quản lý đặt ra. Kế hoạch đề ra xuất phát từ tình hình cụ thể
của tổ chức và những mục tiêu định sẵn của tổ chức có thể
hướng tới và đạt theo mong muốn mục tiêu đó, dưới sự tác
động có định hướng của chủ thể quản lý.
Tổ chức: Là sắp xếp, bố trí công việc một cách khoa
học và phải phù hợp với các nguồn lực như: nhân lực, vật lực,
tài lực của một hệ thống, nhằm đảm bảo cho chúng tương tác
với nhau để họ có thể đạt được các mục tiêu của hệ thống hiệu
quả nhất, tối ưu nhất.
Chỉ đạo: Có chức năng tác nghiệp, điều khiển, điều
chỉnh, tác động, điều hành hoạt động của hệ thống nhằm thực
hiện đúng kế hoạch đã định. Trong quá trình chỉ đạo phải bám
sát các hoạt động, vận hành của hệ thống đúng tiến trình,
đúng kế hoạch, đồng thời phát hiện các sai sót để kịp thời uốn
nắn, điều chỉnh, sửa chữa để không làm thay đổi mục tiêu mà
kế hoạch đã đề ra.
Kiểm tra: Là quá trình thu thập những thông tin ngược


của hệ thống để đánh giá, xem xét trạng thái của hệ thống,

xem toàn bộ kế hoạch, mục tiêu của hệ thống đã đạt đến đâu?
Quá trình kiểm tra kịp thời phát hiện những sai sót, điều
chỉnh, sửa chữa mục tiêu và tìm ra nguyên nhân thành công,
thất bại để rút ra bài học kinh nghiệm trong thời gian tới của
chủ thể quản lý.
Tổng hợp tất cả các chức năng quản lý, ta thấy chúng có
mối quan hệ mật thiết, chặt chẽ với nhau trong quá trình quản
lý, bắt đầu từ việc xác định mục tiêu, nhiệm vụ quản lý cho
đến khi kiểm tra kết quả đạt được và tổng kết quá trình quản
lý. Trong mỗi qúa trình quản lý xảy ra tại một thời gian cụ thể
của chu trình quản lý nhất định, các chức năng kế tiếp nhau và
độc lập với nhau chỉ mang tính tương đối, một số chức năng
có thể xảy ra đồng thời hoặc kết hợp với việc thực hiện các
chức năng khác.
Mối quan hệ theo chu trình như sau:
Kế hoạch

Kiểm tra

Thông tin QL

Chỉ đạo

Tổ chức


- Mối quan hệ của các chức năng trong một chu trình quản lý
-Quản lý giáo dục
Giáo dục là một bộ phận của xã hội, là quá trình đào tạo
con người một cách có mục đích, nó được thực hiện bằng

cách tổ chức việc truyền thụ và lĩnh hội những kinh nghiệm
lịch sử, xã hội loài người.
Mỗi xã hội, mỗi hoàn cảnh lịch sử cụ thể bao giờ cũng
có một nền giáo dục tương ứng; trong đó mục đích, nhiệm vụ,
nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục phản
ảnh quy định hoàn cảnh lịch sử, của toàn xã hội đối với giáo
dục. Những tinh hoa văn hoá của xã hội loài người đều được
giáo dục chuyển tải tới thế hệ trẻ nhằm giúp họ mọi khả năng
tham gia mọi hoạt động xã hội, góp phẩn cải tiến và phát triển
xã hội. Giáo dục có thể được xem như một hệ thống có tính
xã hội khi xuất phát từ nhiều góc độ khác nhau.


Do mỗi phương thức xã hội đều có một cách quản lý
khác nhau, cho nên QLGD đã ra đời và hình thành nên từ
nhiều quan niệm khác nhau.
Ở các nước phát triển TBCN, do vận dụng quản lý xí
nghiệp vào quản lý cơ sở giáo dục (trường học) nên QLGD
được coi như một loại “xí nghiệp đặc biệt”.
Ở các nước XHCN, do vận dụng quản lý xã hội vào
QLGD, nên QLGD thường được xếp trong lĩnh vực quản lý
văn hoá, tư tưởng, tinh thần.
Trong cuốn: “Cơ sở lý luận của khoa học QLGD”, tác
giả M.I.Kônđacốp định nghĩa “QLGD là tập hợp các biện
pháo tổ chức cán bộ, giáo dục, kế hoạch hoá, tài chính nhằm
đảm bảo sự vận hành bình thường của các cơ quan hệ thống
giáo dục để tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về mặt
số lượng cũng như chất lượng”. [20, tr.22].
Ở Việt Nam, QLGD cũng là một lĩnh vực được các nhà
khoa học đặc biệt quan tâm:

Theo tác giả Đặng Quốc Bảo thì: “QLGD theo nghĩa
tổng quát là hoạt động điều hành phối hợp của các lượng xã


hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu
xã hội”. [1, tr. 31].
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: “QLGD thực
chất là tác động đến nhà trường, làm cho nó tổ chức tối ưu
được quá trình dạy học, giáo dục thể chất theo đường lối,
nguyên lý giáo dục của Đảng, quán triệt được những tính chất
trường trung học phổ thông xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bằng
cách đó tiến tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái chất
lượng mới” [28, tr. 75].
Tác giả Đỗ Hoàng Toàn quan niệm: “QLGD là tập hợp
những biện pháp tổ cwhcs, phương pháp giáo dục, kế hoạch hoá
tài chính, cung tiêu… nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường
của các cơ quan trong hệ thống giáo dục, đảm bảo sự tiếp tục
phát triển và mở rộng hệ thống cả về mặt số lượng, cũng như về
chất lượng” [35, tr.29].
Theo tác giả Trần Kiểm: “QLGD là những tác động có
hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và hướng đích của chủ thể
quản lý ở mọi cấp khác nhau đến tất cả các mắc xích của toàn
hệ thống nhằm mục đích đảm bảo sự hình thành nhân cách
cho thế hệ trẻ trên cơ sở quy luật của quá trình giáo dục về sự


phát triển thể lực, trí lực và tâm lực của trẻ”. [18, tr. 341].
Từ những quan điểm nêu trên, QLGD tuy có thể khái
quát một quan điểm chung, đó là:
Hoạt động QLGD là tác động có hệ thống, có kế hoạch,

có ý thức, có mục đích của chủ thể quản lý lên đối tượng bị
quản lý theo những quy luật khách quan nhằm đưa các hoạt
động sư phạm trong hệ thống giáo dục đạt tới những kết quả
mong muốn.
Mục tiêu của QLGD là trạng thái mong muốn ở tương
lai với hệ thống giáo dục của xã hội đó đối với trường học
hoặc thông số chủ yếu của hệ thống giáo dục trong mỗi nhà
trường được xác định trên cơ sở đáp ứng các mục tiêu phát
triển kinh tế xã hội theo từng giai đoạn của đất nước.
-Quản lý nhà trường
Nhà trường là một thiết chế xã hội chuyên biệt nhằm
thực hiện chức năng tái tạo, phát triển nhân cách con người,
duy trì và phát triển của xã hội, của thế hệ sau hơn thế hệ
trước theo những dấu hiệu phân biệt: tính mục đích tập trung,
tổ chức, kế hoạch cao; tính hiệu quả giáo dục và đào tạo nhờ


quá trình truyền thụ có ý thức; tính biệt lập tương đối; tính
chuyên biệt cho từng đối tượng. Trên cơ sở quan niệm về
quản lý giáo dục, ta nhận thấy:
- Quản lý nhà trường là tập hợp những tác động có mục
đích, có kế hoạch, phù hợp với quy luật của chủ thể quản lý
làm cho Nhà trường thực hiện có chất lượng về mục tiêu, kế
hoạch đào tạo, đưa nhà trường phát triển, góp phần vào mục
tiêu chung của giáo dục; nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
- Quản lý nhà trường thực chất là quá trình quản lý lao
động sư phạm của thầy, hoạt động học tập và tự giáo dục của
trò diễn ra chủ yếu trong quá trình dạy học. Cũng có thể hiểu

là một chuỗi tác động có mục đích, có hệ thống, có kế hoạch,
tự giác mang tính tổ chức - sư phạm của chủ thể quản lý đến
tập thể giáo viên, học sinh, lực lượng giáo dục trong và ngoài
nhà trường cùng cộng tác, phối hợp, tham gia để vận hành tối
ưu mọi hoạt động của nhà trường để đạt mục tiêu đề ra.
Quản lý tác nghiệp giáo dục và quá trình hành nghề quản
lý giáo dục mà đơn vị tác nghiệp trực tiếp trong giáo dục là


nhà trường.
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường (Việt
Nam) là thực hiện quan điểm, đường lối giáo dục của Đảng
(trong phạm vi trách nhiệm) trong việc thực hiện các hoạt
động khai thác, sử dụng, tổ chức thực hiện các nguồn lực và
những tác động của chủ thể quản lý đến các thành tố của quá
trình giáo dục diễn ra trong nhà trường, đưa nhà trường vận
hành theo nguyên lý giáo dục để đạt tới mục tiêu giáo dục –
mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ”.[14,tr 24]
Tác giả Phạm Viết Vượng quan niệm: “Quản lý nhà
trường là hoạt động của các cơ quan quản lý nhằm tập hợp và
tổ chức các hoạt động của giáo viên, học sinh và các lực
lượng giáo dục khác, cũng như huy động tối đa các nguồn lực
giáo dục để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trong
nhà trường”. [36, tr 72]
Trường học là một đơn vị đào tạo, một tổ chức tập hợp
những con người (giáo viên, nhân viên, học sinh) mà hoạt
động của họ đều nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục.
Điều đó tạo cho họ một sự liên kết chặt chẽ cơ chế hoạt
động theo tính quy luật cả khách quan, cả chủ quan và cả hoạt



động quản lý của chính bản thân giáo viên và học sinh. Trong
nhà trường giáo viên và học sinh không những là khách thể
mà còn là chủ thể quản lý. Với khách thể là quản lý, giáo viên
và học sinh là đối tượng tác động của chủ thể quản lý là hiệu
trưởng, phó hiệu trưởng. Với chủ thể là quản lý, giáo viên và
học sinh là người tham gia chủ động, tích cực vào hoạt động
quản lý và biến toàn bộ hệ thống thành hệ tự quản.
-Thiết bị dạy học ở trường phổ thông
-Khái niệm về cơ sở vật chất sư phạm
Cơ sở vật chất sư phạm là tất cả các phương tiện vật chất
được huy động vào việc giảng dạy, học tập và các hoạt động
mang tính giáo dục khác để đạt được mục đích giáo dục. Hệ
thống CSVC sư phạm bao gồm: các công trình xây dựng (với
các lớp học, phòng thí nghiệm, văn phòng làm việc, thư viện,
nhà đa năng, nhà vệ sinh...), sân chơi, sân thể dục thể thao,
vườn thực nghiệm, trang bị chuyên dùng, thiết bị dạy học các
bộ môn, các phương tiện nghe nhìn...phục vụ việc giảng dạy
và học tập. Tính đa dạng, phong phú của hệ thống này tạo nên
sự phức tạp về mặt kỹ thuật, không đồng bộ, không ổn định
trong quản lý và sử dụng.
-Khái niệm về thiết bị dạy học
a. Thiết bị dạy học là gì?


Theo Lotx.Klinbơ (Đức) thì: “TBDH (hay còn gọi là đồ
dùng dạy học, thiết bị dạy học, dụng cụ…) là tất cả những
phương tiện vật chất cần thiết cho giáo viên và học sinh tổ
chức và tiến hành hợp lý, có hiệu quả quá trình giáo dưỡng và
giáo dục ở các môn học, cấp học”.

Theo các chuyên gia thiết bị giáo dục của Việt Nam:
“TBDH là thuật ngữ chỉ một vật thể hoặc một tập hợp đối
tượng vật chất mà người giáo viên sử dụng với tư cách là
phương tiện điều khiển hoạt động nhận thức của học sinh, còn
đối với học sinh thì đó là các nguồn tri thức, là các phương
tiện giúp học sinh lĩnh hội các khái niệm, định luật, thuyết
khoa học… hình thành ở họ các kỹ năng, kỹ xảo, đảm bảo
phục vụ mục đích dạy học”.
TBDH là một bộ phận của CSVC trường học, TBDH
bao gồm những đối tượng vật chất cần thiết được giáo viên sử
dụng để điều khiển hoạt động nhận thức của học sinh thông
qua hoạt động dạy học; đồng thời nó là nguồn tri thức, là
phương tiện giúp học sinh lĩnh hội tri thức, hình thành kỹ
năng góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đạt được mục
tiêu dạy học.
Điều 1 Quy chế thiết bị giáo dục trong trường Mầm non,
phổ thông ban hành kèm theo Quyết định số 41/2000/QĐ-


BGDĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục - Đào tạo quy định: “Thiết
bị giáo dục bao gồm thiết bị phục vụ giảng dạy và học tập tại
lớp, thiết bị phòng thí nghiệm, thiết bị thể dục thể thao, thiết bị
nhạc, hoạ và các thiết bị khác trong xưởng trường, vườn trường,
phòng truyền thống, nhằm đảm bảo cho việc nâng cao chất
lượng dạy và học, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn
diện”.
Từ thực tế, có thể khái quát TBDH trong nhà trường
được quy định theo danh mục thiết bị tối thiểu được Bộ giáo
dục và Đào tạo ban hành năm 2010 gồm: Tranh ảnh, bản đồ,
lược đồ; dụng cụ; mẫu vật; mô hình; phần mềm; băng đĩa; hóa

chất thiết bị dùng chung (đầu đĩa, tivi, đài, máy tính, máy
chiếu, máy ảnh,…). Ngoài ra nhà trường còn có TBDH tự
làm.
Tuy nhiên, TBDH được sử dụng trong quá trình dạy học
và giáo dục cần phải đảm bảo các yêu cầu và tính chất của
TBDH:
-

TBDH phải phù hợp với đối tượng: TBDH phải phù hợp
với khả năng và đặc điểm tư duy của học sinh.

-

TBDH phải đảm bảo tính khoa học: TBDH phải phù hợp


vào khả năng và đặc điểm tư duy của học sinh.
-

TBDH phải đảm bảo tính sư phạm: TBDH phải phù hợp
với các yêu cầu về mặt sư phạm như độ rõ, kích thước, màu sắc,
dễ sử dụng, phù hợp tâm lí học sinh.

-

TBDH phải đảm bảo tính thẩm mỹ, khả thi và an toàn.

-

TBDH phải đảm bảo tính kinh tế: TBDH có giá thành

tương xứng với hiệu quả giáo dục - đào tào, hợp lí với chất
lượng sản phẩm.
Như vậy, TBDH có thể đơn giản hay hiện đại nhưng qua
sử dụng nó phải cho hiệu quả giáo dục - đào tạo, hợp lí với
chất lượng sản phẩm, nó phải cho kết quả khoa học, đảm bảo
yêu cầu về mặt mỹ quan, sư phạm, an toàn và giá cả hợp lí,
tương xứng với hiệu quả mà nó mang lại và không nhất thiết là
những thiết bị đắt tiền.
b. Phân loại thiết bị dạy học
Thiết bị dạy học trong nhà trường hiện nay là đa dạng,
phong phú. Việc phân loại cũng có nhiều cách khác nhau:
- Phân loại theo cách sử dụng: Thiết bị dùng trực tiếp:
bảng, phấn, các thiết bị nghe nhìn, máy chiếu, máy chiếu vật
thể, bảng tương tác, máy vi tính, các thiết bị hỗ trợ, thiết bị


ghi chép và các thiết bị khác
- Phân loại theo góc độ xuất xứ:
+ TBDH được làm theo phương pháp công nghệ: sản
xuất theo yêu cầu của ngành giáo dục, số lượng lớn trang bị
trong nhà trường như các bộ thí nghiệm đồng bộ, bản đồ,
tranh ảnh, mô hình, mẫu vật, dụng cụ máy móc, bộ đồ dùng
thí nghiệm, hóa chất…, có tính kỹ thuật cao, có giá trị sử
dụng lâu dài.
+ TBDH tự làm bằng thủ công: do giáo viên tự làm,
thiếu thẩm mỹ, độ chính xác kém, độ bền không cao.
- Phân loại dựa theo mức độ phức tạp trong chế tạo:
+ Không phức tạp: thường thầy cô giáo tự thiết kế, tự
làm phục vụ cho bài dạy của môn học, giá rẻ; dễ cải tiến, tuổi
thọ ngắn.

+ Phức tạp: do một nhóm người làm, mất thời gian, được
dùng phổ biến, có tài liệu hướng dẫn, giá thành cao, tuổi thọ
dài.
- Phân loại theo sự tác động lên các giác quan: Các thiết
bị nghe, nhìn được dùng chung, nhiều người sử dụng, người
học lĩnh hội được các kiến thức nhờ vào sự quan sát các hình
ảnh trên thiết bị.
- Phân loại theo tính chất: Máy chiếu, máy chiếu đa vật
thể, ti vi, bảng tương tác thông minh... mỗi thiết bị đều chứa
đựng một lượng thông tin nhất định. Các thiết bị này được


nghiên cứu, thiết kế theo các nguyên tắc sư phạm, khoa học
để truyền tải nội dung bài học thuận lợi, chính xác.
- Phân loại theo hình thức tồn tại TBDH: TBDH theo
nguyên mẫu hoặc mô phỏng theo nguyên mẫu, biểu trưng.
- Phân loại theo loại hình: Mô hình, mẫu vật, gồm: máy
móc, dụng cụ nguyên mẫu dùng chứng minh và thực hành
theo mục đích, nội dung bài học; tranh ảnh, sơ đồ, biểu bảng;
các bộ lắp ráp, hệ điều khiển điện, dụng cụ đo, hoá chất...
c. Vai trò của thiết bị dạy học trong đổi mới phương
pháp dạy học
Trong quá trình dạy học bao gồm 4 thành tố: “Mục tiêu,
nội dung, phương pháp và thiết bị dạy học”. TBDH là một
thành tố của quá trình dạy học, nó không thể thiếu trong quá
trình dạy học, sử dụng TBDH được thể hiện:
- Tính đảm bảo đầy đủ, chính xác thông tin về hiện
tượng, đối tượng nghiên cứu nhằm tăng chất lượng dạy học.
- Nâng cao tính trực quan - cơ sở của tư duy trừu tượng,
mở rộng khả năng tiếp cận với các đối tượng và hiện tượng.

- Giúp tăng tính hấp dẫn, kích thích, hứng thú nhận thức
của học sinh trong quá trình tiếp thu kiến thức; giúp gia tăng
cường độ lao động của học sinh, cho phép nâng cao nhịp độ
nghiên cứu tài liệu giáo khoa trong quá trình tiếp thu kiến


thức.
- Cho phép học sinh có điều kiện tự lực chiếm lĩnh tri
thức, hình thành kỹ năng kỹ xảo (tự nghiên cứu tài liệu, tự lắp
ráp thí nghiệm, tiến hành thí nghiệm để khai thác nguồn kiến
thức mới, lựa chọn câu trả lời, vận dụng…)
- Gắn bài học với đời sống thực tế, học gắn với hành,
nhà trường gắn với xã hội, hợp lý hoá quá trình dạy học, tiết
kiệm thời gian để mô tả. Giúp hình thành thế giới quan, nhân
sinh quan, rèn luyện tác phong làm việc khoa học.
- Mức độ tiếp thu kiến thức và kỹ năng của HS trong quá
trình dạy học phụ thuộc vào PPDH và việc sử dụng TBDH, ta
có thể tham khảo biểu đồ sau đây để thấy rõ hơn về vai trò
của TBDH trong việc tiếp thu kiến thức và kỹ năng của HS
(nguồn:

Quotes

on

Educatino,

www.

edu/dsimanek/


eduquote.htm)
Dạy người khác hoặc ứng dụng ngay
Thực hành

hiệu quả 75%

Thảo luận nhóm

hiệu quả 50%

Mô tả, trình bầy
Nghe nhìn
Đọc

hiệu quả 90%

hiệu quả 30%
hiệu quả 20%

hiệu quả 10%

Thuyết giảng
hiệu quả 5%


- Mô tả vai trò TBDH trong việc tiếp thu kiến thức kỹ năng
của HS
d. Nâng cao hiệu quả sử dụng thiết bị dạy học
Điều 2 Quy chế thiết bị giáo dục trong trường Mầm non,

phổ thông ban hành kèm theo Quyết định số 41/2000/QĐBGDĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục - Đào tạo quy định:
“Thiết bị giáo dục phải phù hợp với yêu cầu về nội dung và
phương pháp của chương trình giáo dục; đảm bảo tính khoa
học, tính sư phạm; an toàn cho người sử dụng, phù hợp với sự
phát triển tâm lý và sinh lý lứa tuổi học sinh”. Để nâng cao
hiệu quả sử dụng TBDH cần đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau:
- Sử dụng TBDH đúng mục đích: Mỗi TBDH có một
tính năng, tác dụng riêng, nên hoạt động dạy học của giáo


viên phải xác định TBDH phù hợp với nội dung bài giảng và
các thiết bị hiện có. Các hoạt động và TBDH giúp các em lĩnh
hội tri thức và tác động đến sự phát triển nhân cách, tâm lý
của học sinh.
- Sử dụng TBDH đúng lúc: Phải sử dụng đúng vào lúc
cần thiết, phù hợp với nội dung của bài học mà học sinh cần
thiết, mong muốn được quan sát (trước đó giáo viên đã dẫn
dắt, gợi mở, nêu vấn đề chuẩn bị), TBDH được sử dụng đúng
lúc, đúng nội dung và PPDH thì thu hút được sự chú ý của
học sinh và ngược lại sử dụng nhiều loại TBDH thì làm phân
tán sự chú ý của học sinh.
- Sử dụng TBDH đúng chỗ: Trước khi sử dụng cần để
TBDH dự kiến trình bày trong lớp học tại vị trí hợp lý nhất,
giúp học sinh có thể sử dụng nhiều giác quan nhất để có thể
tiếp nhận thông tin từ các TBDH đễ dàng nhất trong mọi vị trí
của lớp học. TBDH phải bố trí an toàn trong và ngoài giờ học,
tùy theo điều kiện ánh sáng mà lựa chọn TBDH phù hợp, đảm
bảo hiệu quả sử dụng.
- Sử dụng TBDH đúng mức độ và cường độ: Sử dụng
phù hợp với yêu cầu mỗi giờ lên lớp. Nếu sử dụng quá nhiều

thời gian trình diễn hoặc lặp lại một loại TBDH trong một tiết
học thì hiệu quả sẽ giảm sút, học sinh sẽ chán nản, kém tập


×