Tải bản đầy đủ (.docx) (57 trang)

CƠ sở lý LUẬN về sự PHỐI hợp GIỮA NHÀ TRƯỜNG và GIA ĐÌNH TRONG GIÁO dục đạo đức học SINH TRUNG học PHỔ THÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.67 KB, 57 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ PHỐI
HỢP GIỮA NHÀ TRƯỜNG VÀ
GIA ĐÌNH TRONG GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC HỌC SINH TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG


Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Các nghiên cứu ngoài nước
Từ lâu xã hội và các nhà giáo dục rất coi trọng về sự
phối hợp và quản lý phối hợp giữa nhà trường và gia đình
trong giáo dục học sinh.
Ở Liên Xô, các nhà giáo dục đã thấy được tầm quan
trọng của sự phối hợp và quản lý phối hợp giữa nhà trường và
gia đình trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục trong đó có
GDĐĐ. Sự thống nhất hợp tác giữa nhà trường và gia đình
không những định hướng tương lai mà còn là động lực mạnh
mẽ giúp cho học sinh có niềm tin trong học tập và trong rèn
luyện để hình thành nhân cách của mình như:
V.A. Xukhomlinxki (1918 – 1970) đã nói: “nếu gia đình
và nhà trường không có sự hợp tác để thống nhất mục đích,
nội dung giáo dục thì sẽ dẫn đến tình trạng “gia đình một
đường, nhà trường một nẻo”. Sự phối hợp các lực lượng giáo
dục nhà trường và gia đình vận dụng tuyệt đối những điều
kiện xã hội, tự nhiên vào quá trình giáo dục thế hệ trẻ đã được
ông chia sẻ rất nhiều kinh nghiệm. Những tác phẩm về


GDĐĐ như "Giáo dục con người chân chính như thế nào",
"Giáo dục cộng sản đối với lao động”có giá trị và được sử
dụng trong GD thế hệ trẻ”[22]


Nhà triết học nổi tiếng Xôcơrat trong tập nghị luận của
mình viết: “Những người nào biết cách sử dụng con người sẽ
điều khiển được công việc, hoặc cá nhân hay tập thể một cách
sáng suốt. Những người không biết làm như vậy sẽ mắc sai
lầm trong công việc”[22]
Vào đầu thế kỷ XXI, vai trò của cha mẹ trong việc phối
hợp với nhà trường để giáo dục trẻ đã đề cao ở một số nước
Phương Tây. Trích báo Tuổi trẻ ngày 13/11/2006, “Ông Alan
Johnson, Bộ trưởng Bộ Giáo dục Anh, trong bài phát biểu của
ông đã kêu gọi cha mẹ không nên phó thác việc chăm sóc,
giáo dục con em mình cho nhà trường. Ngược lại, ông khẳng
định vai trò của các bậc phụ huynh rất quan trọng, thậm chí sẽ
mang lại một “sự khác biệt lớn”so với những kết quả mà trẻ
đạt được từ trường học”[1]
Tác giả Ubanxkaia (Nga) với tác phẩm “Giáo viên và
công tác với gia đình”cũng đề cập đến công việc của Hiệu
trưởng với công tác phụ huynh bao gồm công tác quản lý hoạt


động phối hợp với gia đình, công tác tư vấn, giao tiếp trực
tiếp với PHHS và bồi dưỡng đội ngũ GV trong công tác phối
hợp với PHHS [37]
Tác giả Talcott Parsons trong tác phẩm “Hệ thống giáo
dục”năm 1951 cho rằng: “Giáo dục có vai trò như một môi
trường xã hội”có nghĩa là trong giáo dục học sinh phải có sự
phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội để từ đó hoàn
chỉnh được nhân cách của mỗi học sinh.”[11]
Các nhà quản lý người Mỹ Frederick Winslow Taylor
(1856-1915), Henry L.Gantt (1861-1919) và Henry Fayol
(1841-1925) người Pháp, Elton Mayo (1880 – 1949), Douglas

Mc Gregor (1906-1964), H.Abraham Maslow (1908-1970)…
trong tác phẩm “Các nguyên tắc quản lý một cách khoa
học”xuất bản lần đầu ở Mỹ năm 1911 đã thể hiện một quan
điểm thống nhất về vấn đề này. Quan điểm nhấn mạnh đến vai
trò của yếu tố tâm lý, tình cảm, quan hệ xã hội của con người
trong công việc trong đó các nhà quản lý này cũng đề cập đến
nhà quản lý với công tác phối giữa tổ chức và xã hội [21]
Học thuyết Z được một giáo sư người Mỹ gốc Nhật là
William Ouchi xây dựng trên cơ sở áp dụng cách quản lý của


Nhật Bản trong các công ty Mỹ. Lý thuyết này ra đời năm
1978, chú trọng đến quan hệ xã hội và yếu tố con người trong
tổ chức đặc biệt trong đó có mối quan hệ giữa nhà trường và
gia đình trong giáo dục học sinh[18]
Hội nghị quốc tế về Giáo dục năm 1990 cho tất cả mọi
người được tổ chức tại Jomtien (Thái Lan) và đưa ra tuyên bố
“Giáo dục cho tất cả mọi người và Chương trình hành động
để đáp ứng những nhu cầu học tập cơ bản của người dân”[11]
Tác giả Raja Roy Singh trong tác phẩm: “Nền giáo dục
cho thế kỷ hai mươi mốt”năm 1998 đã nói: “Giáo dục các giá
trị phải được bắt đầu từ gia đình và được hình thành theo
những giá trị của cha mẹ. Trách nhiệm của nhà trường là kết
hợp với gia đình nhưng dần dần cùng với sự phát triển của
trẻ”[19]
Tác giả Wheelen, T.M. and Hunger, J.D trong phân tích
các liên đới của quy trình tiến hành phân tích SWOT năm
2006 đã phân tích: “Đối với các trường phổ thông nhìn chung
liên đới chủ chốt mà nhà trường cần chú ý trong phát triển
chiến lược là học sinh, giáo viên, đội ngũ công nhân viên, cán

bộ quản lý và phụ huynh học sinh trong quản lý giáo dục”[14]


Vì vậy, sự phối hợp và quản lý phối hợp giữa nhà trường
và gia đình rất quan trọng trong việc giáo dục học sinh đặc
biệt là nâng cao GDĐĐ. Sự hợp tác nhịp nhàng giữa cha mẹ
và thầy cô giáo không những định hướng mà còn là động lực
giúp cho trẻ có niềm tin vững chắc trong quá trình học tập và
rèn luyện đạo đức của bản thân.
Các nghiên cứu trong nước
Các công trình nghiên cứu về phối hợp giữa nhà trường
và gia đình như:
“Phối hợp việc giáo dục gia đình với nhà trường và các
thể chế xã hội khác”của tác giả Phạm Khắc Chương (chủ
biên) do Nxb Giáo dục xuất bản năm 1998.
“Phối hợp việc giáo dục của gia đình với nhà trường và
các thể chế xã hội khác”, chương 3 giáo trình Giáo dục gia
đình, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội năm 1999 của Bộ Giáo
dục và Đào tạo”(Giáo trình đào tạo giáo viên THCS).
“Gia đình và những vấn đề của gia đình hiện đại”của tác
giả Trần Thị Kim Xuyến (Nxb Thống kê, thành phố Hồ Chí
Minh, năm 2001). Nội dung cuốn sách gồm hai phần. Phần


thứ nhất trình bày những tranh luận về những vấn đề chung
nhất có liên quan đến những thành quả nghiên cứu xã hội học
về gia đình trong quá khứ và hiện tại, những cơ sở lý luận và
phương pháp luận trong nghiên cứu xã hội học về gia đình.
Phần thứ hai trình bày những kết quả phân tích dựa trên
những nghiên cứu lý luận và thực nghiệm của tác giả về

những vấn đề của gia đình đương đại.
“Những gì đang cản trở việc kết hợp giữa nhà trường,
gia đình và xã hội trong công tác giáo dục học sinh”đăng
trong tạp chí Giáo dục số 10, tháng 8/2001 của tác giả
Nguyễn Sinh Huy đã nêu: việc kết hợp giữa nhà trường, gia
đình và xã hội từ lâu được xem là nguyên lý cơ bản của giáo
dục, vận dụng và quán triệt được điều đó vào hoạt động thực
tiễn sẽ đảm bảo cho giáo dục giữ vững được chất lượng, phát
triển lành mạnh và bền vững. Sự kết hợp giữa nhà trường và
gia đình luôn bị tác động của những cơ chế mới, nên các biện
pháp tác động trước đây ít hấp dẫn, kém hiệu quả và những
tác động của thương mại hóa giáo dục đang gặm nhấm những
giá trị cao quý, đẹp đẽ của sự kết hợp giáo dục vốn dĩ được
xem là lương tâm của đạo đức của thầy cô giáo và cha mẹ.
[36]


Những đề tài khoa học nghiên cứu trên các tác giả đã
đưa ra những cơ sở lý luận căn bản và nêu ra những mô hình
tổ chức thực hiện sự phối hợp các lực lượng GD góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục trong đó có GDĐĐ. Những
nghiên cứu đã chỉ được những lý luận về tính cấp thiết phải
phối hợp giữa hai cơ sở trực tiếp giáo dục là nhà trường và gia
đình, vai trò quan trọng của gia đình trong việc giáo dục con
em, sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình cần phải có sự
thống nhất cao và nhịp nhàng.
Bên cạnh những tài liệu có tính kinh điển nêu trên, trong
những năm gần đây, nhiều tác giả cũng lựa chọn chủ đề này
để nghiên cứu trong các luận văn thạc sỹ chuyên ngành quản
lý giáo dục, như:

Luận văn thạc sỹ quản lý giáo dục của tác giả Phạm Thị
Minh Tâm (2007), “Một số biện pháp tổ chức phối hợp các
lực lượng giáo dục trong công tác giáo dục cho học sinh
trường THPT”đã nêu lên tầm quan trọng trong tổ chức phối
hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong GD học sinh
THPT.


Luận văn thạc sỹ quản lý giáo dục của tác giả Trần Anh
Dân (2009), “Biện pháp quản lý của lãnh đạo trường trung
học phổ thông về việc phối hợp giữa nhà trường, gia đình và
xã hội trong giáo dục ở thành phố Thái Bình hiện nay”khẳng
định trong giáo dục học sinh các nhà quản lý phải có công tác
phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội.
Luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục của tác giả Nguyễn
Thị Cảnh Dương Đại học sư phạm Hà Nội, 2010 với tựa đề:
“Biện pháp quản lý sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình
việc giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ
thông”khẳng định trong GDĐĐ học sinh trung học phổ thông
phải có sự phối hợp giữa hai cơ sở trực tiếp giáo dục (nhà
trường, gia đình).
Luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục của tác giả Nguyễn
Thanh Thu Thủy Đại học sư phạm Hà Nội, 2012 với tựa đề:
“Các biện pháp quản lý hoạt động phối hợp giáo dục giữa nhà
trường và gia đình ở các trường THPT huyện Lạc Dương Lâm Đồng”đã nêu lên tầm quan trọng của hoạt động phối hợp
giáo dục giữa nhà trường và gia đình.


Luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục của tác giả Trương
Hải Thanh Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, 2013

với tựa đề:”Thực trạng quản lý hoạt động phối hợp giữa nhà
trường và gia đình ở các trường THPT tỉnh Bình Dương”cũng
một lần nữa khẳng định tầm quan trọng trong công tác phối
hợp để GD học sinh THPT.
Như vậy, có nhiều đề tài nghiên cứu về quản lý giáo dục
đặc biệt GDĐĐ học sinh ở các trường học. Tuy nhiên, đề tài
nghiên cứu về nghiên cứu việc biện pháp quản lý phối hợp
giữa nhà trường và gia đình trong GDĐĐ của lãnh đạo các
trường THPT trên địa bàn thành phố, huyện vùng cao sát với
đặc điểm tình hình kinh tế, văn hóa xã hội của từng địa
phương, để xác định được các biện pháp quản lý khả thi phù
hợp sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình trong giáo dục
đạo đức học sinh chưa đề cập đến. Chính vì lẽ đó, chúng tôi
tiến hành nghiên cứu đề tài khoa học "Phối hợp giữa nhà
trường và gia đình trong giáo dục đạo đức học sinh ở các
trường THPT huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng”là bước tiếp
tục làm phong phú thêm lý luận về quản lý giáo dục, đồng
thời cũng góp phần đề ra được một số biện pháp có hiệu quả,
thiết thực, đáp ứng được đòi hỏi của giáo dục Lâm Đồng; góp


phần nâng cao công tác GDĐĐ cho học sinh THPT trên địa
bàn huyện Đơn Dương tạo ra bước chuyển biến cơ bản về
chất lượng giáo dục theo hướng tiếp cận trình độ thế giới,
phục vụ thiết thực cho sự phát triển kinh tế trong thời kỳ hội
nhập của đất nước.
Một số khái niệm công cụ
- Quản lý, quản lý giáo dục và quản lý nhà trường
- Khái niệm “Quản lý”
Quản lý là một trong những hoạt động cơ bản nhất của

con người, trở thành hoạt động phổ biến và diễn ra trên nhiều
lĩnh vực, mọi cấp độ như phạm vi cá nhân, quốc gia, tập
đoàn,.... Có rất nhiều cách khác nhau tiếp cận khái niệm quản
lý:
Theo Taylor PH.W (1856 – 1915), đã định nghĩa: “Quản
lý là biết chính xác điều bạn muốn người khác làm và sau đó
hiểu được rằng đã hoàn thành công việc một cách tốt
nhất”[31]
Theo Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt: “Quản lý là một
quá trình định hướng, quá trình có mục tiêu. Quản lý một hệ


thống là một quá trình tác động đến hệ thống nhằm đạt đạt
được những mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này đặc
trưng cho trạng thái mới của hệ thống mà người quản lý mong
muốn.”[20].
Theo Bùi Minh Hiền: “Quản lý là sự tác động có tổ
chức, có định hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng
quản lý nhằm đạt được mục tiêu đề ra”[12]
Theo “Từ điển Tiếng Việt”của Viện Ngôn Ngữ học Việt
Nam năm 2005: “Quản lý là trông coi và gìn giữ theo những
nhu cầu nhất định, tổ chức và điều khiển các hoạt động theo
những nhu cầu nhất định”[38]
Từ các khái niệm khác nhau về quản lý, có thể hiểu một
cách khái quát: Quản lý là sự tác động có tổ chức, có định
hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm
đạt được mục tiêu đề ra.
- Khái niệm “Quản lý giáo dục”
Cũng như khái niệm Quản lý, khái niệm Quản lý giáo
dục (QLGD) có rất nhiều tác giả nêu ra và bàn luận như:



Theo P.V.Khuđôminxki (nhà lý luận Xô Viết): “Quản lý
giáo dục là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và có
mục đích của các chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến các
khâu của hệ thống (từ Bộ giáo dục đến nhà trường) nhằm mục
đích đảm bảo việc giáo dục Cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ
trẻ, đảm bảo phát triển toàn diện cho thế hệ trẻ, bảo đảm phát
triển toàn diện và hài hòa của họ”[31]
Theo tác giả Trần Kiểm: “Giáo dục và quản lý giáo dục
là tồn tại song hành. Nếu nói giáo dục là hiện tượng xã hội tồn
tại lâu dài cùng với xã hội loài người thì cũng có thể nói như
thế về quản lý giáo dục”. Ở cấp độ vĩ mô ông cho rằng: “quản
lý giáo dục được hiểu là những tác động tự giác (có ý thức có
mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể
quản lý đến tất cả các mắc xích của hệ thống (từ cấp cao đến
các hệ thống giáo dục nhà trường) nhằm thực hiện có chất
lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển giáo dục, đào tạo thế trẻ
mà xã hội đặt ra cho ngành giáo dục”. Ở cấp độ vi mô, ông
cho rằng: “quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống những tác
động tự giác tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có
hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến tập thể giáo
viên, tập thể học sinh, cha mẹ học sinh và các lực lượng xã


hội trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng
và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường”[35]
Tóm lại, “QLGD là hoạt động điều hành, phối hợp giữa
các lực lượng theo yêu cầu phát triển xã hội nhằm đẩy mạnh
công tác đào tạo thế hệ trẻ”

- Khái niệm “Quản lý nhà trường”
Theo Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý nhà trường là một
tập hợp những tác động tối ưu của chủ thể quản lý đến tập thể
giáo viên, học sinh và cán bộ khác, nhằm tận dụng các nguồn
dự trữ do nhà nước đầu tư, lực lượng xã hội đóng góp và do
lao động vốn tự có. Hướng vào việc đẩy mạnh mọi hoạt động
của nhà trường mà điểm hội tụ là quá trình đào tạo thế hệ trẻ.
Thực hiện có chất lượng mục tiêu và kế hoạch đào tạo, đưa
nhà trường tiến lên trạng thái mới.”[24]
Các cấp quản lý trường học từ Trung ương đến địa
phương là Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT và Phòng GD&ĐT. Cơ
quan quản lý trong các nhà trường là cấp quản lý quan trọng
và trực tiếp hoạt động giáo dục.
Mục đích của quản lý nhà trường:


“Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối của Đảng
trong phạm vi trách nhiệm của mình, đưa nhà trường vận
hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục,
mục tiêu đào tạo đối với thế hệ trẻ và đối với từng học sinh”.
Quá trình giáo dục và đào tạo hoạt động một cách tối ưu mục
tiêu dự kiến là mục đích của quản lý nhà trường [29]
Quản lý nhà trường là đưa nhà trường từ một trạng thái
hiện tại lên một trạng thái tương lai. Với nhiều phương thức
khác nhau phát triển mạnh mẽ và định hướng các nguồn lực
giáo dục phục vụ cho việc phát triển chất lượng giáo dục đạt
hiệu quả nhất để sinh ra một thế hệ tương lai sáng tạo, năng
động, tự chủ, biết sống và phấn đấu cho bản thân, gia đình và
xã hội.
Tóm lại, “Quản lý nhà trường thực chất là việc xác định

vị trí của mỗi người trong hệ thống xã hội, là quy định chức
năng, quyền hạn, nghĩa vụ, quan hệ cùng vai trò xã hội của
họ mà trước hết là trong phạm vi nhà trường với tư cách là
một tổ chức xã hội”[35]
- Giáo dục, giáo dục đạo đức
- Giáo dục


Giáo dục được hiểu theo nghĩa rộng là quá trình tác động
có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch, có nội dung và bằng
phương pháp khoa học của nhà giáo dục tới người được giáo
dục trong nhà trường (cơ quan giáo dục) nhằm hình thành
nhân cách cho học sinh.
Giáo dục được hiểu theo nghĩa hẹp đó là quá trình hình
thành cho người được giáo dục lý tưởng, động cơ, tình cảm,
niềm tin, những nét tính cách, những hành vi, thói quen cư xử
đúng đắn trong xã hội.
- Giáo dục đạo đức
GDĐĐ là quá trình tác động của chủ thể GD đến người
được GD nhằm biến ý thức đạo đức thành tình cảm, hành vi
và thói quen đạo đức. Quá trình GDĐĐ có sự tham gia của
thành phần (gia đình, nhà trường, xã hội, ...) trong đó nhà
trường giữ vai trò đặc biệt quan trọng, quá trình này tác động
liên tục và lâu dài. Phẩm chất đạo đức của học sinh được hình
thành là sự tác động của yếu tố khách quan và chủ quan, là tác
động của nhà giáo dục và tự rèn luyện của học sinh.
Theo Đặng Vũ Hoạt và Hà Thế Ngữ: “Giáo dục đạo đức
là quá trình biến các chuẩn mực đạo đức từ những đòi hỏi bên



ngoài xã hội đối với cá nhân thành những đòi hỏi bên trong
của bản thân, thành niềm tin, nhu cầu, thói quen của người
được giáo dục”[20]
Trong quá trình giáo dục tổng thể của nhà trường có một
bộ phận hoạt động GDĐĐ gắn liền với các hoạt động giáo
dục khác giúp hình thành và phát triển nhân cách toàn diện
cho học sinh. Giáo dục tư tưởng, giáo dục truyền thống và bản
sắc văn hóa dân tộc và giáo dục pháp luật XHCN không thể
tách rời với GDĐĐ cho học sinh, chúng tác động qua lại lẫn
nhau. Trong quá trình GDĐĐ cho học sinh thì các chuẩn mực
đạo đức được xã hội thừa nhận phải đảm bảo tính thống nhất
và tính thực tiễn. GDĐĐ chỉ đạt hiệu quả cao khi có sự thống
nhất phối hợp giữa các lực lượng tham gia giáo dục (nhà
trường, gia đình và xã hội).
Như vậy, GDĐĐ là trang bị cho học sinh những kiến
thức, ý thức đạo đức, niềm tin, lý tưởng, tình cảm đạo đức và
quan trọng nhất là hình thành cho học sinh hành vi, thói quen
đạo đức phù hợp với chuẩn mực xã hội trong quá trình tác
động có mục đích, có kế hoạch, có tổ chức của nhà sư phạm
đến người học và quá trình tự giáo dục, rèn luyện của học
sinh.


- Phối hợp, quản lý sự phối hợp
- Phối hợp
Theo “Từ điển Tiếng Việt”của Viện Ngôn Ngữ Học Việt
Nam năm 2005, “Phối hợp là cùng hành động hoặc hỗ trợ lẫn
nhau”[38]
Trong các công trình nghiên cứu về sự phối hợp giữa nhà
trường và gia đình trong công tác GD đạo đức HSTHPT, các

nhà nghiên cứu dùng các khái niệm: “hợp tác”, “kết hợp”,
“thống nhất”, “liên kết”; “phối hợp”,….. Theo “Từ điển Tiếng
Việt”của Viện Ngôn Ngữ Học Việt Nam năm 2005 các từ này
được định nghĩa như sau:
“- Hợp tác: là chung sức, trợ giúp qua lại với nhau.
Kết hợp: là gắn chặt với nhau để bổ sung cho nhau.
Thống nhất: là hợp lại thành một khối.
Liên kết: là kết hợp nhiều thành phần, nhiều tổ chức để
thực hiện.
Phối hợp: là cùng hành động, hoạt động hỗ trợ lẫn
nhau.”[38]


Các khái niệm trên có nghĩa tương đồng nhau, tuy nhiên
khái niệm “phối hợp”tái hiện rõ nét tổng thể những quan hệ về
tính thống nhất, chặt chẽ, liên tục, toàn vẹn của quá trình GD.
Vì thế trong luận văn này, tác giả sử dụng khái niệm phối hợp
giữa nhà trường và gia đình trong công tác GD học sinh.
Sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình có nghĩa là thầy
cô hợp tác, cùng thống nhất hành động với PHHS để thực hiện
giáo dục học sinh và trong đề tài này giới hạn là nâng cao chất
lượng GDĐĐ học sinh; thầy cô và PHHS hỗ trợ lẫn nhau trong
cùng một nhiệm vụ. Chủ thể phối hợp là hiệu trưởng (áp dụng
toàn trường), GVCN (từng lớp) và PHHS (trong đó có ban đại
diện phụ huynh học sinh).
Quản lý sự phối hợp
Tác giả Mary Parker Follett đã đến kết luận sau khi quan
sát trực tiếp hoạt động của người quản lý rằng: sự phối hợp là
điều kiện sống còn của quản lý hiệu quả. Tác giả đề xuất 4
nguyên tắc sau:

Thứ nhất, sự phối hợp sẽ thành đạt nhất nếu những
người chịu trách nhiệm ra quyết định có sự tiếp xúc với nhau.


Thứ hai, sự phối hợp ở những gia đoạn đầu có việc lập
kế hoạch và triển khai dự án có một ý nghĩa quyết định.
Thứ ba, sự phối hợp phải chú ý tới mọi nhân tố trong
một tình huống, hoàn cảnh cụ thể.
Thứ tư, sự phối hợp phải được duy trì liên tục.
Quá trình giáo dục vận hành đồng bộ, hiệu quả, tạo ra
bầu không khí hăng hái và thuận lợi nâng cao chất lượng GD
học sinh trong cơ sở giáo dục với gia đình và khắp mọi nơi
ngoài xã hội là mục tiêu của quản lý sự phối hợp.
Một lĩnh vực quản lý rất khó khăn, phức tạp đó là quản
lý sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình, nó đòi hỏi năng
lực quản lý vững vàng, toàn diện của nhà quản lý. Nhà quản
lý phải có khả năng vận dụng các biện pháp quản lý linh hoạt
và phải luôn là tấm gương sáng cho học sinh noi theo.
Quản lý sự phối hợp là một trong những nội dung quản
lý nhà trường của nhà quản lý; nhằm định hướng, tổ chức,
điều khiển và kiểm soát quá trình phối hợp giữa hai cơ sở giáo
dục trực tiếp học sinh thì nhà quản lý phải có những tác động
có ý thức đến người được quản lý để sự phối hợp đúng và


đảm bảo nguyên tắc quản lý về GD từ đó dẫn đến chất lượng
GD ngày càng nâng lên theo nhu cầu xã hội. Đây là một hoạt
động có kế hoạch, tổ chức, phân công và kiểm tra đánh giá
công tác phối hợp trong công tác GD.
- Quản lý sự phối hợp nhà trường và gia đình trong giáo

dục đạo đức học sinh
Quá trình GDĐĐ được vận hành đồng bộ, hiệu quả, tạo
bầu không khí thoải mái và thuận lợi để nâng cao chất lượng
giáo dục đạo đức trong nhà trường, gia đình và xã hội là mục
tiêu của quản lý sự phối hợp GDĐĐ.
Sự hình thành và phát triển phẩm chất chính trị, đạo đức,
lối sống của HSTHPT có sự tham gia của nhiều lực lượng
giáo dục, với những vị trí vai trò khác nhau nhưng đều cùng
chung một mục tiêu. Trong đó, nhà trường đóng vai trò trung
tâm, chủ động trong việc phối hợp với gia đình học sinh.
Không những nhà trường đóng vai trò chủ đạo trong GDĐĐ
học sinh mà còn giúp đỡ, hỗ trợ cho PHHS trong việc giáo
dục con cái. PHHS là chủ thể giáo dục cho nên có trách nhiệm
chủ động hợp tác với nhà trường trong việc giáo dục con em
mình tránh tư tưởng khoán trắng hoặc tự đề ra những yêu cầu


giáo dục trái ngược với mục tiêu giáo dục nhà trường mà nhà
trường qui định...
Chính vì vậy, quản lý sự phối hợp giữa nhà trường và gia
đình trong GDĐĐ học sinh về bản chất là sự tổ chức GDĐĐ
cho HS của các lực lượng giáo dục nhằm thực hiện mục tiêu
giáo dục.
Tóm lại, sự kết hợp, tác động qua lại một cách biện
chứng giữa các lực lượng giáo dục trong GD đạo đức
HSTHPT là quản lý sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình
trong GDĐĐ HS.
Lý luận về sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình
trong giáo dục đạo đức học sinh trung học phổ thông
- Đặc điểm tâm sinh lý học sinh trung học phổ thông

- Đặc điểm chung về tâm sinh lý lứa tuổi học sinh trung
học phổ thông
Học sinh THPT là học sinh trong giai đoạn chuyển tiếp
từ tuổi thiếu niên sang tuổi thanh niên đang phát triển nhanh
về thể lực, sinh lý, tâm lý; độ tuổi của các em từ 15 đến 18. Vì
trong độ tuổi đầu của thời thanh niên các em muốn làm chủ


bản thân, muốn khẳng định mình và có nhiều biểu hiện “quá
độ”nên còn gọi là lứa tuổi “khủng hoảng”. Trong giai đoạn
ngồi ghế nhà trường THPT. các em hình thành phẩm chất đạo
đức của người công dân qua các hoạt động tích cực ngoài xã
hội.
Sự phát triển tự ý thức tác động to lớn đến sự phát triển
tâm lý lứa tuổi của thanh niên là những đặc điểm nhân cách
chủ yếu của lứa tuổi THPT, học sinh ở lứa tuổi này thường
chú ý đến hình dáng bên ngoài, nhu cầu tìm hiểu, lấy mục
đích và hoài bão của mình để đánh giá tâm lý của bản thân
mình. Từ những điều trên cho ta thấy, các em quan tâm sâu
sắc đến đời sống tâm lý, nhân cách và năng lực riêng của bản
thân, vị trí của mình trong xã hội hiện tại và tương lai. Những
phẩm chất của người xung quanh các em có khả năng đánh
giá.
Ở lứa tuổi chuyển tiếp sang thanh niên, các em đang xây
dựng cho mình một viễn cảnh sống theo hoài bão, những kế
hoạch riêng cho bản thân rồi phấn đấu để đạt được mơ ước.
- Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh trung học phổ thông
ảnh hưởng đến giáo dục đạo đức



Theo nghiên cứu của các nhà khoa học thì giáo dục và
phát triển nhân cách của học sinh tác động chặt chẽ và qua lại
với nhau. Giáo dục đạo đức phải dựa vào đặc điểm tâm sinh
lý lứa tuổi để tác động có hiệu quả đến sự phát triển nhân
cách toàn diện của học sinh và trở thành người công dân Việt
Nam của toàn cầu, đáp ứng được những yêu cầu của xã hội.
Giai đoạn học sinh chuẩn bị đi vào cuộc sống chính là
giai đoạn học sinh THPT từ 15 đến 18 tuổi. Các em phải hoạt
động phức tạp hơn học sinh THCS ở ba môi trường là nhà
trường, gia đình và xã hội. Các chuẩn mực giá trị, quy tắc,
yêu cầu đạo đức xã hội, ý thức chính trị, ý thức tự giác và
hướng nghiệp tích cực được học sinh THPT nhận thức rõ
ràng. Ở lứa tuổi này, các em giao lưu nhiệt tình, hăng say
trước mọi công việc từ dễ đến phức tạp, vượt qua mọi thử
thách của cuộc sống. Nhân cách của các em ngày một hoàn
thiện để trở thành người công dân có ích cho xã hội. Học sinh
THPT biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo, quyết
định kết qủa phát triển Tài, Đức của bản thân khi các em hội
tụ đầy đủ các điều kiện cơ bản về nhận thức, ý chí, hoạt động.
Tuy nhiên, các em dễ bị lung lay trong hành vi, hành động của


mình vì vốn sống và kinh nghiệm xã hội của các em chưa
được nhiều.
Việc GDĐĐ cho các em có nhiều thuận lợi vì về thể lực,
trí lực, thích tìm tòi cái mới, sáng tạo, tự khẳng định mình,
sống tự lập, mong muốn làm những việc có ích cho xã hội, nó
đều được thể hiện trên con người của học sinh THPT. Tuy
nhiên, ở lứa tuổi này tính cách và hành vi có nhiều diễn biến
phức tạp do có sự tác động phong phú, đa dạng của đời sống

xã hội đến nhân cách đang trưởng thành của các em. Còn tồn
tại một số học sinh thờ ơ với thành quả của quá khứ để lại,
sống thực dụng, đua đòi cái mới, chạy theo những viễn tưởng
không có, mắc vào các tệ nạn xã hội ...Vì vậy, để có những
biện pháp hiệu quả nhất cho sự thành công trong công tác
giáo dục nói chung và GDĐĐ nói riêng chúng ta phải nắm
vững về tâm sinh lý lứa tuổi, đặc điểm về nhân cách của học
sinh THPT.
- Các lực lượng giáo dục đạo đức cho học sinh trung
học phổ thông
- Lực lượng trong nhà trường giáo dục đạo đức cho học
sinh trung học phổ thông


×