Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

MÔN văn hóa và PHÁT TRIỂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (278.54 KB, 36 trang )

MÔN VĂN HÓA
VÀ PHÁT TRIỂN

Câu hỏi 1:
Quan
hệ
biện
chứng giữa con
người và văn hóa:
Xây dựng con
người để phát triển
văn hóa, phát triển
văn hóa nhằm
hoàn thiện nhân
cách con người?
Trả lời:
1) Khung lý
thuyết:
về
hóa

Quan niệm
phát triển văn

- Văn hóa là
tổng hợp các giá trị
vật chất và tinh thần
do con người sáng
tạo nên. VH bao
gồm nhiều thành tố
trong đó tư tưởng,


đạo đức, lối sống và
đời sống VH là yếu
tố quan trọng nhất.
- Phát triển
văn hóa là hoạt
động sống có ý thức
của con người trong
sự tác động qua lại
giữa con người và
xã hội, với tự nhiên
qua đó sáng tạo nên
những giá trị mới
của nền văn hóa cả
về lượng và chất
theo hướng nhân
văn, dân chủ, tiến
bộ, nhằm thúc đẩy
toàn bộ các lĩnh vực
của đời sống xã hội,
tạo ra các điều kiện
và cơ hội cho con

người tham gia vào
quá trình sáng tạo,
sản xuất, truyền bá
và thưởng thức các
giá trị văn hóa, kiến
tạo nên môi trường
văn hóa lành mạnh
cho sự phát triển xã

hội, phát triển con
người về phẩm chất,
trí tuệ và năng lực.
Quan niệm
về phát triển con
người
- Con người là
sản phẩm của lao
động, là kết quả tiến
hóa lâu dài của tự
nhiên, đồng thời con
người là động vật xã
hội, có tinh thần, có ý
thức. con người chính
là chủ thể của lịch sử
- xã hội; quảng đại
quần chúng nhân dân
là chủ thể sáng tạo ra
lịch sử, văn hóa.
- Phát triển
bền vững con người
được thể hiện ở 5 nội
dung cơ bản:
+ Bình đẳng
cơ hội tiếp cận để
phát triển năng lực
+ Công bằng
trong chia sẻ thành
quả phát triển
+ Con người

được trao quyền tự do
tham dự theo năng
lực vào tiến trình phát
triển.
+ Sự phát triển
hiện tại không làm
mất cơ hội của thế hệ
tương lai

+ Đảm bảo an
ninh con người.
- Con người
với văn hóa là ở
tương tác nhân quả giữa chủ thể và
đối tượng
+ Con người
sáng tạo ra văn hóa
và chính văn hóa lại
tác động sâu xa,
rộng lớn tới phát
triển con người,
hoàn thiện nhân
cách, nhân tính.
+ Hoàn thiện
nhân cách, nhân tính
của con người là sứ
mệnh của văn hóa,
là nỗ lực cao nhất
mà sáng tạo văn hóa
cần đạt đến, mà mọi

thành quả, thành tựu
của văn hóa đều góp
phần vào sự bộc lộ
các năng lực người,
khẳng định sức
mạnh bản chất
người của con người
trong phát triển, từ
cá thể người đến
cộng đồng người
trong dân tộc và
trong nhân loại.
- Phát triển
văn hóa là phát
triển con người, lấy
phát triển con người
là trọng tâm để phát
triển văn hóa.
+ Phát triển
con người không chỉ
tạo ra chất lượng
nguồn nhân lực để
phát triển văn hóa
mà con người với
năng lực sáng tạo,
trình độ học vấn,

tiềm lực trí tuệ,
phẩm giá đạo đức,
lối sống của nó, tựu

trung lại là sự phát
triển và hoàn thiện
nhân cách của con
người là tính hướng
đích, là mục đích,
mục tiêu của phát
triển văn hóa.
+ Xét theo
quan điểm giá trị thì
hệ giá trị Chân Thiện - Mỹ của văn
hóa cũng chính là hệ
giá trị phát triển con
người, con người
vừa với tư cách là
chủ thể mang nhân
cách của chính
mình, phản ánh
những chuẩn mực,
yêu cầu của mẫu
nhân cách xã hội
vừa với tư cách là
chủ thể sáng tạo văn
hóa, sản xuất ra văn
hóa dưới dạng các
sản phẩm, các giá trị
đồng thời còn là chủ
thể quản lý, cảm
thụ, tiêu dùng văn
hóa, thực hiện các
hoạt động quảng bá,

giao lưu văn hóa,
tiếp xúc và tiếp biến
văn hóa để phát
triển xã hội, phát
triển chính mình.
+ Chỉ có con
người mới là chủ
nhân đích thực của
sáng tạo văn hóa, cả
văn hóa vật chất
(vật thể) lẫn văn hóa
tinh thần (phi vật
thể)
+ Chỉ có con
người mới tạo dựng


nên môi trường văn
hóa - xã hội để phát
triển văn hóa và
phát triển xã hội nói
chung, để làm cho
hiệu ứng xã hội của
văn hóa (nhất là văn
hóa tinh thần), lan
tỏa, mở rộng, thấm
sâu vào mọi lĩnh
vực của đời sống,
nhân lên sức sống,
sức phát triển của

con người, của văn
hóa, không chỉ
những thế hệ người
trong một dân tộc quốc gia, nền văn
hóa của mỗi dân tộc
mà còn là sự phát
triển của các dân
tộc, của các nền văn
hóa trong thế giới
nhân loại.
- Phát triển
bền vững của đất
nước thực chất là
phát triển bền vững
con người mà muốn
vậy, phải đặc biệt
chú trọng thực hiện
chiến lược phát
triển văn hóa.
- Xây dựng
và phát triển văn
hóa để hoàn thiện
nhân cách con
người phải làm cho
văn hóa thấm sâu
vào mọi lĩnh vực
của đời sống, mọi
quan hệ xã hội của
con người.
2) Liên hệ

thực tiễn chung
*
tựu:

Thành

+ Tư duy lý
luận về văn hóa có
bước phát triển;
+ Nhận thức
về văn hóa của các
cấp, các ngành và
toàn dân được nâng
lên. Điều này thể
hiện đã đánh giá
đúng được vị trí, vai
trò của văn hóa tác
động đến đời sống
xã hội.
+ Đời sống
văn hóa của nhân
dân
ngày
càng
phong phú, nhiều
giá trị văn hóa
truyền thống của
dân tộc được phát
huy, nhiều chuẩn
mực văn hóa mới

hình thành, đầu tư
hạ tầng phục vụ cho
sinh hoạt văn hóa
của nhân dân được
nâng cao vì vậy sản
phẩm văn hóa ngày
càng đa dạng, công
nghệ thông tin phát
triển mạnh mẽ
+ Xã hội hóa
hoạt động văn hóa
ngày càng được mở
rộng góp phần đáng
kể vào việc xây
dựng các thiết chế
văn hóa.
+ Nhiều di
sản văn hóa vật thể
và phi vật thể được
bảo tồn, tôn tạo,
nhiều phong tục tập
quán của đồng bào
dân tộc thiểu số
được nhà nước sưu
tầm và phục dựng.

+ Giao lưu và
hợp tác quốc tế về
văn hóa có nhiều
bước khởi sắc.

* Hạn chế:
- So với
thành tựu về kinh tế,
chính trị,… thành
tựu trên lĩnh vực
văn hóa chưa tương
xứng, chưa đủ sức
để tác động có hiệu
quả đến xây dựng
con người và môi
trường văn hóa lành
mạnh.
- Tình trạng
suy thoái về tư
tưởng, chính trị, đạo
đức, lối sống trong
Đảng, trong xã hội
có chiều hướng gia
tăng. Đời sống tinh
thần ở một số nơi
còn nghèo nàn,
khoảng cách hưởng
thụ văn hóa ở nhiều
nơi chậm được rút
ngắn.
- Môi trường
văn hóa còn tồn tại
tình trạng thiếu lành
mạnh, ngoại lai, trái
với thuần phong mỹ

tục:
- Cơ chế
chính sách về văn
hóa trong kinh tế,
kinh tế trong văn
hóa, việc huy động
các nguồn lực cho
văn hóa chưa cụ thể,
rõ ràng.
- Công tác
quy hoạch, đào tạo,
bố trí cán bộ lãnh
đạo quản lý các cấp,

nhất là nguồn lực
chất lượng cao còn
nhiều hạn chế. Tình
trạng nhập khẩu,
quảng bá, tiếp thu
văn hóa phẩm nước
ngoài còn dễ dãi,
thiếu chọn lọc.
*
Nguyên
nhân hạn chế:
- Nhiều cấp
ủy, chính quyền địa
phương chưa nhận
thức đầy đủ và quan
tâm đúng mức về

lĩnh vực phát triển
văn hóa, con người.
Quá trình thể chế
hóa nghị quyết của
Đảng còn chậm,
thiếu đồng bộ, một
số
trường
hợp
không khả thi.
- Công tác
QLNN về phát triển
văn hóa, con người
chậm được đôi mới,
chưa thích ứng yêu
cầu phát triển văn
hóa trong thời kỳ
hội nhập
- Đầu tư cho
lĩnh vực văn hóa
chưa tương xứng,
còn dàn trải, hiệu
quả chưa cao. Công
tác đào tạo, bồi
dưỡng nhân lực cho
lĩnh vực văn hóa,
nhất là đội ngũ cán
bộ quản lý chưa
được quan tâm thích
đáng.

3) Giải pháp
đề xuất chung
- Thứ nhất,
tích cực tăng cường,


nâng cao năng lực
lãnh đạo của Đảng,
sự QLNN, phát huy
mạnh mẽ vai trò của
tổ chức Đảng, cấp
ủy và người đứng
đầu đối với vấn đề
phát triển văn hóa,
con người VN,
- Thứ hai,
nâng cao nhận thức
cho toàn xã hội,
trước hết là cán bộ,
đảng viên và nhân
dân về vai trò của sự
nghiệp xây dựng,
phát triển văn hóa,
con người VN trong
tình hình mới.
- Thứ ba, Đối
mới căn bản và toàn
diện hệ thống GD –
ĐT, phát triển và
quản lý tốt hệ thống

truyền thông đại
chúng, phát triển
VHNT, đáp ứng yêu
cầu xây dựng, phát
triển văn hóa, con
người VN.
- Thứ tư, tiếp
tục đẩy mạnh phong
trào toàn dân đoàn
kết xây dựng đời
sống văn hóa, xây
dựng giá trị và nhân
cách con người VN,
tạo lập môi trường
văn hóa tinh thần
lành mạnh.
- Thứ năm,
ngăn chặn có hiệu
quả tình trạng suy
thoái về tư tưởng,
đạo đức, lối sống;
khắc phục các hiện
tượng tiêu cực trong
các lĩnh vực xây
dựng, phát triển văn

hóa, con người hiện
nay.
- Thư sáu,
đẩy mạnh hoạt động

văn hóa đối ngoại
và giao lưu văn hóa,
tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại để xây
dựng, phát triển văn
hóa, con người VN
trên những tầm cao
mới.
4. Liên hệ
các bước thực hiện
Nghị quyết Trung
ương 5 ( Khóa
VIII) về xây dựng
và phát triển nền
văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc
trong đó có yếu tố
Xây dựng con
người để phát triển
văn hóa, phát triển
văn hóa nhằm
hoàn thiện nhân
cách con người.
4.1. Công tác
triển khai, học tập và
quán triệt Nghị quyết
Tỉnh
ủy
Quảng Ninh đã ban

hành Chỉ thị số
18/CT- TU chỉ đạo
triển khai thực hiện
Chỉ thị số 27/CT-TU
ngày 12/1/1998 của
Bộ Chính trị về thực
hiện nếp sống văn
minh trong việc cưới,
việc tang và lễ hội.
UBND tỉnh Quảng
Ninh đã có kế hoạch
số 491/KH-UBND
ngày 24/5/1998 triển
khai thực hiện Chỉ thị
của Tỉnh uỷ. Mặt trận
Tổ quốc Tỉnh, Đoàn

thanh niên, Sở Văn
hóa, Thông tin (nay là
Sở Văn hóa, Thể thao
và Du lịch Quảng
Ninh) ký kết kế hoạch
liên tịch tổ chức tập
huấn cho cán bộ chủ
chốt của 3 ngành của
huyện, thị, thành phố
trong tỉnh; phân công
các thành viên tiến
hành kiểm tra, chỉ đạo
cụ thể ở các địa

phương.
Công
tác
tuyên truyền nội dung
Nghị quyết đã được
các cấp, các ngành,
các địa phương quan
tâm chỉ đạo sâu rộng
tới nhân dân bằng
nhiều hình thức
phong phú, sáng tạo.
Báo Quảng Ninh, Đài
PT-TH Quảng Ninh
đã xây dựng nhiều
chuyên trang, chuyên
mục về các nội dung
của Nghị quyết như:
tuyên truyền về nếp
sống văn hóa; xóa bỏ
các hủ tục lạc hậu, mê
tín dị đoan; khôi
phục, giữ gìn và phát
huy giá trị văn hóa
dân tộc; giới thiệu về
các di tích, danh lam
thắng cảnh và các giá
trị văn hóa phi vật thể
ở Quảng Ninh; phản
ánh các hoạt động
văn hóa và xây dựng

đời sống văn hóa ở
cơ sở; biểu dương
gương người tốt,
việc tốt; đấu tranh
ngăn chặn việc lưu
hành các sản phẩm
văn hóa độc hại trên
địa bàn. Các địa
phương trong tỉnh

tổ
chức
tuyên
truyền, cổ động,
quảng bá hình ảnh
Quảng Ninh bằng
nhiều hình thức như
panô, khẩu hiệu, áp
phích; dàn dựng các
tiết mục văn nghệ
cho đội thông tin
lưu động và đội
chiếu bóng lưu
động đi phục vụ
đồng bào vùng sâu,
vùng xa, biên giới,
hải đảo….
4.2. Công tác
lãnh đạo, chỉ đạo của
các cấp ủy Đảng,

chính quyền, Mặt trận
Tổ quốc và các ban,
ngành, đoàn thể:
Ban Thường
vụ Tỉnh ủy đã ban
hành các Chỉ thị,
Nghị quyết về phát
triển kinh tế- xã hộivăn hóa, giáo dục, y
tế, thể dục thể thao,
khoa học công nghệ,
văn hóa nghệ thuật,
chính sách ưu tiên
phát triển kinh tế, xã
hội, miền núi, hải đảo
đã được cụ thể hóa
bằng Nghị quyết của
Hội đồng nhân dân
các cấp như: Nghị
quyết về xây dựng
làng, khu phố văn
hóa; xây dựng nhà
văn hóa, ban hành các
quy chế trong việc
cưới, việc tang, lễ
hội... Trong quá trình
triển khai, các cấp ủy
đã chỉ đạo gắn Nghị
quyết TW 5 (khóa
IX) về tư tưởng, lý
luận; Nghị quyết TW

6 về giáo dục và khoa


học, Nghị quyết TW
7 về tôn giáo, dân tộc,
văn bản chỉ đạo của
Trung ương về công
tác báo chí, xuất bản,
văn nghệ, chống diễn
biến hòa bình trên
lĩnh vực tư tưởng văn
hóa, học tập theo tấm
gương đạo đức Hồ
Chí Minh…
UBND tỉnh đã
có các Quyết định và
Kế hoạch triển khai
thực hiện như: Quyết
định
số
3227/1998/QĐ- UB
ngày 8/12/1998 ban
hành Chương trình
hành động thực hiện
Nghị quyết Trung
ương 5 (khóa VIII),
giao cho các Sở,
ngành căn cứ chức
năng, nhiệm vụ xây
dựng các đề án kế

hoạch triển khai thực
hiện; Phối hợp cùng
Mặt trận Tổ quốc
Tỉnh xây dựng đề án
phát động phong trào
“ Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống
văn hóa”. Kế hoạch
số 327/KH- UB ngày
27/3/2000 về xây
dựng làng văn hóa khu phố văn hóa giai
đoạn 2000- 2005.
Quyết
định
số
1288/QĐ-UB ngày
18/5/2000 về việc
thành lập Ban Chỉ
đạo phong trào “Toàn
dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn
hóa” tỉnh Quảng
Ninh.
Mặt
trận Tổ quốc tỉnh tiếp

tục đẩy mạnh và làm
nòng cốt cho phong
trào “Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống

văn hóa ở khu dân
cư”. Phối hợp với Ủy
ban nhân dân tỉnh,
Liên đoàn lao động
tỉnh hằng năm tổ chức
ngày hội đại đoàn kết
dân tộc, Hội nghị
tuyên dương “Xã,
phường, thị trấn tiên
tiến", ban hành tiêu
chí phong trào thi đua
xây dựng "xã, nông
thôn mới – phường,
thị trấn, văn hóa” gắn
với 5 nội dung trọng
tâm của cuộc vận
động “Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống
văn hóa ở Khu dân
cư” các chương trình
mục tiêu về xây dựng
nông thôn mới; xây
dựng đô thị văn minh;
xây dựng xã hội học
tập được.
Liên đoàn lao
động tỉnh đổi mới
trong tổ chức các
phong trào thi đua
yêu nước, các cuộc

vận động trong công
nhân, viên chức, lao
động, chủ động, cụ
thể hóa nội dung phù
hợp với từng ngành,
địa phương, đơn vị tổ
chức phát động, triển
khai các phong trào
thi đua gắn với thực
hiện “Học tập và làm
theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh”.
Trọng tâm là các
phong trào thi đua :
“Lao động giỏi, lao
động sáng tạo” xây
dựng “ Doanh nghiệp

giỏi – cơ quan văn
hóa”; Phong trào “An
ninh tự quản”, xây
dựng cán bộ công
chức “ Trung thành,
sáng tạo, tận tụy,
gương mẫu” .… các
cấp công đoàn chỉ
đạo Công đoàn cơ sở
chăm lo xây dựng đời
sống văn hóa tinh
thần cho công nhân,

viên chức, lao dộng.
Nhiều doanh nghiệp
trên địa bàn tỉnh đã
đầu tư hàng trăm tỷ
đồng xây dựng Nhà
luyện tập thi đấu thể
thao, Nhà văn hóa,
Thư viện, Nhà truyền
thống, đáp ứng ngày
một tốt hơn nhu cầu
sinh hoạt vui chơi giải
trí của công nhân lao
động.
Hội
Nông
dân, Hội Cựu Chiến
Binh tích cực vận
động các hộ gia đình
đăng ký phấn đấu gia
đình đạt chuẩn “Gia
đình văn hóa”, phát
động và triển khai
phong trào “cựu chiến
binh gương mẫu”;
huy động hàng vạn
ngày công, hàng tỷ
đồng xây dựng cơ sở
hạ tầng, đường liên
thôn, liên xã, nhà sinh
hoạt văn hóa…luôn

đóng vai trò nòng cốt
trong xây dựng làng,
bản, khu phố văn hóa,
xây dựng các quy tắc,
hiệp ước vận động
toàn dân tham gia
phòng, chống tội
phạm, phòng chống
ma túy.

Đoàn
TNCS HCM tỉnh
triển khai thực hiện
Nghị quyết và xây
dựng các đội lưu diễn
“từ làng đến làng”
nhằm tuyên truyền
thế hệ trẻ Quảng Ninh
thi đua học tập, lao
động sáng tạo; phong
trào “ thanh niên xung
kích lập nghiệp;
phong trào “rèn luyện
thân thể theo gương
Bác Hồ vĩ đại”, xây
dựng các câu lạc bộ
“tuổi trẻ với pháp
luật”, “Đội thanh niên
xung kích phòng,
chống tệ nạn xã hội”,

mô hình “Công trình
thanh niên tự quản
đảm bảo xanh – sạch
– đẹp và trật tự an
toàn giao thông”,
công trình “Mái ấm
gia đình” sửa chữa
nhà cho các gia đình
thương binh, liệt sỹ có
hoàn cảnh khó khăn,
xây dựng sửa chữa
nhà văn hóa, kênh
mương nội đồng…
Hội Liên hiệp
phụ nữ tỉnh đẩy mạnh
phong trào phụ nữ
giúp nhau xóa đói
giảm nghèo và xây
dựng gia đình văn
hóa, hòa thuận, tiến
bộ, hạnh phúc thông
qua các phong trào
phong trào “phụ nữ
tích cực học tập, lao
động sáng tạo, xây
dựng gia đình hạnh
phúc”, phong trào
“Giảm nghèo vươn
lên làm giàu chính
đáng”; đẩy mạnh

công tác giáo dục,


tuyên truyền về Luật
bình đẳng giới, Luật
phòng chống bạo lực
gia đình, Luật giáo
dục chăm sóc trẻ em
”.
Ngành Y tế
triển khai, thực hiện
chương trình phối
hợp hoạt động đẩy
mạnh chăm sóc và
bảo vệ sức khỏe nhân
dân, phối hợp với mặt
trận tổ quốc các cấp
xây dựng gia đình văn
hóa, làng văn hóa,
khu phố văn hóa và
khu dân cư tiên tiến
đạt tiêu chí về chăm
sóc và bảo vệ sức
khỏe nhân dân, cải
thiện môi trường
sống, hạn chế các
dịch bệnh, phòng
chống
HIV/AIDS,
đảm bảo an toàn vệ

sinh thực phẩm trên
địa bàn dân cư.
Các cơ quan
thông tin đại chúng:
Báo Quảng Ninh, Đài
Phát thanh và Truyền
hình Quảng Ninh
thường xuyên mở
chuyên trang, chuyên
mục đưa tin, bài phản
ánh về thực hiện Nghị
quyết Trung ương 5
(khóa VIII), trong đó
tập trung tuyên truyền
phản ánh phong trào
xây dựng gia đình văn
hóa, khu phố văn hóa
gắn với tuyên truyền
các điển hình tiên tiến
trong quá trình triển
khai và thực hiện
Nghị quyết.

Các cấp ủy
Đảng, các cơ quan
đoàn thể, chính quyền
các cấp đề ra các
chương trình hành
động cụ thể để thực
hiện Nghị quyết với

những nhiệm vụ chủ
yếu: Xây dựng tư
tưởng, đạo đức, lối
sống, đời sống văn
hóa lành mạnh, thực
hiện nếp sống văn
minh trong việc cưới,
việc tang và lễ hội;
xây dựng các thiết
chế văn hóa tạo môi
trường văn hóa lành
mạnh trong công
đồng dân cư; Đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ làm công tác
văn hóa có trình độ
ngang tầm với yêu
cầu phát triển văn hóa
trong giai đoạn mới,
phát động sâu rộng
trong nhân dân phong
trào xây dựng gia
đình, cơ quan, đơn vị,
trường học văn hóa.
4.3. Quá trình
kiểm điểm triển khai
thực hiện Nghị quyết
Trong 15 năm
qua, công tác kiểm
điểm thực hiện Nghị

quyết đã được các
cấp, các ngành quan
tâm và thực hiện theo
đúng kế hoạch chỉ
đạo của Trung ương
và của Tỉnh.
4.4. Kết quả
đạt được:
4.4.1.
Xây
dựng con người Việt
Nam trong giai đoạn
mới

Nhiều giá trị
mới về văn hóa,
chuẩn mực đạo đức
được khẳng định và
nhân rộng, phát huy
tính dân chủ trong xã
hội. Việc triển khai
thực hiện phong trào
“Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống
văn hóa”, “Học tập và
làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí
Minh” cùng các
phong trào thi đua
khác ngày càng được

mở rộng và từng
bước đi vào thực
chất trong đời sống
xã hội. Các giá trị,
chuẩn mực đạo đức
được đề cao trong
gia đình và cộng
đồng, các phong
trào “ông bà, cha
mẹ mẫu mực, con
cháu thảo hiền”,
phong trào “đền ơn
đáp nghĩa”, “giúp
đỡ người tàn tật,
chăm sóc trẻ em cơ
nhỡ”, “giúp nhau
xóa
đói
giảm
nghèo”,…
4.4.2.
Xây
dựng đời sống văn
hóa và môi trường
văn hóa
Hoạt động văn
hóa quần chúng có
bước tiến quan trọng
về “lượng” và “chất”,
nhiều hoạt động văn

hóa đa dạng, phong
phú mang đậm bản
sắc văn hóa dân tộc
được tổ chức ở nhiều
vùng, địa phương
trong tỉnh, đã cuốn
hút nhiều ngành,

nhiều giới, nhiều tầng
lớp nhân dân tham
gia. Các hoạt động
văn hóa đã hướng vào
xây dựng nền văn hóa
mới, xây dựng con
người mới, con người
ngày càng hoàn thiện
về tư tưởng, đạo đức,
lối sống, thẩm mỹ…
Trong
các
phong trào xây dựng
"Xã, phường, thị trấn
lành mạnh không có
tệ nạn ma túy, mại
dâm", "Toàn dân
tham gia bảo vệ Tổ
quốc"… Nhiều người
dân, cán bộ, chiến sỹ
dũng cảm truy bắt,
trấn áp tội phạm, đặc

biệt là đội ngũ các
tình nguyện viên của
các phường, thị trấn
đã tích cực tham gia
bảo vệ an ninh trật tự
nơi công cộng, trật tự
lòng đường, hè phố…
góp phần bảo vệ an
ninh, an toàn và sự
bình yên cho nhân
dân.
* Triển khai
các phong trào thi đua
do Mặt trận Tổ quốc
chủ trì và phối hợp
Trong cuộc
vận động “Toàn dân
đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa ở
khu dân cư” do Mặt
trận Tổ quốc chủ trì
đã có cách làm sáng
tạo với nhiều hình
thức nội dung phù
hợp với từng mô hình
ở khu dân cư.
* Triển khai
phong trào “ Toàn dân



đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa”
Tính đến hết
năm 2012 toàn tỉnh
có 1035 làng, khu phố
đạt chuẩn văn hóa/
1566 làng, khu phố,
đạt 66 %; có 253.334/
297.238 hộ gia đình
đạt chuẩn văn hóa,
đạt 85 %. Việc xây
dựng gia đình văn hóa
khơi dậy truyền thống
quê hương, gia đình,
dòng họ. Gắn phong
trào với đời sống xã
hội và chủ yếu thông
qua các yếu tố văn
hóa và nhân tố con
người.
* Thực hiện
nếp sống văn minh
trong việc cưới, việc
tang và lễ hội
Các
địa
phương đã chỉ đạo
xây dựng các hương
ước, quy ước trong đó
có quy định chặt chẽ

về việc cưới, việc
tang, lễ hội gắn liền
với việc thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở
đã tạo những chuyển
biến tích cực.
4.4.3.
Phát
triển sự nghiệp văn
học- nghệ thuật
Hiện
nay Hội Văn học
Nghệ thuật Tỉnh
thường xuyên đổi
mới phương thức hoạt
động, tạo điều kiện để
các văn nghệ sĩ được
giao lưu, sinh hoạt
nghề nghiệp, đi thực
tế sáng tác và công

bố, giới thiệu tác
phẩm thông qua các
cuộc triển lãm, các
buổi ra mắt tác phẩm
mới...
Các
Hội
VHNT địa phương,
đã luôn bám sát các

sự kiện chính trị, xã
hội, các ngày lễ lớn
của đất nước, của
tỉnh, kịp thời tổ chức
các hoạt động hưởng
ứng. Ngoài ra còn tổ
chức, hoặc phối hợp
tổ chức các trại sáng
tác VHNT... Những
hoạt động này đã góp
phần làm sinh động
thêm đời sống VHNT
tỉnh nhà trong suốt
những năm qua, là
nòng cốt trong hoạt
động sáng tác.

4.4.4. Công
tác bảo tồn, phát huy
Di sản văn hóa
Nhiều DSVH
vật thể và phi vật thể
được bảo tồn, tôn tạo
và phát huy giá trị.
Đến nay toàn tỉnh có
626 di tích đã được
kiểm kê, 125 di tích
được xếp hạng, trong
đó 64 di tích được
xếp hạng quốc gia (có

03 di tích quốc gia
đặc biệt), 61 di tích
cấp tỉnh. Các di tích
này cùng với hệ thống
các di sản văn hóa vật
thể, phi vật thể trong
tỉnh là nguồn lực
quan trọng đóng góp
vào sự phát triển
mạnh mẽ của ngành
du lịch Quảng Ninh

nói riêng và cả nước
nói chung.
4.4.5.
Phát
triển sự nghiệp giáo
dục - đào tạo và khoa
học - công nghệ
- Về giáo dục
đào tạo:
Giáo dục đào
tạo tiếp tục duy trì
quy mô và nâng cao
chất lượng ở các
ngành học, cấp học.
Giữ vững kết quả phổ
cập giáo dục tiểu học
đúng độ tuổi và xóa
mù chữ; hoàn thành

phổ cập giáo dục
trung học cơ sở. Công
tác quản lý nhà nước
về giáo dục đào tạo
được tăng cường gắn
với các cuộc vận
động đạt kết quả tích
cực. Đã phối hợp chặt
chẽ với các bộ, ngành
Trung ương trong đổi
mới, nâng cao chất
lượng giáo dục đào
tạo tại các trường cao
đẳng, trung học
chuyên nghiệp, công
nhân kỹ thuật.
- Về khoa
học- công nghệ:
Tỉnh đã đề ra
nhiều chủ trương,
định đướng lớn nhằm
đẩy mạnh hoạt động
khoa học và công
nghệ như ban hành
Nghị quyết số 04NQ/TU về phát triển
KH&CN của tỉnh
Quảng Ninh giai đoạn
2011-2015,
định
hướng đến năm 2020,

tạo bước chuyển biến

tích cực trong nhận
thức và hành động
của các cấp các ngành
các địa phương cho
đến các tổ chức,
doanh nghiệp trên địa
bàn tỉnh về hoạt động
KH&CN. Đặc biệt,
4.4.6. Tăng
cường công tác thông
tin đại chúng
Các phương
tiện thông tin đại
chúng (Truyền hình,
phát thanh, báo chí,
xuất bản…) của tỉnh
vừa được quản lý chặt
chẽ về nguyên tắc,
vừa cởi mở thông
thoáng về hoạt động
đã đáp ứng ngày một
tốt hơn nhu cầu ngày
càng cao về nguồn
thông tin của nhân
dân. Các hình thức
thông tin đại chúng
được chú trọng, bảo
đảm chất lượng, số

lượng, thông tin được
cung cấp đến từng
thôn, khu phố và từng
hộ gia đình thông qua
hệ thống loa đài,
truyền thanh, truyền
hình, báo chí….
Đài
PT-TH
Tỉnh đã có nhiều đổi
mới trong hoạt động,
như nâng dần thời
lượng phát sóng, sản
xuất thêm các chuyên
mục, các kênh truyền
thông mới, xây dựng
Đài từng bước trở
thành một tổ hợp
truyền thông đa
phương tiện, mở rộng
diện phủ sóng PT-TH
tới các xã khó khăn,


vùng sâu, vùng xa
trong tỉnh, trên 90%
hộ dân trong tỉnh đã
nghe, xem được PTTH Quảng Ninh.
Tăng thời lượng phát
thanh lên 18 tiếng/

ngày, truyền hình 2
kênh QTV1 và QTV3
được phát sóng 24
tiếng/ngày.
4.4.7. Bảo tồn,
phát huy và phát triển
văn hóa các dân tộc
thiểu số
Đảng bộ,
chính quyền các cấp
đã có những chủ
trương đúng đắn
trong việc giữ gìn bản
sắc văn hoá đồng bào
dân tộc thiểu số trên
địa bàn tỉnh. Nghị
quyết Đại hội Đảng
bộ tỉnh Quảng Ninh
lần thứ XII đề ra
nhiệm vụ "chăm lo
phát triển văn hoá
đồng bộ với kinh tế,
coi văn hoá vừa là
mục tiêu, vừa là nền
tảng tinh thần, là động
lực của sự phát triển
kinh tế-xã hội", "giữ
vững và phát huy
những giá trị văn hoá
truyền thống". Ngày

04/7/2006,
UBND
tỉnh Quảng Ninh đã
ban hành Quyết định
số 1872/QĐ-UBND
về việc Điều chỉnh,
bổ sung Quy hoạch
phát triển sự nghiệp
văn hoá Thông tin
đến năm 2010 và định
hướng đến năm 2020.
Chú trọng bảo
tồn và phát huy giá trị

các di tích lịch sử văn
hoá, di tích cách
mạng, danh lam thắng
cảnh, khu vực sinh
thái đặc biệt vùng dân
tộc thiểu số như Di
tích đình Lục Nà (xã
Lục Hồn, Bình Liêu),
Di tích địa điểm chiến
thắng Điền Xá trên
đường số 4 (huyện
Tiên Yên), Di tích
lịch sử cách mạng
Khe Lao (xã Lương
Mông, Ba Chẽ), Sơn
Dương, Bằng Cả

(Hoành Bồ) và các di
tích, danh thắng khác;
bảo tồn bản, làng
truyền thống.
Công tác khảo
cứu, sưu tầm, bảo tồn,
phát huy giá trị văn
học dân gian (truyện
cổ tích, ngụ ngôn, ca
dao, tục ngữ, câu đố
…) , văn nghệ dân
gian (hát, múa, nhạc),
trò chơi dân gian,
phong tục tập quán, lễ
hội truyền thống,
nghề thủ công truyền
thống, văn hoá ẩm
thực, tri thức dân gian
các dân tộc thiểu số
… tiếp tục triển khai
và được sự quan tâm
của các cấp uỷ Đảng,
chính quyền
4.4.9. Hợp tác
giao lưu quốc tế về
văn hóa
Với vị trí địa
lý là tỉnh biên giới,
tiếp giáp với tỉnh
Quảng Tây (Trung

Quốc) nên công tác
đối ngoại, ngoại giao
nhân dân là hết sức

quan trọng, nhằm
tăng cường hiểu biết
lẫn nhau, xây dựng
biên giới hòa bình,
hữu nghị, hợp tác,
cùng phát triển.
Quảng Ninh là tỉnh
đầu tiên trong cả
nước có giao lưu văn
hóa với Quảng Tây về
một số mặt từ những
năm 1992, 1993, hai
bên đã trao đổi các
Đoàn nghệ thuật, các
cuộc triển lãm của các
họa sỹ hai Tỉnh.
Trong những năm qua
Tỉnh đã quan tâm cử
nhiều đoàn cán bộ đi
trao đổi kinh nghiệm
về công tác quản lý
văn hóa, nghệ thuật ở
một số nước, cũng
như đón tiếp các đoàn
của các nước tới làm
việc, trao đổi kinh

nghiệm với tỉnh ta.
4.4.10. Xây
dựng thiết chế văn
hóa
Đối
với Thiết chế văn hóa
cấp tỉnh được xác
định là thiết chế có
tầm quan trọng đối
với hoạt động phục
vụ nhiệm vụ chính trị
của tỉnh, hoạt động
theo kế hoạch hàng
năm và còn là nới
hướng dẫn chuyên
môn nghiệp vụ đối
với hệ thống thiết chế
văn hóa cấp huyện và
cơ sở. Thiết chế văn
hóa thể thao cấp tỉnh
với nhiều hoạt động
hướng dẫn nghiệp vụ
như mở lớp, cung cấp
tài liệu cho cơ sở,

hướng
dẫn
thể
nghiệm các mô hình
hoạt động, hội thi, hội

diễn, góp phần thực
hiện đưa văn hóa về
cơ sở. Tỉnh đã quan
tâm quy hoạch khu
vực xây dựng các
thiết chế văn hoá của
Tỉnh như: Quảng
trường văn hoá cọc 3
( Hồng Hải- TP. Hạ
Long) cùng với Bảo
tàng tổng hợp, nối
liền với công viên
Lán Bè (Thành phố
Hạ Long), Thư viện
trung tâm sẽ tạo thành
một quần thể các thiết
chế văn hoá cấp Tỉnh
đủ sức phục vụ nhu
cầu sinh hoạt và sáng
tạo các giá trị văn hoá
của đông đảo quần
chúng nhân dân trong
tỉnh.
5. Đánh giá
chung, nguyên nhân
và bài học kinh
nghiệm
5.1. Đánh giá
chung
a. Ưu điểm

Thông qua các
hoạt động tuyên
truyền, giáo dục văn
hóa, các hoạt động
chỉ đạo, triển khai
Nghị quyết nhận thức
của các cấp ủy Đảng,
chính quyền, các
ngành, đoàn thể, các
tầng lớp nhân dân và
toàn xã hội về văn
hóa, về trách nhiệm
thực hiện nhiệm vụ
phát triển văn hóa
trong giai đoạn mới
đã có sự chuyển biến


tích cực, nhiều giá trị
văn hóa, các quy định
pháp luật và quy chế,
quy tắc ứng xử văn
hóa ngày càng thấm
sâu vào đời sống xã
hội, góp phần tạo
dựng môi trường văn
hóa lành mạnh trong
cộng đồng dân cư,
mỗi gia đình và cá
nhân.

Vai trò của hệ
thống chính trị trong
việc xây dựng đời
sống văn hóa được
phát huy, các mục
tiêu, chỉ tiêu văn hoá
được đưa vào Nghị
quyết của các cấp ủy
Đảng, kế hoạch thực
hiện của chính quyền
từ tỉnh xuống cơ sở.
Nhiều cơ chế chính
sách phát triển văn
hóa được ban hành và
thực hiện có hiệu quả,
mức đầu tư ngân sách
Nhà nước ở các cấp
cho xây dựng đời
sống văn hóa năm sau
cao hơn năm trước.
Các ngành đoàn thể
trong hệ thống chính
trị từ tỉnh xuống cơ sở
đều vào cuộc, nhân
dân đồng tình hưởng
ứng, tạo sự đồng
thuận cao trong xã
hội.
Việc triển khai
thực hiện Nghị quyết

Trung ương 5 (khóa
VIII) đã tác động tích
cực đến phát triển
kinh tế xã hội trên địa
bàn của Tỉnh một
cách
bền
vững.
Truyền thống đoàn
kết và đạo lý dân tộc

được phát huy trở
thành nội lực giúp
nhau phát triển kinh
tế, “ xóa đói giảm
nghèo” “ đền ơn đáp
nghĩa”. Chú trọng xây
dựng con người, gia
đình và cộng đồng,
tình làng nghĩa xóm
được được củng cố,
thực hiện nếp sống
văn minh trong việc
cưới việc tang và lễ
hội có tiến bộ ở nhiều
địa phương. Nhiều
giá trị văn hóa được
bảo tồn, hệ thống thiết
chế văn hóa cơ sở
được duy trì phát

triển, góp phần nâng
cao mức hưởng thụ
văn hóa của người
dân.
Các di sản văn
hóa trên địa bàn đã
được quan tâm đầu tư
tôn tạo, phát huy giá
trị và trở thành sản
phẩm của du lịch với
đặc trưng riêng có của
các địa phương trong
tỉnh, thu hút đông đảo
khách du lịch trong và
ngoài nước.
Về thực hiện 4
nhóm giải pháp lớn
trong Nghị quyết đã
được tổ chức tuyên
truyền sâu rộng gắn
với phong trào thi đua
yêu nước và phong
trào “Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống
văn hóa”. Đã chú
trọng đầu tư xây
dựng, ban hành các
cơ chế chính sách đặc
biệt là chính sách
kinh tế trong văn hóa,

chính sách văn hóa

trong kinh tế. Tập
trung nâng cao hiệu
quả lãnh đạo của
Đảng trên lĩnh vực
văn hóa, nâng cao
tầm nhận thức về vai
trò đặc biệt quan
trọng của văn hóa
trong việc bồi dưỡng
và phát huy nhân tố
con người.
b. Tồn tại, yếu
kém
Bên
cạnh
những thành tựu đạt
được, việc triển khai
đưa Nghị quyết vào
cuộc sống ở nhiều nơi
còn bộc lộ những yếu
kém cần phải khắc
phục.
Thứ
nhất,
việc thực hiện đường
lối, quan điểm của
Đảng về văn hóa, xã
hội và xây dựng con

người còn mang nặng
tính hình thức, chưa
chú trọng đúng mức
tới chất lượng và hiệu
quả. Việc xây dựng
và phát triển văn hóa
mới tiến hành chủ yếu
trong lĩnh vực hoạt
động văn hóa, chưa
tác động sâu rộng và
gắn bó chặt chẽ với
kinh tế và chính trị.
Thứ
hai,
những thành tựu và
tiến bộ đạt được trong
lĩnh vực phát triển
văn hóa, xã hội và
xây dựng con người
chưa tương xứng với
tốc độ phát triển kinh
tế và chưa vững chắc,
chưa tác động có hiệu
quả đối với các lĩnh

vực của đời sống xã
hội, đặc biệt là lĩnh
vực tư tưởng, đạo
đức, lối sống. Nhiệm
vụ xây dựng con

người trong thời kỳ
đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại
hóa chưa có sự
chuyển biến rõ rệt.
Môi trường văn hóa
còn bị ô nhiễm bởi
các tệ nạn xã hội.
Thứ
ba,
nhiệm vụ xây dựng
con người Việt Nam
trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại
hóa chưa tạo được sự
chuyển biến rõ rệt. Sự
xuống cấp về đạo
đức, lối sống của một
bộ phận xã hội ảnh
hưởng không nhỏ đến
đời sống tinh thần,
môi trường văn hóa
lành mạnh. Hiện
tượng coi thường luật
pháp, bạo hành trong
gia đình, cách ứng xử
văn hóa nơi công
cộng..đang làm nhức
nhối dư luận xã hội
bên cạnh các hoạt

động tôn giáo, tín
ngưỡng khá sôi động
và phức tạp, nạn mê
tín dị đoan, lợi dụng
tín ngưỡng để trục lợi;
các hủ tục trong việc
cưới, việc tang và lễ
hội …còn nhiều bất
cập.
Thứ tư: Hệ
thống các thiết chế và
cơ sở vật chất cho
hoạt động văn hóa
nhìn chung vẫn ở tình
trạng thiếu đồng bộ
và hiệu quả sử dụng


còn thấp. Việc xây
dựng thể chế văn hóa
còn chậm, cơ chế
chính sách, xã hội hóa
các hoạt động văn
hóa còn chậm được
ban hành. Công tác
đào tạo đội ngũ cán
bộ quản lý văn hóa
chưa đáp ứng yêu
cầu. Việc phổ biến
sách báo đến với dân

vùng nông thôn, miền
núi, biên giới, hải đảo
còn kém hiệu quả.
Thứ
năm,
một số cấp ủy Đảng
chưa nhận thức hết
vai trò và vị trí của
văn hóa, chưa coi
trọng công tác giáo
dục về tư tưởng, đạo
đức và lối sống, chưa
có biện pháp kết hợp
hữu hiệu giữa xây và
chống trên lĩnh vực
văn hóa. Nội dung,
hình thức giáo dục
đạo đức, lối sống, nếp
sống đối với mọi tầng
lớp trong xã hội đã có
đổi mới, nhưng chưa
thường xuyên, còn
nhiều tồn tại, bất cập
đặc biệt là giáo dục
hình thành nếp sống
văn minh nơi công
cộng.
Thứ
sáu,
công tác lãnh đạo,

quản lý, phối hợp, tổ
chức thực hiện Nghị
quyết ở một số ngành,
địa phương chưa chặt
chẽ; sự chỉ đạo,
hướng dẫn trong hệ
thống từng ngành, địa
phương, có lúc có nơi
thiếu đồng bộ. Còn có
những biểu hiện

buông lỏng, né tránh
hữu khuynh. Mức đầu
tư ngân sách cho văn
hóa còn thấp
Thứ bảy,
chất lượng phong trào
“toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống
văn hóa” chưa đi vào
chiều sâu, cuộc sống.
Chất lượng phong
trào xây dựng gia
đình văn hóa, thôn
khu văn hóa chưa cao
( đặc biệt là khu vực
vùng sâu, vùng xa,
vùng đồng bào dân
tộc ít người
5.2. Bài học

kinh nghiệm
Sau 15 năm
chỉ đạo, triển khai
thực hiện Nghị quyết
có thể rút ra những
bài học kinh nghiệm
cơ bản sau:
Một là, Phát
huy tính năng động,
sáng tạo trong công
tác chỉ đạo và tổ chức
triển khai của cấp ủy
Đảng và chính quyền
từ tỉnh xuống cơ sơ.
Nâng cao hiệu quả
lãnh đạo toàn diện
của các cấp ủy Đảng,
sự đầu tư hỗ trợ của
nhà nước. Huy động
cả hệ thống chính trị
vào cuộc đặc biệt là
vai trò của Mặt trận tổ
quốc, các đoàn thể
chính trị - xã hội là
nhân tố quan trọng để
Nghị quyết đi vào
cuộc sống.
Hai là, Xây
dựng và phát huy ý


thức tự nguyện, tự
giác, tinh thần chủ
động, tích cực sáng
tạo, năng lực tự quản
và huy động nguồn
lực cộng đồng tập
trung đẩy mạnh việc
thực hiện và nâng cao
chất lượng của Phong
trào “Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống
văn hóa” đưa Phong
trào thấm sâu vào mọi
tầng lớp xã hội, tạo sự
chuyển biến tích cực
trong tư tưởng, đạo
đức, lối sống và xây
dựng đời sống văn
hóa cơ sở.
Ba là, Thông
qua các yếu tố văn
hóa và nhân tố con
người, xây dựng con
người mới về tư
tưởng chính trị, đạo
đức lối sống. Vị trí vai
trò của con người
trong cộng đồng, đây
chính là điều kiện tiên
quyết đảm bảo cho

việc thực hiện thắng
lợi các nội dung của
Nghị quyết.
Bốn là, Nội
dung của Nghị quyết
phải gắn với đời sống
xã hội, cụ thể ở từng
địa phương, từng
ngành, phải được thể
hiện thông qua các
yếu tố văn hóa và
nhân tố con người,
hướng tới xây dựng
con người được cụ
thể hóa bằng các
phong trào thi đua,
thu hút đông đảo các
tầng lớp nhân dân
tham gia, góp phần
cải thiện đời sống vật

chất, tinh thần và tạo
sự đồng thuận cao
trong cộng đồng và
xã hội.
Năm là, Đa
dạng hóa nội dung,
phương thức chỉ đạo.
Quan tâm tuyên
truyền, vận động,

lồng ghép nội dung
phong trào “ Toàn dân
đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa” với
các phong trào thi
đua, các cuộc vận
động khác; kịp thời
động viên khen
thưởng các tầng lớp
nhân dân tích cực
tham gia phong trào.
Sáu là, Xây
dựng cơ chế, chính
sách phù hợp với điều
kiện phát triển kinh tế
xã hội ở địa phương,
đơn vị để khuyến
khích, vận động mọi
tổ chức cá nhân tham
gia phát triển, đầu tư
cơ sở hạ tầng cho văn
hóa. Tăng cường
công tác quản lý văn
hóa trên địa bàn, có
chính sách nhằm thu
hút mọi nguồn lực xã
hội đầu tư cho phát
triển văn hóa.
(Phần liên hệ
quá dài đề nghị các

đồng chí tham khảo
hoặc tự liên hệ ở địa
phương mình)


Câu hỏi 2:
Quan niệm về phát
triển, phát triển
bền vững. Vị trí,
vai trò của văn hóa
đối với phát triển
và phát triển bền
vững; Đảm bảo sự
găn kết hài hòa
giữa văn hóa với
kinh tế và chính
trị.
1.
Quan
niệm về phát triển
và phát triển bền
vững.
1.1.

Phát

triển:
Theo
quan
niệm của UNESCO:

"Khái niệm phát
triển phải bao gồm
các nhân tố kinh tế
và xã hội, cũng như
các giá trị đạo đức
và văn hóa, quy
định sự nảy nở và
phẩm giá con người
trong xã hội. Nếu
như con người là
nguồn lực của phát
triển, nếu như con
người vừa là tác
nhân lại vừa là
người được hưởng
thì con người phải
được coi chủ yếu
như sự biện minh và
là mục đích của sự
phát triển".
Như vậy phát
triển là một bước
tiến tương đối toàn
diện và đồng bộ của
một cộng đồng,
quốc gia trong một
thời kỳ nhất định
của đờ sống kinh tế,

chính trị, xã hội và

văn hóa tinh thần.
Phát
triển
phải bao hàm cả sự
tăng trưởng về kinh
tế gắn liền với bảo
đảm tiến bộ và công
bằng xã hội, phát
triển đời sống văn
hóa tinh thần lành
mạnh, phong phú
của con người, bảo
vệ môi trường sinh
thái.
Cần
phải
phát triển toàn diện
cả về kinh tế, văn
hóa, xã hội, ổn định
về chính trị và
hướng tới sự phát
triển bền vững. Cụ
thể:
Về kinh tế:
Không chỉ chú trọng
đến vật chất, quy
mô và số lượng mà
còn quan tâm đến
chất lượng phục vụ
cuộc sống.

Về xã hội:
Cuộc sống văn
minh, bình yên, an
sinh xã hội được
đảm bảo, con người
được sống hài hòa,
công bằng, cuộc
sống được cải thiện,
không có nhóm xã
hội nào đứng ngoài
cuộc sống cộng
đồng và mở mang
quốc gia.
Về
môi
trường tự nhiên:
Tăng cường khả
năng tái sinh của hệ
sinh thái, mức độ ô
nhiễm thấp.

Về chính trị:
Kết hợp và dung
hòa các vấn đề xã
hội. Các quyết sách
chính trị phù hợp
đạo lý và nguyện
vọng của con người,
giảm thiểu căng
thẳng, tôn trọng và

bảo về sự công
bằng, giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc,
tôn trọng pháp luật
quốc tê, hướng tới
phát triển bền vững.
1.2.
Phát
triển bền vững: Là
hoạt động phát triển
nhằm đáp ứng các
nhu cầu của thế hệ
hiện tại mà không
làm tổn hại đến khả
năng đáp ứng các
nhu cầu của thế hệ
mai sau.
Mục tiêu của
phát triển bền vững
là: đạt được sự đầy
đủ về vật chất, sự
giàu có về văn hóa
tinh thần; sự bình
đẳng của các công
dân và sự đồng
thuận của xã hội; sự
hài hòa giữa con
người và tự nhiên.
Ba trụ cột của phát
triển bền vững là:

phát triển bền vững
về kinh tế, xã hội và
môi trường.
Để phát triển
bền vững cần:
- Cân bằng
tăng trưởng kinh tế
với văn hóa

- Cân bằng
lợi ích cá nhân với
cộng đồng
- Cân bằng
lợi ích loài người
với môi trường.
2. Vị trí vai
trò của văn hóa,
con người Việt
nam đối với sự
phát triển bền
vững đất nước.
Trong
các
văn kiện Đảng thời
kỳ đổi mới, Đảng ta
luôn khẳng định vai
trò đặc biệt quan
trọng của văn hóa,
con người đối với sự
phát triển:

Thứ
nhất,
văn hóa là nền tảng
tinh thần của xã hội:
- Là không
gian tinh thần của
cộng đồng, bầu
không khí tinh thần,
khí thế của đông
đảo quần chúng
nhân dân và của
cộng đồng dân tộc
- Hệ tư tưởng
tình cảm, niềm tin,
khát vọng của con
người
- các quan
niệm đạo lý, pháp
lý, đạo đức chuẩn
mực chân, thiện, mỹ
=> Vai trò
nền tảng tinh thần
của xã hội của văn
hóa chính là sức
mạnh của hệ thống
giá trị văn hóa Việt
Nam trong hiện tại


và trong quá khứ.

Truyền thống của
nền văn hóa dân tộc
được hun đúc qua
hàng ngàn năm lịch
sử, có tác dụng chi
phối, điều chỉnh
hành vi xã hội của
con người.
Thứ hai, Văn
hóa là mục tiêu của
sự phát triển:
- Một nền
văn hóa đạt trình độ
cao (chân, thiện,
mỹ) chính là mục
tiêu của sự phát
triển kinh tế - xã
hội, là điều mà quá
trình phát triển của
nhân loại hướng tới.
- Mục tiêu
của phát triển xét
đến cùng phải là văn
hóa, là nâng cao
chất lượng cuộc
sống của con người
với đảm bảo sao cho
kết hợp hài hòa giữa
đời sống vật chất và
đời sống tinh thần,

giữa mức sống cao
và lối sống đẹp,
không chỉ cho một
số ít người mà cho
đại đa số, không chỉ
cho thế hệ hiện nay
mà còn cho các thế
hệ mai sau.
- Văn hóa với
tư cách là đời sống
tinh thần xã hội mục tiêu đặc biệt
quan trọng, vì nó là
nhu cầu vô cùng, vô
tận, tinh tế của con
người.

- Khi coi văn
hóa là mục tiêu của
sự phát triển kinh
tế-xã hội cũng có
nghĩa là toàn bộ sự
phát triển kinh tế xã hội phải hướng
tới sự phát triển con
người, phát triển xã
hội, nâng cao đời
sống vật chất và tinh
thần của xã hội theo
tiêu chí phát triển
mới HDI (mức
sống, tuổi thọ bình

quân và trình độ học
vấn).
Thứ ba, Văn
hóa, con người là
động lực, là sức
mạnh nội sinh đảm
bảo sự phát triển
bền vững đất nước.
- Trong thời
đại ngày nay, nguồn
gốc của sự giàu có,
không chỉ là tài
nguyên thiên nhiên,
vốn kỹ thuật mà yếu
tố ngày càng có ý
nghĩa quan trọng và
quyết định là nguồn
lực con người, là
tiềm năng sáng tạo
của con người.
- Tiềm lực
sáng tạo của con
người nằm trong
văn hóa, trong trí
tuệ, đạo đức, tâm
hồn, nhân cách, lối
sống…
- Đảng ta coi
văn hóa là nền tảng
tinh thần của xã hội,

chính là coi trọng
nguồn lực văn hóa,
động lực văn hóa

của sự phát triển đất
nước.
- Nghị quyết
hội nghị lần thứ 9
BCH TW khóa XI
đã nhấn mạnh văn
hóa, con người Việt
Nam là sức mạnh
nội sinh, đáp ứng
yêu cầu phát triển
bền vững của đất
nước.
- Khi mọi giá
trị văn hóa thấm sâu
vào toàn bộ đời
sống và hoạt động
xã hội, thấm vào tất
cả các lĩnh vực hoạt
động sáng tạo của
con người thì văn
hóa sẽ thúc đẩy
mạnh mẽ sự phát
triển.
- Khi thực
hiện mục tiêu tất cả
vì sự phát triển toàn

diện và bền vững, vì
dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh theo
định hướng xã hội
chủ nghĩa, đòi hỏi
chúng ta phải đặc
biệt quan tâm đến
văn hóa và phát
triển.
3. Mối quan
hệ gắn kết giữa
văn hóa với kinh
tế, chính trị
Trong thời kỳ
đẩy mạnh CNH,
HĐH và hội nhập
quốc tế hiện nay,
việc phát triển bền
vững đất nước phụ
thuộc vào việc giải
quyết hài hòa và

hợp lý các mối quan
hệ lớn mà Cương
lĩnh xây dựng và
phát triển đất nước
trong thời kỳ quá độ
lên CNXH (Bổ sung
và phát triển năm

2011) đã nêu là
nhiệm vụ quan
trọng. Trong đó có
mối quan hệ giữa
phát triển kinh tế và
phát triển văn hóa,
thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội.
Nhận thức toàn diện
và sâu sắc mối quan
hệ này trong xây
dựng và phát triển
đất nước hiện nay là
vấn đề vừa có ý
nghĩa lý luận, vừa
có ý nghĩa thực tiễn.
3.1.
Quan
niệm về phát triển
kinh tế và phát
triển văn hóa.
Phát
triển
kinh tế là quá trình
lớn lên nhiều mặt
của nền kinh tế, bao
gồm: tăng trưởng
GDP; hoàn chỉnh cơ
cấu, thể chế kinh tế,
nâng cao thu nhập

trên đầu người và
chất lượng cuộc
sống. Phát triển kinh
tế hiện nay được
nhấn mạnh là phát
triển bền vững nền
kinh tế của mỗi
quốc gia.
Nội
dung cơ bản của
phát triển kinh tế
gồm:
Tăng
trưởng kinh tế là tạo
điều kiện đầu tiên,


bao gồm: gia tăng
về quy mô sản
lượng và năng suất
trong nền kinh tế,
diễn ra trong thời
gian tương đối dài
và ổn định;
- Sự thay đổi
trong cơ cấu kinh tế,
thể hiện qua tỷ trọng
giữa các ngành, các
thành phần kinh tế,
các vùng miền theo

hướng tiến bộ, hợp
lý hơn… Trong đó,
tỷ trọng của vùng
nông thôn giảm
tương đối so với tỷ
trọng đô thị, tỷ trọng
các ngành công
nghiệp, dịch vụ
tăng;
- Thu nhập
trên đầu người ổn
định và nâng cao
hơn, đời sống của
đại bộ phận nhân
dân được cải thiện;
- Trình độ tư
duy khoa học của xã
hội phát triển;
- Nền kinh tế
mở rộng và năng
động, giàu khả năng
thích ứng;
- Là một quá
trình tiến hóa theo
thời gian và do
những nhân tố nội
tại quyết định.
Mục tiêu của
phát triển bền vững
là: đạt được sự đầy

đủ về vật chất, sự
giàu có về văn hóa
tinh thần; sự bình
đẳng của các công

dân và sự đồng
thuận của xã hội; sự
hài hòa giữa con
người và tự nhiên.
Ba trụ cột của phát
triển bền vững là:
phát triển bền vững
về kinh tế, xã hội và
môi trường.
Tăng trưởng
kinh tế bền vững là
là tăng trưởng kinh
tế không chỉ bao
hàm tăng thu nhập
bình quân đầu người
mà phải hướng tới
phát triển bền vững
của cả hiện tại và
tương lai, chú trọng
cả ba nhân tố: Kinh
tế, xã hội và môi
trường; duy trì tốc
độ tăng trưởng cao
trong dài hạn, tăng
thu hập phải gắn với

nâng cao chất lượng
cuộc sống hay tăng
phúc lợi và xóa đói
giảm nghèo. Tăng
trưởng không nhất
thiết phải đạt tốc độ
cao mà cần ở mức
độ hợp lý, bền vững.
Các nhân tố
bảo
đảm
tăng
trưởng kinh tế bền
vững gồm:
- Bảo vệ môi
trường
- Dựa vào
sức mạnh nội tại
- Bình đẳng
trong thu nhập
- Xác lập một
thị trường lao động
thống nhất

- Xây dựng
một hệ thống an
sinh xã hội lành
mạnh
Như
vậy,

phát triển kinh tế
bền vững phải gắn
liền với phát triển xã
hội, bảo vệ môi
trường và phát triển
con người.
Phát
triển
văn hóa là phát triển
toàn diện và đồng
bộ các thành tố cấu
thành đời sống văn
hóa của một quốc
gia dân tộc.
Văn hóa là
khái
niệm
đa
nghĩa:
Thứ
nhất,
Văn hóa được hiểu
như là năng lực sáng
tạo hướng tới các
giá trị nhân văn,
thúc đẩy sự tiến bộ
của xã hội. Do đó,
văn hóa là phạm trù
chỉ thuộc tính của
con người (Cá nhân

và cộng đồng), đánh
giá trình độ và chất
lượng sống của con
người trong hoạt
động thực tiễn xã
hội. Do đó, phát
triển văn hóa là phát
triển năng lực và
phẩm chất của con
người, của cộng
đồng, kết tinh vào
nhân cách, cốt cách,
bản lĩnh của con
người trong mỗi
quốc gia, mỗi dân
tộc. Đây chính là
nguồn gốc sản sinh
ra các giá trị văn

hóa vật chất và các
giá trị văn hóa tinh
thần, phục vụ cho
nhu cầu tồn tại và
phát triển của con
người.
Thứ hai, Văn
hóa được hiểu là
một bộ phận của
kiến thượng tầng
dựa trên sự phát

triển của cơ sở hạ
tầng mà cốt lõi là
kinh tế:
- Kinh tế là
cơ sở, là điều kiện
để phát triển văn
hóa.
- Văn hóa
phản ánh sự phát
triển kinh tế - xã hội
và có tác động năng
động đối với tồn tại
xã hội, đối với kinh
tế.
=> Vì vậy
muốn xây dựng và
phát triển nền văn
hóa thì phải phát
triển kinh tế, chống
chủ nghĩa duy tâm,
giáo điều - muốn
xây dựng nền văn
hóa cao trong khi
nền kinh tế còn thấp
kém lạc hậu.
Tuy
nhiên,
không phải chờ khi
nào có nền tảng
kinh tế cao mới xây

dựng và phát triển
nền văn hóa mới mà
phải xây dựng từng
bước trong quá trình
phát triển nền kinh
tế. Phát triển văn
hóa là phát triển các
lĩnh vực liên quan


đến đời sống tinh
thần của xã hội,
thống nhất với nền
tảng vật chất là cơ
sở kinh tế - xã hội
để tạo nên sự phát
triển đồng bộ và
toàn diện của hình
thái kinh tế - xã hội
mới.
Thứ ba, văn
hóa là một trong
bốn lĩnh vực chủ
yếu của quốc gia:
+ Kinh tế
+ Chính trị
+ Xã hội
+ Văn hóa
Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nhấn

mạnh: trong lĩnh
vực kiến thiết nước
nhà có bốn lĩnh vực
cần được coi trọng
ngang nhau, đó là
chính trị, kinh tế, xã
hội và văn hóa.
Nghị quyết
TW 9 khóa 11 "Về
xây dựng và phát
triển văn hóa, con
người Việt Nam đáp
ứng yêu cầu phát
triển bền vững đất
nước", nhấn mạnh:
văn hóa phải được
đặt ngang hàng với
chính trị, kinh tế và
xã hội. Đây là tiền
đề để khắc phục xu
hướng coi nhẹ văn
hóa, xem thường
các giá trị văn hóa,
đạo đức, lối sống;
tuyệt đối hóa nhân
tố kinh tế, rơi vào
chủ nghĩa duy kinh

tế mà Ph.Awngghen
đã từng phê phán.

Như vậy, xét
trong mối tương
quan giữa chính trị,
kinh tế, xã hội thì
văn hóa là một bộ
phận đóng vai trò
trụ cột như các lĩnh
vực khác, cần có sự
quan tâm đầy đủ và
đồng bộ để tạo nên
sức mạnh tổng hợp
của quốc gia trong
quá trình phát triển.
Phát triển
văn hóa ở đây chính
là phát triển các lĩnh
vực hoạt động văn
hóa, từ việc xây
dựng con người,
trọng tâm là xây
dựng tư thưởng, đạo
đức lối sống tới xây
dựng môi trường
văn hóa tinh thần
lành mạnh; bảo tồn
tồn và phát huy các
giá trị văn hóa của
dân tộc kết hợp với
tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại; phát

triển sự nghiệp dáo
dục đào tạo, khoa
học công nghệ, văn
họa nghệ thuật,
truyền thông đại
chúng, giao lưu hợp
tác quốc tế về văn
hóa…, cụ thể:
- Hoàn thiện
các giá trị văn hóa
và con người Việt
Nam,
tạo
môi
trường và điều kiện
để phát triển về
nhân cách, đạo đức,
trí tuệ, năng lực
sáng tạo, thể chất,

tâm
hồn,
trách
nhiệm xã hội, nghĩa
vụ công dân…
- Xây dựng
môi trường văn hóa
lành mạnh, phù hợp
với bối cảnh phát
triển kinh tế thị

trường định hướng
XHCN và hội nhập
quốc tế.
- Hoàn thiện
thể chế, chế định
pháp lý và thiết chế
văn hóa…
- Xây dựng
thị trường văn hóa
lạnh mạnh, đẩy
mạnh phát triển
công nghiệp văn
hóa, tăng cường
quảng bá văn hóa
Việt Nam.
- Từng bước
thu hẹp khoảng cách
và hưởng thụ văn
hóa giữa thành thị
và nông thôn, giữa
các vùng miền và
các giai tầng xã hội.
Ngăn chặn và đẩy
lùi sự xuống cấp về
đạo đức xã hội.
Cương lĩnh
xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ
lên CNXH (Bổ
sung, phát triển năm

2011) xác định chế
độ xã hội XHCN mà
nhân dân xây dựng
là xã hội: dân giàu,
nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn
minh; do nhân dân
làm chủ; có nền
kinh tế phát triển
cao dựa trên lực

lượng sản xuất hiện
đại và quan hệ sản
xuất tiến bộ phù
hợp; có nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; con
người có cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện;
các dân tộc trong
cộng đồng Việt Nam
bình đẳng, đoàn kết,
tôn trọng và giúp
nhau cùng phát
triển; có Nhà nước
pháp quyền XHCN
của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân

dân do Đảng Cộng
sản lãnh đạo; có
quan hệ hữu nghị và
hợp tác với các
nước trên thế giới”.
Đồng thời, Cương
lĩnh cũng xác định:
“Mục tiêu tổng quát
khi kết thúc thời kỳ
quá độ ở nước ta là
xây dựng được về
cơ bản nền tảng
kinh tế của CNXH
với kiến trúc thượng
tầng về chính trị, tư
tưởng, văn hóa phù
hợp, tạo cơ sở để
nước ta trở thành
một nước XHCN
ngày càng phồn
vinh, hạnh phúc”
3.2.
Mối
quan hệ giữa phát
triển kinh tế và
phát triển văn hóa
trong xây dựng và
phát triển đất nước
Nhìn
một

cách tổng quát, phát
triển kinh tế chính là
tạo tiền đề vật chất


cho sự phát triển
văn hóa và con
người, tạo điều kiện
để con người có thể
tham gia vào quá
trình sáng tạo, sản
xuất, truyền bá và
thụ hưởng các giá trị
văn hóa ngày càng
nhiều. Tuy nhiên,
phát triển kinh tế
bền vững, bảo đảm
sự thống nhất giữa
tăng trưởng kinh tế
bền vững với bảo
đảm các vấn đề xã
hội và môi trường,
góp phần nâng cao
chất lượng cuộc
sống của con người
là mục tiêu hàng
đầu. Nền kinh tế
được xác định là
nền kinh tế thị
trường nhân văn,

kinh tế thị trường
định hướng XHCN,
có sự điều tiết và
quản lý thống nhất
của Nhà nước, để
vừa bảo đảm tự do
cho kinh tế thị
trường phát triển,
vừa bảo đảm định
hướng chính trị ưu
việt của chế độ
XHCN.
Mặt
khác,
văn hóa phát triển sẽ
góp phần xây dựng
và nâng cao chất
lượng nguồn nhân
lực lao động, tạo lập
môi trường văn hóa
tinh thần lành mạnh,
nâng cao trình độ
dân trí, trình độ
khoa học công nghệ,
nâng cao kỷ cương,
kỷ luật và đạo đức
nghề nghiệp, góp

phần làm động lực
thúc đẩy kinh tế - xã

hội phát triển.
Mục
tiêu
cuối cùng của phát
triển kinh tế và văn
hóa là nâng cao chất
lượng cuộc sống,
đem lại hạnh phúc
thực sự cho con
người. Đây chính là
điểm tương đồng,
nơi hội tụ định
hướng phát triển của
kinh tế và văn hóa.
Sự khác biệt
giữa phát triển kinh
tế và phát triển văn
hóa ở đây chính là
sự khác biệt về vai
trò, chức năng xã
hội trong việc tham
gia vào quá trình
phát triển con người
để tạo nên sự phát
triển tổng thể cả về
đời sống vật chất và
đời sống tinh thần
của con người (bao
gồm cá nhân và
cộng đồng, dân tộc

và nhân loại, các
giai cấp và các tầng
lớp xã hội khác
nhau).
Nhận thức về
vai trò của từng lĩnh
vực kinh tế, chính
trị và văn hóa trong
quá trình xây dựng
và phát triển đất
nước, Đại hội X của
Đảng nhấn mạnh:
“Đảm bảo gắn kết
giữa nhiệm vụ phát
triển kinh tế là trung
tâm, xây dựng Đảng
là then chốt với phát
triển văn hóa- nền

tảng tinh thần của
xã hội”(4). Khẳng
định vai trò của văn
hóa trong quá trình
xây dựng và phát
triển đất nước, Nghị
quyết Trung ương 9
khóa XI xác định:
“Văn hóa là nền
tảng tinh thần của
xã hội, là mục tiêu,

động lực phát triển
bền vững đất nước.
Văn hóa phải được
đặt ngang hàng với
kinh tế, chính trị,
xã hội”.
Từ khi tiến
hành sự nghiệp đổi
mới đến nay, Đảng
ta luôn chú ý đến
mối quan hệ giữa
phát triển kinh tế và
phát triển văn hóa.
Văn kiện Đại hội VI
(1986), nhấn mạnh:
“Mục tiêu ổn định
tình
hình,
giải
phóng năng lực sản
xuất không chỉ là
phát triển sản xuất,
xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật mới
mà còn là giải quyết
các vấn đề xã hội, từ
công việc làm đến
đời sống vật chất và
văn hóa, bồi dưỡng
sức dân, xây dựng

các quan hệ xã hội
tốt đẹp, lối sống
lành mạnh, thực
hiện công bằng xã
hội, với ý thức
người lao động là
lực lượng sản xuất
lớn nhất, là chủ thể
của xã hội”.
Đại hội VIII
của Đảng yêu cầu:

“Kết hợp hài hòa
giữa tăng trưởng
kinh tế và thực hiện
công bằng xã hội,
tiến bộ xã hội, tạo
bước chuyển biến
mạnh mẽ trong việc
giải quyết những
vấn đề xã hội bức
xúc, đẩy lùi tiêu
cực, bất công và
các tệ nạn xã hội”.
Trong Cương
lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ
quá độ lên CNXH
(Bổ sung, phát triển
năm 2011), Đảng ta

xác định các mối
quan hệ lớn cần phải
giải quyết để đảm
bảo sự phát triển
bền vững đất nước,
không phiến diện,
cực đoan, duy ý chí.
Trong đó có mối
quan hệ “giữa tăng
trưởng kinh tế và
phát triển văn hóa,
thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội”.
Trong định
hướng phát triển
kinh tế - xã hội, đổi
mới mô hình tăng
trưởng, cơ cấu lại
nền kinh tế, Đại hội
XI nhấn mạnh đến
yêu cầu phát triển
toàn diện các lĩnh
vực văn hóa - xã hội
hài hòa với phát
triển kinh tế: “Tạo
bước phát triển
mạnh mẽ về văn
hóa, xã hội. Tăng
đầu tư của Nhà
nước, đồng thời đẩy

mạnh huy động các
nguồn lực xã hội để


phát triển văn hóa,
xã hội. Hoàn thiện
hệ thống chính sách,
kết hợp chặt chẽ các
mục tiêu, chính sách
kinh tế với các mục
tiêu, chính sách xã
hội; thực hiện tốt
tiến bộ, công bằng
xã hội trong từng
bước, từng chính
sách phát triển phù
hợp với điều kiện cụ
thể, đảm bảo phát
triển nhanh, bền
vững”.
Trên cơ sở
tổng kết 30 năm đổi
mới, Đại hội XII
của Đảng đã rút một
số bài học kinh
nghiệm, trong đó có
bài học “Đổi mới
phải toàn diện, đồng
bộ, có bước đi phù
hợp; tôn trọng quy

luật khách quan,
xuất phát từ thực
tiễn, bám sát thực
tiễn, coi trọng tổng
kết thực tiễn, nghiên
cứu lý luận, tập
trung giải quyết kịp
thời, hiệu quả những
vấn đề do thực tiễn
đặt ra”. Đại hội tiếp
tục nhấn mạnh việc
gắn kết chặt chẽ
giữa kinh tế và văn
hóa trong quá trình
phát triển bền vững
đất nước.
Đại hội XII
đã xác định phương
hướng, mục tiêu
phát triển kinh tế thị
trường định hướng
XHCN: “Nền kinh
tế thị trường định
hướng XHCN Việt

Nam là nền kinh tế
vận hành đầy đủ,
đồng bộ theo các
quy luật của kinh tế
thị trường, đồng

thời đảm bảo định
hướng XHCN phù
hợp với từng giai
đoạn phát triển của
đất nước. Đó là nền
kinh tế thị trường
hiện đại và hội nhập
quốc tế; có sự quản
lý của Nhà nước
pháp quyền XHCN,
do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo,
nhằm mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng,
văn minh”(11). Đồng
thời, Đảng ta đã xác
định mục tiêu: “Đến
năm 2020, phấn đấu
hoàn thiện đồng bộ
hệ thống thể chế
kinh tế thị trường
định hướng XHCN
theo các tiêu chuẩn
phổ biến của nền
kinh tế thị trường
hiện đại và hội nhập
quốc tế; đảm bảo
tính đồng bộ giữa
thể chế kinh tế và

thể chế chính trị,
giữa Nhà nước và
thị trường; bảo đảm
sự hài hòa giữa tăng
trưởng kinh tế với
phát triển văn hóa,
phát
triển
con
người, thực hiện
tiến bộ, công bằng
xã hội, đảm bảo an
sinh xã hội, bảo vệ
môi trường, phát
triển xã hội bền
vững...”.
Trong
lĩnh
vực phát triển văn

hóa, Đảng ta đã
nhấn mạnh: “Xây
dựng môi trường
văn hóa lành mạnh,
phù hợp với bối
cảnh phát triển kinh
tế thị trường định
hướng XHCN và
hội nhập quốc tế”;
cụ thể là “Thường

xuyên quan tâm xây
dựng văn hóa trong
kinh tế. Xây dựng
văn hóa doanh
nghiệp, văn hóa
doanh nhân với ý
thức tôn trọng, chấp
hành pháp luật, giữ
gìn chữ tín, cạnh
tranh lành mạnh vì
sự phát triển bền
vững đất nước, góp
phần xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc”.
Một
trong
những nhận thức
mới của Đảng về
mối quan hệ giữa
kinh tế và văn hóa là
chú ý chức năng
kinh tế của văn hóa,
coi trọng chính sách
kinh tế trong văn
hóa và chính sách
văn hóa trong kinh
tế. Đồng thời, xác
định nhiệm vụ quan
trọng trong quá trình
xây dựng, phát triển

văn hóa và con
người Việt Nam đáp
ứng yêu cầu phát
triển bền vững đất
nước là xây dựng
văn hóa trong kinh
tế: “Thường xuyên
quan tâm xây dựng
văn hóa trong kinh
tế. Con người thực
sự là trung tâm
trong quá trình phát

triển kinh tế - xã
hội”(15). Đẩy mạnh
“phát triển công
nghiệp văn hóa đi
đôi với xây dựng,
hoàn
thiện
thị
trường văn hóa”.
Như vậy, về
phương diện lý luận,
Đảng ta đã nhận
thức ngày càng toàn
diện và sâu sắc hơn
về mối quan hệ biện
chứng giữa phát
triển kinh tế và phát

triển văn hóa, thực
hiện tiến bộ và công
bằng xã hội. Những
chủ trương, quan
điểm, chính sách
của Đảng và Nhà
nước về giải quyết
mối quan hệ này
trong hoạt động
thực tiễn đã góp
phần bảo đảm giữ
vững định hướng
chính trị, đề cao tính
văn hóa của nền
kinh tế, xây dựng và
phát triển nền văn
hóa, con người Việt
Nam đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp
đổi mới đất nước.
* Một số vấn
đề đặt ra hiện nay
- 1 số đấu
hiệu về độ chênh:
Tăng trưởng Kt
nhưng việc làm
ngày càng giảm, gia
tăng sự thất nghiệp,
khoảng cách phân
hóa giàu nghèo, bất

công xã hội...; mất
quyền làm chủ, sự
lũng đoạn của các
thế lực đồng tiền do


mặt trái của KTTT;
suy thoái về văn
hóa, đạo đức, ô
nhiễm môi trường,
tài nguyên cạn kiệt,
cân bằng sinh thái bị
phá vỡ; tiềm ẩn mất
ổn định về chính trị,
bạo động lật đỗ từ
tự chuyển hóa, tự
chuyển
biến,
DBHB... tuy nhiên 1
quốc gia muốn phồn
vinh bắt buộc phải
phát triển kinh tế
nhưng phải hài hòa,
phát triển phải bền
vững, không đánh
đổi kinh tế bằng mọi
giá, có chiến lược
kết hợp phải giải
quyết các vấn đề xã
hội nảy sinh, bảo

tồn và phát huy
truyền thống văn
hóa tốt đẹp. Phát
triển kinh tế phải
bao hàm cả sự tăng
trưởng về kinh tế
gắn liền với bảo
đảm tiến bộ và công
bằng xã hội, phát
triển đời sống tinh
thần lành mạnh,
phong phú của con
gn]ời, bảo vệ môi
trường sinh thái. chú
ý cả về ổn định
chính trị tập trung
các chính sách chú
trọng đến phát triển
con người, muốn xd
cnxh phải có con
người cnxh, bảo vệ
sự công bằng, giải
quyết việc làm, gìn
giữ bản sắc văn hóa,
tôn trọng pháp luật
quốc tế.
- Về nhận
thức lý luận, phát

triển kinh tế và phát

triển văn hóa của
đất nước trong thời
kỳ đổi mới hiện nay
đều hướng tới thực
hiện mục tiêu phát
triển bền vững đất
nước. Điểm tương
đồng tạo nên sự
thống nhất trong
phát triển kinh tế và
phát triển văn hóa là
vì mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng,
văn minh”, vì độc
lập dân tộc, tự do,
hạnh phúc của con
người. Sự phát triển
kinh tế và phát triển
văn hóa đều đặt
dưới sự lãnh đạo
của Đảng và quản lý
của Nhà nước pháp
quyền XHCN. Tuy
nhiên, trong thực
tiễn hiện nay, các
hoạt động kinh tế
chưa có sự gắn kết
chặt chẽ với văn
hóa; hệ thống luật

pháp, chính sách
kinh tế và văn hóa
chưa thực sự quan
tâm đến sự gắn kết
này.
Trong việc
phân bổ các nguồn
lực,
Nhà
nước
thường tập trung
cho nhiệm vụ tăng
trưởng kinh tế, chưa
đầu tư đúng mức
cho văn hóa. Trong
khi xây dựng quy
hoạch và phát triển
các
khu
công
nghiệp, khu đô thị,
các nhà quản lý
thường tập trung
vào mục tiêu lợi ích

kinh tế, chưa chú ý
tới điều kiện sống,
môi trường lao động
và đời sống văn hóa
tinh thần của người

lao động. Doanh
nghiệp thường chạy
theo lợi ích kinh tế,
ít quan tâm đến các
giá trị văn hóa và
chia sẻ trách nhiệm
với cộng đồng xã
hội. Các hoạt động
văn hóa cũng tiến
hành theo “quán
tính bao cấp cũ”,
chưa tích cực chủ
động tham gia vào
“làm giàu bằng văn
hóa” để phát triển
kinh tế - xã hội. Sự
tách rời giữa hoạt
động kinh tế và hoạt
động văn hóa có
chiều hướng gia
tăng cả ở các cấp
Trung ương, cấp bộ,
ngành

địa
phương. Đặc biệt,
xu hướng này thể
hiện khá rõ ở các
‘’nhóm lợi ích’’
khác nhau, tìm cách

để “lách luật” nhằm
mục tiêu lợi nhuận,
phá vỡ kỷ cương,
pháp luật, tạo cơ hội
cho tham nhũng
phát triển, gạt bỏ
các giá trị văn hóa
và nhân văn ra khỏi
hoạt động kinh tế.
Đây chính là quá
trình “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” của
kinh tế, có thể dẫn
dắt nền kinh tế rơi
vào tình trạng khủng
hoảng, đi ngược lại
mục tiêu phát triển
nền kinh tế thị

trường định hướng
XHCN, làm biến
dạng mục tiêu chính
trị. Những vụ án
kinh tế lớn gần đây
đã cảnh báo nguy cơ
này và đòi hỏi phải
có các giải pháp
khắc phục, trong đó
có giải pháp “xây
dựng văn hóa trong

kinh tế”.
Mối quan hệ
giữa phát triển kinh
tế và phát triển văn
hóa không phải là
mối quan hệ cơ học,
tách biệt hoặc đối
lập nhau mà quan hệ
biện chứng, thể
hiện ở chất lượng
phát triển bền vững
của quốc gia. Nếu
phát triển kinh tế để
xây dựng nền tảng
vật chất thì phát
triển văn hóa để tạo
dựng nền tảng tinh
thần của xã hội. Sự
phát triển đồng bộ
của hai lĩnh vực
trọng yếu này góp
phần vào sự phát
triển bền vững đất
nước. Định hướng
giá trị cốt lõi của
phát triển kinh tế và
phát triển văn hóa là
vì lợi ích của quốc
gia dân tộc, vì hạnh
phúc của nhân dân,

vì sự phát triển nhân
cách của mỗi con
người. Từ thực tiễn
đổi mới đất nước 30
năm vừa qua, Đảng
ta đã rút ra bài học
kinh nghiệm là:
“Phải đặt lợi ích
quốc gia - dân tộc
lên trên hết; kiên


định độc lập, tự chủ,
đồng thời chủ động
và tích cực hội nhập
quốc tế trên cơ sở
bình đẳng, cùng có
lợi, kết hợp phát huy
sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời
đại để xây dựng và
bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam
XHCN”.
Nếu tiềm lực
kinh tế cùng với
chính
trị,
quốc
phòng, an ninh, đối

ngoại là “sức mạnh
cứng’’ thì văn hóa
chính là “sức mạnh
mềm”, góp phần tạo
nên sức mạnh tổng
hợp quốc gia. Đầu
tư cho phát triển văn
hóa không chỉ là
đầu tư cho vấn đề
phát
triển
con
người, phát triển
nguồn nhân lực, xây
dựng môi trường
văn hóa mà còn là
đầu tư để phát triển
“sức mạnh nội
sinh”, đầu tư để
phát triển “sức
mạnh mềm” của
dân tộc trong hội
nhập quốc tế.
Giải
quyết
hài hòa giữa phát
triển kinh tế và phát
triển văn hóa trong
sự nghiệp xây dựng
và phát triển đất

nước vừa là khoa
học, vừa là nghệ
thuật. Sự điều tiết
của Nhà nước cần
phải căn cứ vào
hoàn cảnh lịch sử cụ
thể. Các tiêu cực, tệ

nạn xã hội và đặc
biệt là tình trạng suy
thoái về tư tưởng,
đạo đức, lối sống
của một bộ phận
không nhỏ cán bộ
lãnh đạo chính trị,
cán bộ quản lý kinh
tế, quản lý doanh
nghiệp có nguyên
nhân sâu xa từ việc
chưa quan tâm đúng
mức đến vấn đề xây
dựng con người,
phát triển văn hóa
trong bối cảnh kinh
tế thị trường và hội
nhập quốc tế.
Việc giáo dục
đạo đức và pháp luật
cho con người bước
vào kinh tế thị

trường hầu như
chưa được quan tâm
trong hệ thống giáo
dục đại học và dạy
nghề. Đạo đức công
chức, công vụ cũng
chưa được quan tâm
trong các chương
trình đào tạo cán bộ,
công chức, viên
chức các cấp.
Từ Đại hội
VI đến Đại hội XI,
Đảng ta đã có nhiều
nghị
quyết
về
phòng, chống suy
thoái về tư tưởng,
chính trị, đạo đức
lối sống trong cán
bộ, đảng viên nhưng
tác động vào đời
sống rất hạn chế. Từ
khi có Nghị quyết
Trung ương 4 khóa
XII và sự chỉ đạo
quyết liệt của Tổng
Bí thư, Bộ Chính trị,
Ban Chấp hành


Trung ương Đảng,
cuộc chiến chống
tham nhũng, chống
suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, chống
“diễn biến” và “tự
diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong
nội bộ Đảng mới có
bước đột phá. Nhiều
vụ tham nhũng,
chạy chức, chạy
quyền, các nhóm lợi
ích được xử lý, củng
cố niềm tin của
nhân dân vào sự
lãnh đạo của Đảng.
Vì vậy, cần quan
tâm nâng cao chất
lượng phát triển văn
hóa và con người,
“đặt văn hóa ngang
hàng với kinh tế,
chính trị và xã hội”;
có giải pháp cụ thể
và hữu hiệu để phát
triển văn hóa, tạo
lập các giá trị và

chuẩn mực văn hóa
và con người phù
hợp với bối cảnh
phát triển kinh tế thị
trường định hướng
XHCN và hội nhập
quốc tế.
Cần xác định
rõ chủ thể của việc
giải quyết mối quan
hệ giữa phát triển
kinh tế với phát
triển văn hóa. Nếu
không xác định rõ
trách nhiệm của các
chủ thể trong việc
xử lý mối quan hệ
này, quan điểm, chủ
trương không thể đi
vào cuộc sống.
Quốc hội, Chính
phủ phải kết hợp thể

chế hóa các quan
điểm của Đảng
thành luật pháp và
chính sách, xác định
rõ trách nhiệm của
các cơ quan quản lý
nhà nước, doanh

nghiệp và người dân
trong xử lý mối
quan hệ này. Việc
phân định rõ trách
nhiệm của từng chủ
thể trong giải quyết
mối quan hệ này là
cơ sở để kiểm tra,
giám sát được các
hoạt động thực tiễn.
Khi đó, quan điểm
chủ trương của
Đảng mới được thực
thi có hiệu quả.


Câu 3. Những
giá trị cơ bản của
VH
Việt
Nam
truyền thống và
giải pháp để bảo
tồn và phát huy
các giá trị này?
Trả lời:
I.
Các
niệm:


khái

1. VH là tất cả
các giá trị vật chất,
tinh thần do con
người sáng tạo ra
trong quá trình phát
triển, là ứng xử của
con người với tự
nhiên và XH và với
bản thân mình.
2. Giá trị là khái
niệm chỉ ý nghĩa
của các hiện tượng
vật chất cũng như
tinh thần mà mỗi
cộng đồng người
quan tâm dựa trên
sự thỏa mãm nhu
cầu hay lợi ích nhất
định.
3. Giá trị VH dân
tộc là kết quả sáng
tạo, tích lũy của một
cộng đồng dân tộc,
được phản ánh trong
các di sản, tài sản
VH vật thể, được
cộng đồng lựa chọn
thừa nhận và khao

khát hướng tốt,
thông qua sự trải
nghiệm lịch sử.
4. Bảo tồn các giá
trị VH dân tộc theo
nghĩa chung nhất là
những nỗ lực của cá
nhân và cộng đồng
nhằm lưu giữ và kế

thừa những gì được
xem là giá trị của
dân tộc. Những giá
trị VH được bảo tồn
và phát huy là các
giá trị đã và đang
tiếp tục được tạo
nên năng lực nội
sinh, là động lực
cho sự phát triển
VH XH hiện tại và
tương lai của cá
nhân và cộng đồng.
Đảng ta khẳng
định: “Di sản VH là
tài sản vô giá, gắn
kết cộng đồng dân
tộc là cốt lõi của bản
sắc dân tộc, cơ sở
sáng tạo những giá

trị mới và giao lưu
VH. Hết sức coi
trọng bảo tồn, kế
thừa,
phát
huy
những giá trị truyền
thống, VH cách
mạng bao gồm cả
VH vật thể và phi
vật thể. Bảo tồn các
giá trị VH phải vì
mục tiêu phát triển.
Bảo tồn các giá trị
VH phải gắn với
phát triển, phát huy
các giá trị VH”.
II. Điều kiện
hình thành các giá
trị VH:
1. Chủ thể sáng
tạo VH dân tộc:
- VH VN được
sáng tạo bởi 54 dân
tộc anh em, trong đó
người kinh là chủ
thể VH đại diện, VN
là quốc gia đa sắc
tộc cùng với với vị
trí địa lý và quá

trình giao lưu VH

trong lịch sử là cơ
sở để sáng tạo nền
VH VH trong đa
dạng thống nhất.
- Cư dân VN
sống chủ yếu bằng
nghề NN lúa nước.
Vì vậy yếu tố NN –
Nông thôn giữ vai
trò chủ đạo trong
việc chi phối tính
cách dân tộc và hệ
giá trị VH truyền
thống của dân tộc.
2. Không gian
VH:
Có 2 không gian
VH chi phối quá
trình hình thành và
phát triển các giá trị
VH truyền thống
dân tộc VN: Không
gian VH Nam Á với
thời tiết 4 mùa NN
lúa nước đặc trưng,
kỹ thuật đúc đồng
và tổ chức làng xã;
Không gain VH khu

vực ĐNÁ với nhưng
đặc trưng về VH vật
chất và VH tinh
thần: Làm ruộng,
dùng đồ kim khí,
thờ tổ tiên, ...
Trong
mối
quan hệ của khu vực
VN được xem là
một ĐNÁ thu nhỏ
về VH cảnh quan và
mối quan hệ giữa
ngôn ngữ chủng tộc
VH
3. Thời gian VH:
VH VN có
thể chia làm 5 giai
đoạn: Giai đoạn mở
đầu; Giai đoạn chịu

sự đô hộ của phong
kiến phương bắc;
Giai đoạn độc lập tự
chủ; Giai đoạn ảnh
hưởng của VH
phương tây; Giai
đoạn từ 1975 đến
nay. Mỗi giai đoạn
VH dân tộc VH có

mỗi đặc trưng riêng.
Tất cả tạo nên tính
đa dạng trong thống
nhất của VH dân tộc
VN; Là sức mạnh
cố kết cộng đồng, để
dân tộc vượt qua
những thử thách
nghiệt ngã của lịch
sử mấy nghìn năm
dựng nước và giữ
nước.
III. Các giá
trị VH:
1. Lòng yêu nước
nồng làn ý chí tự
cường dân tộc là giá
trị cốt lõi, nó sản
sinh và tích hợp các
giá trị tiêu biểu của
VN trở thành một
thứ tín ngưỡng
thiêng liêng của
người việt.
2. Truyền thống
lao động cần cù
sáng tạo, thích nghi
để tồn tại và phát
triển, tinh tế trong
ứng xử, giản dị

trong lối sống.
3. Tinh thần đoàn
kết, ý thức cộng
đồng, gắn kết cá
nhân gia đình dân
tộc.
4. Lòng nhân ái,
khoan dung, trọng
tình, trọng nghĩa,


anh dũng, sẵn sàng
hy sinh trong chống
giặc ngoại xâm.
IV. Giải pháp để
bảo tồn và phát
huy các giá trị VH
truyền thống.
1. Giáo dục nâng
cao nhận thức cho
cán bộ đảng viên
nhân dân về phát
huy giá trị VH dân
tộc là nền tảng tinh
thần, điều tiết cho
sự phát triển KTXH.
- VH dân tộc là
cơ sở để lựa chọn
mô hình XH: Dân
giàu nước mạnh,

XH dân chủ, công
bằng, văn minh;
Vừa phát triển KT
vừa phát triển con
người XH
- Giáo dục nâng
cao nhận thức về vai
trò phát triển của
VH
- Thường xuyên
quán triệt và thực
hiện có hiệu quả
đường lối của đảng
chính sách pháp luật
của Nhà nước
2. Giải quyết mối
quan hệ giữa bảo
tồn và phát triển hệ
giá trị VH dân tộc
với tiếp thu tinh hoa
VH nhân loại.
- Chủ động giao
lưu hợp tác quốc tế
để tiếp thu các giá
trị VH bên ngoài
- Xây dựng hệ giá
trị mới để VH là nền

tảng tinh thần XH,
vừa là mục tiêu, vừa

là động lực thúc đẩy
phát triển VH tinh
thần XH
- Gắn kết giữa
phát triển KT với
phát triển VH
3. Quan tâm
phát triển nền công
nghiệp VH và quản
lý thị trường VH
- XD và thực thi
chiến lược ngành
CN VH
- XD hoàn thiện
thị trường VH
- Có cơ chế
khuyến khích đầu tư
cơ sở vật chất trang
thiết bị kỹ thuật và
công nghệ tiên tiến
để năng cao chất
lượng sản phẩm
VH.

Phần liên hệ
thực tiễn việc Bảo
tồn, phát huy giá
trị văn hóa truyền
thống
tại

Lai
Châu:
Với 20 dân tộc
anh em cùng sinh
sống, Lai Châu có
thể coi là bức tranh
đa sắc màu về văn
hóa. Tuy nhiên,
trước quá trình hội
nhập ngày càng
mạnh mẽ, nguy cơ
“hòa tan” văn hóa
truyền thống đã
được tính đến và
hiện đang được các
cơ quan chuyên

môn, địa phương
của tỉnh tích cực
ngăn ngừa, nỗ lực
“hòa nhập” thông
qua việc xây dựng,
phát triển văn nghệ
quần chúng; bảo
tồn, truyền dạy và
phát huy các giá trị
văn hóa, nghệ thuật
truyền thống của
dân tộc.
Tạo sân chơi lành

mạnh, góp phần làm
phong phú đời sống
văn hóa, tinh thần
của Nhân dân, thời
gian qua, ngành Văn
hóa, Thể thao và Du
lịch tỉnh phối hợp
với các sở, ban,
ngành liên quan đẩy
mạnh xây dựng
phong trào văn nghệ
tại cơ sở. Theo đó,
hướng dẫn cơ sở
xây dựng, duy trì và
tổ chức hoạt động
cho các đội văn
nghệ quần chúng.
Hết năm 2017, toàn
tỉnh có tổng số 787
đội văn nghệ quần
chúng, đạt 67,4%,
cơ bản đáp ứng nhu
cầu hưởng thụ văn
hóa, văn nghệ của
người
dân
địa
phương.
Khi bản, tổ dân
phố, đoàn thể hay

xã, huyện có sự
kiện, dịp lễ, tết, các
đội văn nghệ đều tổ
chức luyện tập và
tham gia biểu diễn,
góp vui. Mặc dù chỉ
là diễn viên nghiệp
dư với những tiết
mục “cây nhà lá

vườn” nhưng đều
được thành viên đội
văn nghệ tập luyện
nghiêm túc, thể hiện
hết mình nhằm giới
thiệu rộng rãi những
bài hát, điệu múa,
bài dân ca... đặc sắc
nhất của dân tộc
mình. Hoạt động
văn nghệ quần
chúng không chỉ
làm phong phú đời
sống tinh thần của
Nhân dân mà còn
góp phần thực hiện
nhiệm vụ chính trị
của địa phương.
Cũng từ những đội
văn nghệ này, các

địa phương, Phòng
Văn hóa - Thông tin
huyện lựa chọn
được những hạt
nhân có năng khiếu
tham gia hội thi, hội
diễn văn nghệ quần
chúng các cấp.
Hiện nay, bằng
nhiều hình thức,
phong trào văn nghệ
quần chúng không
chỉ tập trung ở bản
làng, địa phương mà
còn phát triển rộng
khắp trong các cơ
quan, đơn vị, trường
học. Với nguồn
nhân lực sẵn có, cơ
sở vật chất, trang
thiết bị được đầu tư,
các
hoạt
động,
phong trào tại cơ
quan, đơn vị thêm
đa dạng, phong phú,
sôi nổi hơn nhờ
những đội văn nghệ
quần chúng này.

Thực hiện Đề án
“Bảo tồn, phát triển


văn hóa các dân tộc
thiểu số Việt Nam
đến năm 2020” Lai
Châu tập trung
tuyên truyền sâu
rộng chủ trương,
chính sách của
Đảng, Nhà nước về
giữ gìn và bảo tồn
bản sắc văn hóa các
dân tộc tới cấp ủy,
chính quyền và quần
chúng Nhân dân để
cùng chung tay bảo
vệ di sản. Tổ chức
truyền dạy, gìn giữ
và bảo tồn bản sắc
văn hóa các dân tộc
cho Nhân dân.
Thường xuyên tổ
chức các lớp tập
huấn cho cán bộ
quản lý, cán bộ
tham mưu trong lĩnh
vực giữ gìn và bảo
tồn bản sắc văn hóa

các dân tộc ở cơ sở.
Gắn phát triển du
lịch với bảo tồn và
phát huy giá trị giá
trị văn hóa truyền
thống thông qua xây
dựng các bản du
lịch cộng đồng.
Một trong những
điều đáng ghi nhận
là phần hội tại các lễ
hội được tổ chức bài
bản, công phu với
nhiều hoạt động đa
dạng, phong phú.
Ngoài chương trình
văn nghệ, Ban Tổ
chức chú trọng đến
các trò chơi dân
gian, thi môn thể
thao dân tộc: chơi tó
má lẹ, đu quay, bịt
mắt bắt vịt, đẩy gậy,

kéo co, ném còn,
bắn nỏ...
Hiện nay toàn
tỉnh có 1 bảo vật
quốc gia, 25 di tích,
trong đó 5 di tích

cấp quốc gia, 20 di
tích cấp tỉnh. 3 di
sản văn hóa phi vật
thể được đưa vào
danh mục di sản văn
hóa phi vật thể quốc
gia; 2 di sản đang
xây dựng hồ sơ đệ
trình
UNESCO
công nhận là di sản
văn hóa phi vật thể
đại diện của nhân
loại là Nghệ thuật
xòe Thái và Hát
then dân tộc Thái.
Bên cạnh những
hoạt động trên,
ngành Văn hóa, Thể
thao và Du lịch tỉnh
còn tích cực tham
mưu, tổ chức các
hội thi, hội diễn:
Liên hoan Hát then Đàn tính, Hội diễn
nghệ thuật quần
chúng các dân tộc
thiểu số, Ngày hội
Văn hóa, Thể thao
các dân tộc, Liên
hoan nghệ thuật

quần chúng công
nhân, viên chức, lao
động, lực lượng vũ
trang...
Mặc dù đạt được
nhiều kết quả đáng
ghi nhận trong công
tác bảo tồn, truyền
dạy và phát huy giá
trị văn hóa truyền
thống các dân tộc
việc bảo tồn và phát
huy các giá trị VH
truyền thống của

tỉnh Lai Châu chưa
được thực hiện đồng
bộ, chưa lồng ghép
công tác bảo tồn và
phát huy giá trị di
sản văn hóa với các
chương trình khác
nên hiệu quả chưa
cao. Nhận thức của
một số cấp ủy, chính
quyền và Nhân dân
về công tác bảo tồn
mang tính ỷ lại, dựa
vào sự hỗ trợ của
nhà nước, ý thức

bảo tồn của đồng
bào hạn chế.
Để bức tranh văn
hóa đa sắc màu của
đồng bào các dân
tộc Lai Châu ngày
thêm rực rỡ, hoàn
thiện, thời gian tới,
ngành Văn hóa, Thể
thao và Du lịch tỉnh
chú trọng công tác
tuyên truyền văn
bản pháp luật có
liên quan, vận động,
thuyết phục Nhân
dân xây dựng và
thực hiện nếp sống
văn hóa gắn với
phong trào “Toàn
dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn
hóa”. Xây dựng cơ
chế, chính sách phù
hợp tạo điều kiện để
các hoạt động văn
hóa phát triển. Mở
rộng giao lưu, học
học kinh nghiệm
của các đơn vị, địa
phương về công tác

nghệ thuật.


Câu 4: Văn hóa
công vụ ở Việt
Nam hiện nay
1. Các khái niệm
- Công vụ: là một
hoạt động mang tính
quyền lực – pháp lý
được thực thi bởi
đội ngũ cán bộ,
công chức nhà nước
hoặc những người
khác khi được nhà
nước trao quyền
nhằm thực hiện các
chức năng, nhiệm
vụ của nhà nước
trong quá trình quản
lý toàn diện các mặt
hoạt động của đời
sống xã hội.
- Văn hóa công
vụ: là văn hóa tổ
chức đặc thù, bao
gồm hệ thống biểu
tượng chuẩn mực,
giá trị, niềm tin hình
thành trong nhận

thức tạo nên tầm
nhìn, tác động đến
lối sống, hành vi, lề
lối làm việc của
người thực hiện
công vụ, tạo ra môi
trường tổ chức có
khả năng lưu truyền
và ảnh hưởng tới
chất lượng công vụ
- Các đặc điểm
của văn hóa công
vụ:
+ Là văn hóa
trong sử dụng quyền
lực nhà nước
+ Là văn hóa của
cán bộ, công chức
trong thực thi công
vụ.
+ Văn hóa công
vụ đòi hỏi tính sáng

tạo trong thực thi
công vụ.
+ Văn hóa công
vụ phản ánh tầm
nhìn, sứ mệnh và
các mục tiêu chính
của công vụ.

2. Cấu trúc của
văn hóa công vụ
Văn hóa công vụ
được hình thành bởi
các yếu tố: tri thức
công vụ; niềm tin
công vụ; các truyền
thống hoạt động
công vụ; lý tưởng
mà con người phấn
đấu trong hoạt động
công vụ; chuẩn mực
công vụ; cách thức
tổ chức và quản lý
nhà nước để thực thi
những giá trị công
vụ đã được thiết lập,
làm cho những giá
trị đó trở thành niềm
tin, động cơ, nhu
cầu, thói quen công
vụ.
* Chủ thể của văn
hóa công vụ là công
chức
Công chức theo
nghĩa chung là nhân
viên trong cơ quan
nhà nước, đó là
những người được

tuyển dụng, bổ
nhiệm vào các chức
danh trong cơ quan
nhà nước (trong đó
tập trung vào các cơ
quan hành chính) để
thực thi hoạt động
công vụ và được
hưởng lương và các
khoản từ ngân sách
nhà nước.
Công chức của
một
quốc
gia
thường là công dân

người có quốc tịch
của nước sở tại và
thường nằm trong
biên chế. Phạm vi
làm việc của công
chức nhà nước là
các cơ quan nhà
nước.
Công chức phải
là người có lí lịch rõ
ràng, có phẩm chất
đạo đức tốt, có tinh
thần yêu nước, tận

tụy phục vụ nhân
dân, kiên định với
đường lối của Đảng,
chấp hành nghiêm
pháp luật của nhà
nước, là người cần
kiệm liêm chính, chí
công vô tư, không
tham nhũng và luôn
nói không với tham
nhũng, có ý thức tổ
chức kỷ luật, trung
thực, không cơ hội,
gần gũi nhân dân và
được nhân dân tín
nhiệm. Có đạo đức
nghề nghiệp tốt,
tuân thủ quy phạm
nghề nghiệp, bảo vệ
danh
dự
nghề
nghiệp. Có trình độ
năng lực hiểu biết
về lý luận chính trị,
quan điểm, đường
lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của
nhà nước. Có trình
độ chuyên môn lĩnh

vực công tác, đủ khả
năng công tác liên
tục.
Chủ thể của văn
hóa công vụ - người
cán bộ, công chức
luôn là yếu tố cơ
bản nhất của văn
hóa công vụ, quyết
định tầm văn hóa

của công vụ và hoạt
động công vụ.
* Các giá trị và
chuẩn mực của văn
hóa công vụ:
Giá trị văn hóa
công vụ là toàn bộ
kết quả sáng tạo,
tích lũy của chủ thể
công vụ, được thể
hiện ở lý tưởng,
niềm tin, đạo đức
công vụ; ở hệ thống
thể chế về các quy
định, nguyên tắc,
chuẩn mực chi phối
các hoạt động công
vụ.
* Công nghệ thực

thi công vụ:
Chính là phương
thức tổ chức và
quản lý nhà nước
trong hoạt động
công vụ, là quá trình
phụ thuộc vào các
yếu tố thời đại, văn
hóa và chế độ chính
trị. Công cụ thực thi
công vụ cũng là
phương tiện biến
những lý tưởng
chính trị, những giá
trị văn hóa công vụ
thành niềm tin, động
cơ, nhu cầu và thói
quen công vụ của
công chức một cách
nhanh và có hiệu
quả nhất, làm cho
văn hóa công vụ
hiện diện trong các
hoạt động công vụ.
* Các yếu tố thực
thể hữu hình:
Gồm các yếu tố
vật chất tạo nên một
không gian văn hóa
công vụ bao gồm:

- Biểu tượng của
công sở


- Kiến trúc công
sở
- Cách bài trí nơi
làm việc
- Các khẩu hiệu,
phương châm hành
động.
- Hệ thống quy
trình, thủ tục làm
việc được niêm yết
trong công sở.
- Chuẩn mực ứng
xử của công chức thể
hiện tầm nhìn và sứ
mệnh của tổ chức.
3. Thực trạng
văn hóa công vụ ở
Việt Nam hiện nay
3.1. Những điểm
mạnh của văn hóa
công vụ
- Về chủ thể văn
hóa công vụ là đội
ngũ cán bộ công
chức thì tại Nghị
quyết Hội nghị lần

thứ bảy BCH TW
ĐCSVN khóa XII
ngày 19/5/2018 nhận
định:
+ Đội ngũ cán bộ
có lập trường chính
trị, tư tưởng vững
vàng, có đạo đức lối
sống giản dị, gương
mẫu, có ý thức tổ
chức kỷ luật luôn tu
dưỡng rèn luyện,
trình độ năng lực
được nâng lên, phấn
đấu hoàn thành
nhiệm vụ được giao.
Nhiều cán bộ năng
động, sáng tạo thích
ứng với xu thế hội
nhập, có khả năng
làm việc trong môi
trường quốc tế.
+ Đa số cán bộ
lãnh đạo Đảng, Nhà
nước, MTTQ và các

tổ chức chính trị xã hội ở các cấp có
năng lực, phẩm chất
uy tín. Cán bộ cấp
chiến lược có bản

lĩnh chính trị, kiên
định chủ nghĩa Mác
–Lê Nin, tư tưởng
HCM; mục tiêu lý
tưởng độc lập dân
tộc và CNXH, có tư
duy đổi mới, có khả
năng hoạch định
đường lối, chính
sách và lãnh đạo,
chỉ đạo tổ chức thực
hiện. Hầu hết cán bộ
lãnh đạo lực lượng
vũ trang được rèn
luyện, thử thách qua
thực tiễn, trung
thành với Đảng, sẵn
sàng chiến đấu, hy
sinh vì Tổ quốc, vì
nhân dân. Nhiều cán
bộ khoa học tâm
huyết,
say

nghiên cứu, có đóng
góp tích cực cho đất
nước. Một số cán bộ
lãnh đạo, quản lý
doanh nghiệp Nhà
nước thích ứng

nhanh với cơ chế thị
trường, tổ chức sản
xuất, kinh doanh có
hiệu quả”.
- Về yếu tổ cấu
thành văn hóa công
vụ, có ưu điểm:
+ Tính minh bạch
trong hoạt động
công vụ ngày càng
được coi trọng. VD:
Sự công khai về các
TTHC, các quy định
pháp lý là một trong
những biểu hiện cụ
thể về tính minh
bạch trong thực thi
công vụ.

+ Sự chuyên nghiệp
trong hoạt động công
vụ ngày càng được
nâng cao. Đội ngũ
cán bộ, công chức
ngày càng được đào
tạo,
bồi
dưỡng
chuyên sâu hơn về
kiến thức, kỹ năng

thực thi công vụ.
(qua khảo sát người
dân cho biết năng lực
thực thi công vụ
được đánh giá ở mức
trung bình trở lên
chiếm tỷ lệ trên
50%).
+ Phần lớn công
chức gia nhập nền
công vụ với mong
muốn đóng góp vào
sự phát triển trong
khu vực công; qua
đó cho thấy đội ngũ
công chức có sự tận
tâm trong công việc,
tận tụy phục vụ
nhân dân (qua khảo
sát người dân cho
biết sự tận tâm trong
công việc của công
chức được đánh giá
ở mức trung bình
trở lên chiếm tỷ lệ
trên 60%).
+ Cách thức đánh
giá chất lượng và
hiệu quả của hoạt
động công vụ đã có

nhiều thay đổi tích
cực
theo chiều
hướng lấy sự hài
lòng của người dân
làm cơ sở đánh giá;
thay vì chỉ đánh giá
khép kín bên trong
mang tính chủ quan,
thông qua báo cáo
định kỳ, kiểm tra,
đôn đốc… (VD: Chỉ
số cạnh tranh cấp

tỉnh; chỉ số hiệu quả
quản trị và hành
chính công cấp tỉnh,
chỉ số CCHC ….)
+ Những giá trị để
xác lập triết lý văn
hóa công vụ đã bắt
đầu được hình thành
(VD như tư tưởng
về một tư tưởng
liêm khiết, kiến tạo).
3.2. Những hạn
chế của văn hóa
công vụ
- Về chủ thể văn
hóa công vụ được

đánh giá:
+ Về tổng thể, đội
ngũ cán bộ đông
nhưng chưa mạnh;
tình trạng vừa thừa,
vừa thiếu cán bộ
xảy ra nhiều nơi; sự
liên thông giữa các
cấp các ngành còn
hạn chế.
+ Thiếu những cán
bộ lãnh đạo quản lý
giỏi, nhà khoa học
và chuyên sâu đầu
ngành trên nhiều
lĩnh vực. Năng lực
đội ngũ cán bộ chưa
đồng đều, có mặt
còn hạn chế yếu
kém; nhiều cán bộ
trong đó có cả cán
bộ lãnh đạo cấp cao
thiếu
chuyên
nghiệp, làm việc
không đúng chuyên
môn; trình độ ngoại
ngữ, kỹ năng giao
tiếp và khả năng
làm việc trong môi

trường quốc tế còn
nhiều hạn chế
+ Không ít cán bộ
trẻ thiếu bản lĩnh,
ngại rèn luyện. Một
bộ phận không nhỏ


cán bộ phai nhạt lý
tưởng, giảm sút ý
trí, làm việc hời hợt,
ngại khó, ngại khổ,
suy thoái về tư
trưởng chính trị đạo
đức, lối sống, biểu
hiện tự diễn biến, tự
chuyển hóa. Một số
cán bộ lãnh đạo
quản lý, trong đó có
cả cán bộ cấp chiến
lược thiếu tính
gương mẫu, uy tín
thấp, năng lực,
phẩm chất chưa
ngang
tầm
với
nhiệm vụ, quan liêu,
xa dân, vướng vào
tham nhũng, lãnh

phí, tiêu cực lợi ích
nhóm…
- Về yếu tổ cấu
thành văn hóa công
vụ, có những nhược
điểm:
+ Sự bất cập về tri
thức công vụ, năng
lực thực thi công vụ
và nhiều vấn đề
thực tiễn chưa được
lãnh đạo quản lý lý
giải về lý luận nên
chưa
rút
kinh
nghiệm một cách
kịp thời. Điều này
thể hiện có 36,6% ý
kiến người dân được
hỏi cho rằng mức độ
tinh thông nghiệp vụ
của cán bộ, công
chức ở mức độ yếu
kém; ý kiến đánh
giá của các doanh
nghiệp về nhận định
“UBND cấp tỉnh rất
linh hoạt trong
khuôn khổ pháp luật

nhằm
tạo
môi
trường kinh doanh
thuận lợi cho các

doanh nghệp tư
nhân” chỉ có 34%...
kỹ năng làm việc
chưa thành thạo,
tính chuyên nghiệp
của đội ngũ công
chức chưa cao,
không hiểu quy
trình làm việc , nếu
hiểu thì hay cắt xén
quy trình, vì vậy mà
tính hiệu quả của
hoạt động thực thi
công vụ không cao.
+ Một vấn đề hạn
chế được nhắc tới
nhiều nhất trong
thời gian qua đó là
vấn đề đạo đức công
vụ của một bộ phận
cán bộ, công chức
xuống cấp (trong đó
có cả cán bộ lãnh
đạo quản lý) đây là

vấn đề đáng quan
ngại. Sự tận tâm,
công tâm, tận tụy
của cán bộ công
chức trong quá trình
thực thi công vụ
phần lớn được đánh
giá mức trung bình,
trong đó mức yếu
kém chiếm 1/3 các ý
kiến được khảo sát.
Có 34% ý kiến
người dân được hỏi
cho rằng tính kỷ luật
của công chức đang
ở mức độ yếu kém;
sự liêm chính trong
hoạt động công vụ
đang là vấn đề đáng
báo động…. Đặc
biệt có 67% người
dân được hỏi cho
rằng để có việc làm
khu vực nhà nước
thì không thể không
có chi phí lót tay….

+ Văn hóa công vụ
chưa thật sự trở
thành một định

hước trọng tâm của
CCHC công vụ,
công chức, văn hóa
công vụ nước ta ở
tình trạng “thừa hiện
đại, thiếu văn hóa”.
+ Nhiều nguy cơ
tiềm ẩn của những
hiện tượng phi văn
hóa, phản văn hóa,
ngụy văn hóa lộ
diện đe dọa văn hóa
công vụ. Đó là nguy
cơ mai một các giá
trị truyền thống tốt
đẹp, hồi phục các lề
thói hủ lậu, chủ
nghĩa cá nhân lấn át
tinh thần phục vụ,
tham nhũng chính
sách, bệnh thành
tích,
thói
khoa
trương, kéo bè cánh,
cục bộ địa phương,
dòng họ…
+ Văn hóa công vị
trong một bộ phận
cán bộ, công chức

lãnh đạo quản lý
còn yếu kém; vẫn
còn những cán bộ
lãnh đạo quản lý sử
dụng công quyền
dành lợi ích cá
nhân, gia đình, phe
nhóm “một người
làm quan cả họ
được nhờ”, nạn kết
bè, kết cánh, cục bộ
địa phương.
4. Phần liên hệ
thực tiễn VH công
vụ tại tỉnh Ninh
Thuận
Thực
trạng
của đội ngũ cán bộ,
công chức thực thi

công vụ tỉnh Ninh
Thuận
a) Về tổ chức bộ
máy, biên chế và
kết quả thực thi
công vụ
Theo số liệu thống
kê; Hệ thống tổ
chức bộ máy bao

gồm các tổ chức
hành chính Nhà
nước và các đơn vị
sự nghiệp dịch vụ
công của tỉnh Ninh
Thuận; Tổ chức
hành chính Nhà
nước phân theo
thẩm quyền thành
lập có 132 tổ chức;
Số lượng đơn vị sự
nghiệp công lập
theo thẩm quyền
thành lập là 433.
Tổng biên chế toàn
tỉnh 14.490 (trong
đó: Công chức
1.874; Viên chức
12.616)
Tỷ lệ công chức,
viên chức đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ
được giao và được
đánh giá, xếp loại
năm 2013 theo các
mức độ:
Đội ngũ cán bộ,
công chức cấp xã
trên địa bàn tỉnh đã
được nâng cao về số

lượng, trình độ và
chất lượng; tuy
nhiên, so với yêu
cầu cải cách hành
chính thì chất lượng
vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu.
Hiện tại, đội ngũ
những người thực
thi công vụ tỉnh
Ninh Thuận, ở một
khía cạnh về chất


lượng thực thi công
vụ nào đó, chưa
mạnh, còn nhiều
khiếm khuyết, chưa
đáp ứng được yêu
cầu của công vụ.
Đội ngũ CBCC còn
nhiều điểm thiếu và
yếu về phẩm chất,
tinh
thần
trách
nhiệm, năng lực
chuyên môn, kỹ
năng hành chính;
phong cách làm việc

chậm đổi mới; tệ
quan liêu, tham
nhũng, sách nhiễu
Nhân dân vẫn còn
diễn ra trong một bộ
phận cán bộ, công
chức.
b) Về cải cách
hành chính
Công tác cải cách
hành chính của tỉnh
đã được triển khai
toàn diện trên tất cả
các lĩnh vực: cải
cách thể chế, thủ tục
hành chính, tổ chức
bộ máy hành chính,
đổi mới và nâng cao
chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức;
cải cách tài chính
công, hiện đại hóa
nền hành chính nhà
nước; đúng, đủ các
nội dung, các bước
theo lộ trình chung
của chương trình
tổng thể cải cách
hành chính giai
đoạn 2011-2020.

b.1. Những kết quả
đạt được
- Công tác cải cách
hành chính của tỉnh
đã được triển khai
đồng bộ, toàn diện
trên các lĩnh vực;

góp phần xây dựng
các cơ quan, đơn vị
ngày càng vững
mạnh, tiến tới xây
dựng nền hành
chính chính quy,
hiện đại;
- Việc triển khai cơ
chế một cửa, cơ chế
một cửa liên thông
tiếp tục được duy
trì, hoàn thiện và
phát huy hiệu quả.
Các thủ tục hành
chính thường xuyên
được rà soát, sửa
đổi, bổ sung, đơn
giản hóa nhằm tạo
thuận lợi tối đa cho
người dân, doanh
nghiệp.
Chức

năng,
nhiệm vụ của các cơ
quan đã được xác
định phù hợp, tránh
chồng chéo, trùng
lắp; đảm bảo hoạt
động theo hướng
tinh gọn về đầu mối.
Chất
lượng
nguồn nhân lực
trong bộ máy hành
chính, sự nghiệp đã
có bước chuyển
biến mạnh mẽ; cơ
bản xây dựng được
đội ngũ cán bộ,
công chức, viên
chức có số lượng,
cơ cấu hợp lý, đủ
trình độ và năng lực
thi hành công vụ, có
phẩm chất đạo đức
tốt,
mang
tính
chuyên nghiệp.
- Việc ứng dụng
công nghệ thông tin
trong hoạt động của

các cơ quan nhà
nước bước đầu được
triển khai toàn diện;

thông qua đó đã đổi
mới cách thức giải
quyết công việc tại
các cơ quan, đơn vị;
việc triển khai ứng
dụng công nghệ
thông tin phục vụ
người dân, doanh
nghiệp đã được
quan
tâm,
đẩy
mạnh.
- Việc chấp hành
kỷ luật, kỷ cương
hành chính của cán
bộ, công chức, viên
chức tại các cơ
quan, đơn vị thời
gian qua có chuyển
biến tích cực, có sức
lan toản lớn, số
lượng công chức,
viên chức vi phạm
giờ giấc làm việc
giảm dần, việc thực

hiện đeo thẻ công
chức trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ
tương đối nghiêm
túc.
- Cơ chế phối hợp
giữa các phòng
chuyên môn trong
nội bộ cơ quan hoặc
giữa các cơ quan,
đơn vị trong việc
giải quyết TTHC
theo cơ chế một cửa
liên thông ngày
càng được củng cố,
hoàn thiện và phát
huy hiệu quả.
- Công tác đối
thoại với người dân,
doanh nghiệp đã
được các cơ quan,
đơn vị quan tâm và
bước đầu triển khai
có hiệu quả; việc tổ
chức đối thoại đã
tạo được sự đồng
thuận cao của cán

bộ, Nhân dân và
doanh nghiệp.

b.2. Những tồn tại,
hạn chế:
- Công tác tuyên
truyền, cải cách
hành chính chưa sâu
rộng, chưa tạo được
hiệu ứng lan tỏa
trong đại bộ phận
người dân, doanh
nghiệp về vai trò,
tầm quan trọng của
công tác cải cách
hành chính, chưa
nhận được sự đồng
tỉnh, quan tâm, ủng
hộ và đồng hành của
đại bộ phận Nhân
dân.
- Vẫn còn một bộ
phận nhỏ cán bộ,
công chức, viên
chức chưa tận tậm,
tận tụy với công
việc, khi giải quyết
thủ tục hành chính
cho người dân,
doanh nghiệp còn có
biểu hiện nhũng
nhiễu, tiêu cực.
- Tính chuyên

nghiệp, trình độ
chuyên môn, kỹ
năng hành chính của
một số cán bộ, công
chức vẫn còn hạn
chế, chưa đáp ứng
được yêu cầu quản
lý trong tình hình
mới.
5. Những giải
pháp
Để xây dựng nền
văn hóa công vụ
tiên tiến hiện đại,
đậm đà bản sắc dân
tộc; phục vụ đắc lực
và hiệu quả cho sự
phát triển bền vững
của đất nước cần


thực hiện một số
giải pháp sau:
Thứ nhất: Xác lập
triết lý phát triển
văn hóa công vụ đáp
ứng yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế

hiện nay; cần đáp
ứng phục vụ nhân
dân, kế thừa phát
huy những giá trị
truyền thống, đi đôi
với tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại;
đảm bảo hài hòa
giữa tính ổn định và
tính sáng tạo, xây
dựng nền văn hóa
công vụ theo hướng
nhà nước pháp
quyền của nhân dân,
do nhân dân và vì
nhân dân.
Thứ 2: Xây dựng
hệ tiêu chí văn hóa
công vụ trong các
cơ quan, tổ chức
nhà nước; phát huy
những giá trị phục
vụ nhân dân, liêm
chính, minh bạch,
công bằng dân chủ,
tuân thủ hiến pháp
pháp luật; trách
nhiệm và chuyên
nghiệp.
Thứ 3: Thể chế

hóa hệ thống văn
hóa công vụ, đưa
hiến pháp hệ thống
giá trị của văn hóa
công vụ trong nhà
nước pháp quyền
XHCN của nhân
dân, do nhân dân, vì
nhân dân.


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×