Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

CƠ sở lý LUẬN về tổ CHỨC PHỐI hợp các lực LƯỢNG GIÁO dục TRONG THỰC HIỆN đổi mới GIÁO dục TRUNG học cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.1 KB, 41 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ
CHỨC PHỐI HỢP CÁC LỰC
LƯỢNG GIÁO DỤC TRONG
THỰC HIỆN ĐỔI MỚI GIÁO
DỤC TRUNG HỌC CƠ SỞ


- Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu về đổi mới giáo dục nói chung, giáo dục trung học
cơ sở nói riêng đã có một số đề tài tiếp cận dưới góc độ giáo dục
học nhưng nghiên cứu về tổ chức, quản lý phối hợp các lực lượng
giáo dục trong thực hiện đổi mới giáo dục trung học cơ sở chưa
được quan tâm nghiên cứu. Nghiên cứu liên quan đến vấn đề này có
một số công trình tiêu biểu sau:
Tác giả Phạm Đỗ Nhật Tiến với bài viết “Tổ chức thực hiện
đổi mới căn bản toàn diện giáo dục: các mục tiêu ưu tiên và khâu
đột phá”. Bài báo đã khẳng định: Tổ chức thực hiện đổi mới căn bản
toàn diện giáo dục chính là đưa các chủ trương, chính sách nhiệm
vụ và giải pháp trong Nghị quyết 29 vào cuộc sống. Mặc dù đã có
chương trình hành động của Chính phủ và Kế hoạch hành động của
ngành giáo dục nhưng do thiếu một kế hoạch tổng thể trong tổ chức
thực hiện nên ngành Giáo dục hiện đang đứng trước một yêu cầu
quá tải các công việc phải giải quyết. Việc lựa chọn các mục itêu ưu
tiên và khâu đột phá là rất quan trọng vì vậy bài viết này đã đề cập
đến các mục tiêu ưu tiên xuất phát từ việc công nhận các yếu tố nền
tảng của bất kì nền giáo dục thành công nào. Từ đó nhận dạng được
các khâu đột phá với tư cách là nhóm giải pháp nhằm tháo gỡ các


nút thắt của nền giáo dục nước ta. Mặt khác hướng tới thực hiện các
mục tiêu ưu tiên [29].


Tác giả Phạm Văn Linh và cộng sự với công trình “ Định
hướng chiến lược, giải pháp đột phá nhằm đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo Việt Nam”. Cuốn sách đã tìm hiểu kinh
nghiệm trong thực hiện cải cách giáo dục của một số quốc gia, chỉ
ra được những xu hướng, mô hình chuyển đổi giáo dục từ chuyển
đổi sang hiện đại; nhóm tác giả đã phân tích được nội dung đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục, phân tích được thực trạng và những vấn
đề đặt ra theo Nghị quyết 29. Từ kết quả đó, cuốn sách đã đề xuất
các khâu đột phá để thực hiện thành công “đổi mới căn bản, toàn
diện nền giáo dục” [20].
Tác giả Hà Nhật Thăng với đề tài “Phương pháp luận nghiên
cứu đổi mới giáo dục phổ thông hiện nay”. Bài báo đề cập đến
phương pháp luật nghiên cứu đổi mới giáo dục phổ thông hiện nay
trong đó đã xác định được những quy luật của sự phát triển giáo
dục bao gồm: Mối quan hệ chế ước, chi phối của điều kiện kinh tế
xã hội, tự nhiên và đặc điểm con người Việt Nam tới sự phát triển
giáo dục; Sự phát triển nhân cách toàn diện luôn bị chế ước, chi
phối biện chứng, giao thoa bởi các tác động của môi trường vi mô
và vĩ mô. Hiệu quả và chất lượng của giáo dục, dạy học là tổng hòa


của hoạt động cá nhân và thống nhất tác động của các quan hệ xã
hội và tự nhiên; Sự chế ước chi phối của các yếu tố cấu thành mỗi
hoạt động dạy học và giáo dục [27].
Tác giả Nguyễn Ngọc Lâm với dề tài “Đổi mới phương
pháp giảng dạy đại học đáp ứng đổi mới giáo dục phổ thông” tại
Hội thảo khoa học - Nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên tiểu
học. Bài viết đã đánh giá thực trạng nhận thức về đổi mới phương
pháp giảng dạy ở trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, những việc
nhà trường đã triển khai liên quan đến đổi mới phương pháp giảng

dạy nhằm đào tạo sinh viên ngành sư phạm có khả năng đáp ứng
được yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông khi ra trường công tác
[18].
Tác giả Lê Thị Thu Hương trong bài viết “Phát triển năng lực
dạy học phân hóa - nội dung quan trọng trong đào tạo giáo viên
đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục”. Bài viết đã đề cập đến những
vấn đề lí luận liên quan đến quan niệm về dạy học phân hóa, đưa ra
quy trình dạy học phân hóa gồm 3 bước. Đồng thời đề xuất được
một số năng lực cần có của giáo viên trong dạy học phân hóa gồm:
năng lực đánh giá, phân loại học sinh; năng lực thiết kế và sử dụng
các nguồn học liệu trong quá trình dạy học; năng lực xây dựng nội
dung dạy học phân hóa; Năng lực phối hợp sử dụng các phương


pháp và hình thức tổ chức dạy học; Năng lực quản lí lớp học và tạo
lập môi trường dạy học phân hóa. Tác giả khẳng định “Dạy học
phân hóa là con đường tốt nhất để đào tạo theo hướng tiếp cận năng
lực vì nó tạo điều kiện cho học sinh được làm việc với nhịp độ và
khả năng khác nhau, phù hợp với bản thân. Giáo viên sẽ xác định
được học sinh đang ở mức độ nào, cần sự trợ giúp ra sao và làm thế
nào để phát huy tối đa tiềm năng học tập của mỗi cá nhân học
sinh...” [1 ].
“Những biện pháp quản lý hoạt động dạy học của hiệu
trưởng trường trung học cơ sở quận Hồng Bàng, Hải Phòng theo
yêu cầu đổi mới giáo dục” của tác giả Vũ Thị Cúc thực hiện năm
2008. Đề tài đã hệ thống hóa được cơ sở lý luận về quản lý hoạt
động dạy học của hiệu trưởng trường trung học cơ sở. Từ khung lý
thuyết, luận văn đã tiến hành khảo sát 35 người là cán bộ quản lý, tổ
trưởng chuyên môn các trường trung học cơ sở quận Hồng Bàng và
thu được kết quả thực trạng quản lý hoạt động dạy học của hiệu

trưởng các trường trung học cơ sở quận Hồng Bàng: Hiệu trưởng đã
nhận thức được về tầm quan trọng của hoạt động dạy - học; Công
tác quy hoạch, sử dụng cán bộ giáo viên tương đối hợp lý phù hợp
với năng lực cá nhân, phát huy sở trường của mỗi giáo viên; Hiệu
trưởng đã xây dựng kế hoạch nhà trường và chỉ đạo các tổ chuyên
môn, việc xây dựng và thực hiện kế hoạch đảm bảo hoàn thành tốt


như: hoàn thành chương trình và kế hoạch giảng dạy, xây dựng và
củng cố nền nếp giảng dạy ở tất cả các khâu soạn bài, lên lớp, kiểm
tra, chấm bài, chữa bài, cho điểm; xây dựng nề nếp học tập cho học
sinh; cải tiến phương pháp giảng dạy, nâng cao chất lượng giờ lên
lớp; Hiệu trưởng cũng đã xây dựng được quy chế làm việc chặt chẽ,
phối hợp tốt giữa các bộ phận trong nhà trường từ Ban Giám hiệu
đến nhân viên kế toán, thủ quỹ... của trường trung học cơ sở [Vũ
Thị Cúc].
Tác giả Nguyễn Văn Nguyên với đề tài “Quản lý hoạt động
dạy học ở các trường trung học cơ sở huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh
Phúc đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục” thực hiện năm 2013. Đề
tài đã nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý hoạt động dạy học ở
trường trung học cơ sở, trên cơ sở đó bằng phương pháp nghiên
phỏng vấn bằng bảng hỏi kết hợp với phương pháp phỏng vấn sâu
đã đánh giá được thực trạng quản lý hoạt động dạy học ở các
trường trung học cơ sở huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc: “Cán bộ
quản lý các trường đều đã nhận thức được tầm quan trọng của các
nội dung và biện pháp quản lý hoạt động dạy học nhằm nâng cao
chất lượng dạy học; đã cụ thể hóa một số qui định về thực hiện
chương trình và yêu cầu giáo viên hiểu chương trình; sử dụng đội
ngũ giáo viên đảm bảo phù hợp với trình độ đào tạo và năng lực cá
nhân, từ đó đã phát huy được khả năng của giáo viên. Những mặt



còn hạn chế: Hiệu trưởng chưa thường xuyên kiểm tra việc tự học,
tự bồi dưỡng chuyên môn, việc soạn bài và chuẩn bị bài lên lớp
của giáo viên; Công tác thanh tra chuyên môn trong nhà trường
chưa được coi trọng. Việc yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học
chưa được thường xuyên, dự giờ đánh giá giờ dạy chưa đánh giá
đúng thực chất...”. Đề tài đã đề xuất được 9 biện pháp, khảo
nghiệm được tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp đã đề
xuất và cả 9 biện pháp đều cần thiết và có tính khả thi [Nguyễn
Văn Nguyên].
Tác giả Nguyễn Thế Lâm với đề tài “Các biện pháp quản lý
công tác bồi dưỡng đội ngũ giáo viên trung học cơ sở thành phố
Nam Định đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục”. Đề tài đã hệ thống
hóa được những vấn đề lý luận quản lý công tác bồi dưỡng giáo
viên trung học cơ sở đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục, trên cơ sở
khung lý thuyết, tác giả đã tiến hành điều tra, khảo sát, phân tích
thực trạng hoạt động bồi dưỡng đội ngũ giáo viên trung học cơ sở
thành phố Nam Định. Từ kết quả nghiên cứu lý luận và thực trạng,
đề tài đã đề xuất được 4 nhóm biện pháp, chỉ ra được mối quan hệ
giữa các biện pháp và khảo nghiệm về tính cần thiết, tính khả thi
của các biện pháp đã đề xuất [Nguyễn Thế Lâm].


Theo vấn đề nghiên cứu này có tác giả Võ Thế Quân với bài
viết “Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, thực hiện có hiệu quả Nghị
quyết Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo”. Bài viết khẳng định vai trò quan trọng của công tác xã
hội hóa huy động sự tham gia của các lực lượng giáo dục trong việc
thực hiện có hiệu quả công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện giáo

dục và đào tạo [Võ Thế Quân].
Tóm lại, tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan
đến đề tài cho thấy, các công trình nghiên cứu ở trên đã đề cập đến
cách tiếp cận đổi mới giáo dục ở trung học cơ sở và cũng đã khai
thác ở một số nội dung liên quan đến đổi mới giáo dục trung học cơ
sở như quản lý hoạt động dạy - học, quản lý hoạt động bồi dưỡng
chuyên môn cho giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới... đây sẽ là
những tài liệu bổ ích giúp cho tác giả kế thừa có chọn lọc. Qua việc
tổng qua các đề tài cũng cho thấy đề tài tác giả lựa chọn là đề tài
mới, không trùng lặp với các công trình nghiên cứu trước, đề tài
được lựa chọn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
- Một số khái niệm cơ bản của đề tài
- Quản lý
Quản lí thuật ngữ tiếng Anh là management, hiện nay có nhiều
quan điểm khác nhau về quản lý. Tiêu biểu có một số tác giả sau:


Theo Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt: “Quản lí là tác động có
hướng đích của chủ thể quản lí, dựa trên nhận thức những quy luật
khách quan của hệ quản lí đến các quá trình đang diễn ra nhằm đạt
mục đích đặt ra một cách tối ưu” [23].
Tác giả Trần Kiểm cho rằng: “Quản lí là những tác động chủ
thể quản lí trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều
chỉnh, điều phối các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và
ngoài tổ chức (chủ yếu là nội lực) một cách tối ưu nhằm đạt mục
đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất” và “quản lí một hệ thống
xã hội là tác động có mục đích đến tập thể người - thành viên của
hệ - nhằm làm cho hệ vận hành thuận lợi và đạt tới mục đích dự
kiến” [14]
Còn theo các tác giả Nguyễn Quốc Chí, Nguyễn Thị Mỹ Lộc:

“Quản lí là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận
dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo
(lãnh đạo) và kiểm tra” “Quản lí là sự tác động có tổ chức, có
hướng đích của chủ thể quản lí tới đối tượng quản lí nhằm đạt mục
tiêu đề ra” [6].
Theo tác giả Phạm Viết Vượng: “Quản lí là sự tác động có ý
thức của chủ thể quản lí lên đối tượng quản lí nhằm chỉ huy, điều
hành, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi của cá nhân


hướng đến mục đích hoạt động chung và phù hợp với quy luật
khách quan” [31; tr 40].
Quản lí bao gồm 4 chức năng cơ bản: Lập kế hoạch, tổ chức,
chỉ đạo và kiểm tra. Những chức năng này được cụ thể hóa ở sơ đồ
sau:
Lập kế hoạch

Kiểm tra

Thông tin

Tổ chức

Chỉ đạo

- Mối quan hệ giữa các chức năng quản lí
Trong luận văn này chúng tôi sử dụng khái niệm quản lí của
tác giả Trần Kiểm năm 2016.
- Tổ chức
Thông thường chức năng tổ chức là chức năng thứ 2 trong chu

trình quản lý giáo dục nhưng nó cũng có thể là khâu đầu tiên trong
chu trình quản lý giáo dục nếu coi đó công tác tổ chức.


Tổ chức là quá trình tiếp nhận và sắp xếp nguồn lực theo
những cách thức nhất định nhằm hiện thực hóa các mục tiêu đã đề
ra theo kế hoạch.
Vai trò của tổ chức trong quản lý giáo dục
- Tạo dựng một môi trường làm việc thuận lợi để hoàn thành
các mục tiêu giáo dục.
- Xác lập một cơ cấu tổ chức và thiết lập thẩm quyền cho các
bộ phận, cá nhân, tạo sự phối hợp ngang, dọc trong hoạt động của
trường học.
- Lực lượng giáo dục
Đề tài tập trung vào nghiên cứu việc phối hợp các lực lượng
giáo dục dục là gia đình, nhà trường và cộng đồng xã hội trong thực
hiện đổi mới giáo dục trung học cơ sở.
- Gia đình
Gia đình là nhóm xã hội đặc biệt được xây dựng trên cơ sở
quan hệ hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng.
Gia đình cũng là trường học đầu tiên trong quá trình giáo dục
trẻ em. Gia đình là lực lượng giáo dục gốc tham gia giáo dục toàn
diện cho trẻ về đạo đức, trí tuệ, sức khỏe, thẩm mỹ, lao động...


Trong quá trình thực hiện đổi mới giáo dục, hiệu trưởng các
trường trung học cơ sở cần huy động và phối hợp có hiệu quả với
lực lượng giáo dục gia đình.
- Nhà trường
Nhà trường đóng vai trò chủ đạo trong giáo dục toàn diện (đạo

đức, tinh thần, trí tuệ, thẩm mỹ, sức khỏe, lao động kỹ thuật…) cho
thế hệ trẻ, đem lại tri thức, kỹ năng và thái độ để phát triển trẻ em về
mọi mặt. Nhà trường trang bị những kiến thức cơ bản, phổ thông,
tối thiểu cần thiết để học sinh để đi vào cuộc sống.
Nhà trường không chỉ là một thiết chế xã hội mà còn là một cơ
sở giáo dục thực hiện chức năng hình thành và phát triển nhân cách
học sinh có tổ chức, có kế hoạch, có mục đích xác định. Đó là hoạt
động mang tính ý thức, tính tự giác, tiến hành việc truyền thụ hệ
thống các khoa học tự nhiên,, xã hội và con người, xây dựng cơ sở
khoa học của niềm tin, thế giới quan, định hướng cho mọi bước
đường phát triển nhân cách. Giáo dục nhà trường mang tính quyết
định, đồng thời định hướng và tạo nên sự thống nhất giữa nhà
trường, gia đình và cộng đồng trong công tác giáo dục trẻ trong đó
có việc thực hiện đổi mới giáo dục trung học cơ sở.
Cộng đồng xã hội: với tư cách là lực lượng giáo dục tham gia
vào tiến trình thực hiện đổi mới giáo dục trung học cơ sở bao gồm:


chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã
hội nghề nghiệp tham gia đổi mới giáo dục trung học cơ sở (Hội
khuyến học, đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội Cha mẹ học sinh,
Ban Đại diện Cha mẹ học sinh,...).
- Đổi mới giáo dục trung học cơ sở
Đổi mới giáo dục trung học cơ sở là đổi mới những vấn đề
lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu,
nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực
hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí của Nhà nước đến
hoạt động quản lí trường trung học cơ sở của hiệu trưởng cùng với
việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân học sinh
trung học cơ sở.

Đổi mới giáo dục trung học cơ sở cần có hệ thống, có tầm
nhìn dài hạn, phù hợp với từng loại đối tượng ở trung học cơ sở, các
giải pháp đồng bộ, khả thi, có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình, bước
đi phù hợp.
- Tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục trong đổi mới
giáo dục trung học cơ sở
Tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục trong đổi mới giáo
dục trung học cơ sở là quá trình huy động sự tham gia có hiệu quả


của các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trong trong việc thực
hiện mục tiêu đổi mới giáo dục trung học cơ sở.
- Chức năng quản lý của hiệu trưởng trường trung học cơ
sở
- Hiệu trưởng trường trung học cơ sở
Tại khoản 1, 3 điều 54, Luật giáo dục 2005 đã xác định:
“Hiệu trường là người chịu trách nhiệm quản lý các hoạt động của
nhà trường, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm, công
nhận. hiệu trưởng các trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân
phải được đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ quản lý trường học” [26
].
Theo Điều 18, Thông tư 12/2011 ban hành Điều lệ trường trung
học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều
cấp học năm 2011 quy định như sau: “Hiệu trưởng trường trung học
cơ sở phải đạt trình độ chuẩn đào tạo của nhà giáo theo quy định của
luật giáo dục đối với cấp học, đạt trình độ chuẩn ở cấp học cao nhất
đối với trường phổ thông có nhiều cấp học và đã giảng dạy ít nhất 5
năm (hoặc 3 năm đối với miền núi, hải đảo, vùng cao, vùng sâu, vùng
xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt
khó khăn) ở cấp học đó; đạt tiêu chuẩn phẩm chất chính trị, đạo đức,

lối sống và chuyên môn, nghiệp vụ; có năng lực quản lý, đã được bồi


dưỡng lý luận, nghiệp vụ và quản lý giáo dục; có đủ sức khoẻ theo yêu
cầu nghề nghiệp; được tập thể giáo viên, nhân viên tín nhiệm” [3].
- Nhiệm vụ và quyền hạn của hiệu trưởng
trường trung học cơ sở
Theo Điều 19, Thông tư 12/2011 ban hành Điều lệ trường
trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có
nhiều cấp học năm 2011 quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của
hiệu trưởng trường trung học cơ sở như sau:
a) Xây dựng, tổ chức bộ máy nhà trường;
b) Thực hiện các nghị quyết, quyết nghị của hội đồng trường
được quy định tại khoản 2 điều 20 của điều lệ này;
c) Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện nhiệm vụ năm học;
d) Quản lý giáo viên, nhân viên; quản lý chuyên môn; phân
công công tác, kiểm tra, đánh giá xếp loại giáo viên, nhân viên; thực
hiện công tác khen thưởng, kỉ luật đối với giáo viên, nhân viên theo
quy định của nhà nước; quản lý hồ sơ tuyển dụng giáo viên, nhân
viên;
đ) Quản lý học sinh và các hoạt động của học sinh do nhà
trường tổ chức; xét duyệt kết quả đánh giá, xếp loại học sinh, ký xác


nhận học bạ, ký xác nhận hoàn thành chương trình tiểu học vào học
bạ học sinh tiểu học (nếu có) của trường phổ thông có nhiều cấp học
và quyết định khen thưởng, kỷ luật học sinh theo quy định của bộ
giáo dục và đào tạo;
e) Quản lý tài chính, tài sản của nhà trường;
g) Thực hiện các chế độ chính sách của nhà nước đối với giáo

viên, nhân viên, học sinh; tổ chức thực hiện quy chế dân chủ trong
hoạt động của nhà trường; thực hiện công tác xã hội hoá giáo dục
của nhà trường.
h) Được đào tạo nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn,
nghiệp vụ và hưởng các chế độ, chính sách theo quy định của pháp
luật;
i) Chịu trách nhiệm trước cấp trên về toàn bộ các nhiệm vụ
được quy định trong khoản 1 điều này.
- Chức năng quản lý của hiệu trưởng trường trung học cơ
sở
Hiệu trưởng trường trung học cơ sở cũng như các cán bộ
quản lý ở các cấp học, bậc học khác thực hiện các chức năng quản
lý cơ bản sau:


- Chức năng lập kế hoạch
Là chức năng cơ bản, nó xác định hệ thống các mục tiêu và
quyết định các biện pháp và các nguồn lực để đạt được các mục tiêu
đó.
Việc lập ra những kế hoạch có hiệu quả là chìa khoá để thực
hiện một cách có hiệu suất cao nhất đạt mục tiêu hiệu trưởng đề ra.
- Chức năng tổ chức
Hiệu trưởng trường trung học cơ sở thực hiện tổ chức bộ máy,
bố trí và phân công nguồn nhân sự hợp lí và hiệu quả nhất. nhà quản
lý nắm được năng lực, hoàn cảnh, điểm mạnh, mặt hạn chế của từng
cá nhân để sắp xếp liên kết họ thành một khối thống nhất phát huy
được sức mạnh tập thể.
Nhờ chức năng tổ chức mà hệ thống quản lý có hiệu quả, cho
phép các hiệu trưởng các trường trung học cơ sở thực hiện tốt mục
tiêu chung đề ra. Tổ chức tốt sẽ là động lực thúc đẩy các bộ phận

trong nhà trường thực hiện tốt nhiệm vụ được giao trong đó có công
tác phối hợp các lực lượng giáo dục trong thực hiện đổi mới giáo
dục trung học cơ sở trong tình hình mới.
- Chức năng chỉ đạo


Là sự tác động có chủ đích của chủ thể quản lý lên thái độ,
hành vi của khách thể quản lý (cán bộ, giáo viên, học sinh) nhằm
đạt mục tiêu đề ra, phối hợp hoạt động của các bộ phận của tổ chức,
nhằm thực hiện được mục tiêu chung với chất lượng và hiệu quả cao
nhất.
Chức năng chỉ đạo thể hiện rõ tính chất lãnh đạo, tính nghệ
thuật trong lãnh đạo quản lý của hiệu trưởng trường trung học cơ sở.
Chỉ đạo của hiệu trưởng trường trung học cơ sở thông qua sự chỉ
dẫn, ra lệnh và động viên, thúc đẩy đội ngũ nhân sự trong nhà trường
thông qua các chính sách, các quy định về chế độ; quyền lợi, nghĩa vụ
của giáo viên, nhân viên.
- Chức năng kiểm tra
Kiểm tra là chức năng rất quan trọng đối với hiệu trưởng các
trường trung học cơ sở, thông qua chức năng này hiệu trưởng các
nhà trường có thể đánh giá được chính xác, khách quan thực trựng,
tìm ra nguyên nhân và giải pháp để khắc phục tồn tại nhằm đạt được
mục tiêu của nhà trường.
- Nhóm chức năng cộng đồng
Hiệu trưởng trường trung học cơ sở với tư cách là nhà hoạt
động xã hội: trường học là một bộ phần của cộng đồng nên nó


không thể hoạt động độc lập hoàn toàn mà cần có sự tham gia, phối
hợp với nhà trường trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục trong đó

có đổi mới giáo dục. Vì vậy, hiệu trưởng các trường trung học cơ sở
phải nhận thức được đầy đủ, khách quan và ở vị trí có thể huy động,
phối hợp sự tham gia của đội ngũ giáo viên, phụ huynh học sinh,
nhân viên nhà trường với gia đình và cộng đồng, Hiệu trưởng không
chỉ tuân thủ chính sách, chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước
mà còn tuân thủ cả các quy định của địa phương nơi trường đóng
trên địa bàn. Hiệu trưởng trường trung học cơ sở phải tự xem mình
là một bộ phận của cộng đồng, chủ động tham gia vào các hoạt
động của cộng đồng và vận động toàn xã hội tham gia sự nghiệp
giáo dục. hiệu trưởng phải biết mở rộng sự ủng hộ của cộng đồng
đối với trường học, tuyên truyền các giá trị của nhà trường với cộng
đồng cũng như vai trò của học trong việc thực hiện mục tiêu giáo
dục trong đó có công tác đổi mới giáo dục trung học cơ sở.
- Phối hợp các lực lượng giáo dục trong đổi mới giáo dục
giáo dục trung học cơ sở
- Đổi mới và những yêu cầu của đổi mới giáo dục trung học cơ
sở
Đổi mới giáo dục trung học nói chung, giáo dục trung học cơ
sở nói riêng dựa trên quan điểm, chủ trương đường lối của Đảng,


Nhà nước ta. Đây chính là những quan điểm chỉ đạo, định hướng
quan trọng về chính sách trong đổi mới giáo dục trung học cơ sở.
Đổi mới giáo dục trung học cơ sở trước hết cần đổi mới
chương trình, nội dung dạy học. Trong chương trình chỉ đạo giáo
dục của nhà nước, đó là những định hướng quan trọng về chính sách
và quan điểm trong việc phát triển và đổi mới giáo dục trung học.
Việc đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá cần phù hợp
với những định hướng đổi mới chung của chương trình giáo dục
trung học.

Những quan điểm và đường lối chỉ đạo của nhà nước về đổi
mới giáo dục nói chung và giáo dục trung học nói riêng được thể
hiện trong nhiều văn bản, đặc biệt trong các văn bản sau đây:
1. Luật Giáo dục số 38/2005/QH11, Điều 28 qui định:
"Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của
từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng
làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho
học sinh" [26].
2. Báo cáo chính trị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI “Đổi
mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp


thi, kiểm tra theo hướng hiện đại; nâng cao chất lượng toàn diện,
đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử
cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành,
tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội” [2].
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ
phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người
học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc.
Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở
để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển
năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức
học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu
khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông
trong dạy và học”; “Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi,
kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo, bảo đảm trung thực,

khách quan Việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo
cần từng bước theo các tiêu chí tiên tiến được xã hội và cộng đồng
giáo dục thế giới tin cậy và công nhận. Phối hợp sử dụng kết quả
đánh giá trong quá trình học với đánh giá cuối kỳ, cuối năm học;
đánh giá của người dạy với tự đánh giá của người học; đánh giá của
nhà trường với đánh giá của gia đình và của xã hội” [9].


3. Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011 - 2020 ban
hành kèm theo Quyết định 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012 của Thủ
tướng Chính phủ chỉ rõ: "Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học và
đánh giá kết quả học tập, rèn luyện theo hướng phát huy tính tích
cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của người học";
"Đổi mới kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông, kỳ thi tuyển sinh
đại học, cao đẳng theo hướng đảm bảo thiết thực, hiệu quả, khách
quan và công bằng; kết hợp kết quả kiểm tra đánh giá trong quá
trình giáo dục với kết quả thi" [5].
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo xác định ”Tiếp tục đổi mới mạnh
mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng
coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học”; “Tập trung
phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân,
phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho
học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo
dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học,
năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt
đời”. Theo tinh thần đó, các yếu tố của quá trình giáo dục trong nhà
trường trung học cần được tiếp cận theo hướng đổi mới [6].



Nghị quyết số 44/NQ-CP, ngày 09/6/2014 Ban hành Chương
trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết sổ 29NQ/TW
ngày 04 tháng 11 năm 2013 Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành
Trung ương khoá XI về đổi mới căn bản, toàn điện giáo dục và đào
tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện
kinh tế thị trường định hưởng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế
xác định “Đổi mới hình thức, phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá
kết quả giáo dục theo hướng đánh giá năng lực của người học; kết
hợp đánh giá cả quá trình với đánh giá cuối kì học, cuối năm học
theo mổ hình của các nước cỏ nền giáo dục phát triển”...[4].
Những quan điểm, định hướng nêu trên tạo tiền đề, cơ sở và
môi trường pháp lí thuận lợi cho việc đổi mới giáo dục phổ thông
nói chung, đổi mới đồng bộ phương pháp dạy học, kiểm tra, đánh
giá theo định hướng năng lực người học.
- Cơ chế phối hợp của các lực lượng giáo dục trong thực
hiện đổi mới giáo dục trung học cơ sở
- Hội phụ nữ
Hội phụ nữ là tổ chức đại diện chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ nữ, tham gia xây dựng
Đảng, tham gia quản lý Nhà nước; đoàn kết, vận động, phụ nữ thực


hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới.
Hội Liên hiệp phụ nữ có chức năng tham mưu các chế độ
chính sách liên quan đến phụ nữ, trẻ em; tuyên truyền, giáo dục
chính trị, tư tưởng, lý tưởng cách mạng, phẩm chất đạo đức, lối
sống, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước; vận động, hỗ trợ phụ nữ nâng cao năng lực, trình độ, xây

dựng gia đình hạnh phúc; chăm lo cải thiện đời sống vật chất, tinh
thần của phụ nữ; xây dựng kế hoạch, hướng dẫn, kiểm tra và tổ
chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực Hỗ trợ
phụ nữ phát triển kinh tế; Nâng cao năng lực cho phụ nữ; Xây dựng
gia đình hạnh phúc; Giám sát và phản biện xã hội…
- Đoàn thanh niên
Đoàn thanh niên được đề cập ở đây gồm Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh và các tổ chức khác của thanh niên như Hội
đồng Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp
Thanh niên, Hội Liên hiệp Sinh viên… Trong đó, Hội đồng Đội các
cấp đại diện cho tổ chức Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh,
do Ban chấp hành Đoàn cùng cấp lập ra và giúp Đoàn thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh phụ trách Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí
Minh.


Nhi đồng từ 6 đến 8 tuổi là lớp dự bị của Đội Thiếu niên Tiền
phong Hồ Chí Minh. Đội Thiếu niên Tiền phong giúp đỡ nhi đồng
thực hiện tốt 5 điều Bác Hồ dạy thiếu niên, nhi đồng, xứng đáng con
ngoan, trò giỏi, bạn tốt và trở thành đội viên Đội thiếu niên tiền
phong.
Đội viên Đội Thiếu niên Tiền phong là thiếu niên Việt Nam từ
9 đến 15 tuổi thực hiện tốt 5 điều Bác Hồ dạy, phấn đấu học tập, rèn
luyện và tu dưỡng để trở thành đoàn viên Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh.
Thông qua các hoạt động vui chơi giải trí, sinh hoạt câu lạc
bộ, các chiến dịch hè tình nguyện… do Đoàn thanh niên, Đội thiếu
niên tổ chức sẽ góp phần thực hiện đổi mới giáo dục ở trường trung
học cơ sở.
- Trách nhiệm của các lực lượng cộng đồng trong đổi mới

giáo dục giáo dục trung học cơ sở
- Trách nhiệm của nhà trường
Nhà trường có trách nhiệm quản lý tổ chức giảng dạy và các
hoạt động giáo dục khác theo mục tiêu, chương trình giáo dục nhằm
rèn luyện và hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh trung
học cơ sở.


×