Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

18 bài viết về mối quan hệ giữa tòa án và ủy ban nhân dân trong giải quyết án đất đai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.58 KB, 9 trang )

BÀN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA TÒA ÁN VỚI CƠ QUAN CÓ THẨM QUYỀN

TẠI ĐỊA PHƯƠNG TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
Mức độ đô thị hóa cao tại các địa phương, thị trường bất động sản diễn biến
phức tạp trong những năm gần đây là những nguyên nhân chính khiến các tranh chấp
đất đai có chiều hướng tăng mạnh. Án tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân được
đánh giá là loại án phức tạp và tốn nhiều thời gian, công sức, chi phí tố tụng; nhiều vụ
án được xét xử nhiều lần, kéo dài nhiều năm nhưng vẫn chưa giải quyết dứt điểm;
trong số các vụ án bị tạm đình chỉ tại Tòa án thì án tranh chấp đất đai bị tạm đình chỉ
chiếm tỷ lệ cao, tiềm ẩn nhiều nguy cơ dẫn đến tranh chấp, khiếu nại, khiếu kiện
đông người, vượt cấp. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên có liên
quan đến kết quả phối hợp, cung cấp thông tin, chứng cứ từ cơ quan thẩm quyền tại
các địa phương. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi bàn một số vấn đề về mối quan
hệ giữa Tòa án nhân dân với cơ quan có thẩm quyền tại địa phương trong giải quyết
tranh chấp đất đai, xác định một số vướng mắc, hạn chế và kiến nghị, đề xuất một số
giải pháp nhằm góp phần tháo gỡ các vướng mắc, nâng cao chất lượng, đẩy nhanh
tiến độ giải quyết các vụ án tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân địa phương.
I. Khái quát chung về cơ sở pháp lý và yêu cầu thực tiễn của mối quan hệ
phối hợp giữa Tòa án nhân dân và cơ quan thẩm quyền trong giải quyết tranh
chấp đất đai
1. Một số quy định pháp luật có liên quan:
Pháp luật đất đai và pháp luật tố tụng dân sự ở nước ta qua các thời kỳ có nhiều
thay đổi theo hướng tăng dần thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong việc giải quyết
các vụ án tranh chấp đất đai. Luật Đất đai năm 2013, Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo được hành lang pháp lý khá tốt cho
Tòa án khi giải quyết các vụ án tranh chấp liên quan đến đất đai, nhất là các vụ án
tranh chấp đất đai mà đất không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, không có
một trong các giấy tờ theo quy định tại Điều 100 Luật Đất đai 2013. Trong các thời
kỳ, việc giải quyết các vụ án tranh chấp đất đai tại Tòa án luôn cần có sự phối hợp,
việc thực hiện trách nhiệm của cơ quan thẩm quyền tại địa phương, điều này đã được
quy định trong các văn bản pháp quy. Trong đó có những văn bản chính sau:


- Thông tư liên tịch số 04/TTLT ngày 03 tháng 5 năm 1990 của Tòa án nhân
dân tối cao, Tổng Cục quản lý ruộng đất về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai,
trong đó có xác định mối quan hệ phối hợp giữa Tòa án nhân dân và Ủy ban nhân
dân. Thực hiện Thông tư liên tịch này, tại Công văn số 154/NCPL ngày 04 tháng 6
năm 1992 của Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn một số phần việc cụ thể khi Tòa
án giải quyết tranh chấp đất đai.
- Sau khi Luật Đất đai năm 2003 có hiệu lực pháp luật, mối quan hệ giữa Tòa
án và cơ quan có thẩm quyền tại địa phương trong giải quyết các vụ án tranh chấp đất
đai được hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 02/1997/TTLT – TANDTC –
VKSNDTC – TCĐC ngày 28 tháng 7 năm 1997 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao và Tổng Cục địa chính. Thực hiện Thông tư liên tịch này,
tại các mục 11, 17 phần III của Công văn số 16/1999/KHXX ngày 01 tháng 2 năm
1999 của Tòa án nhân dân tối cao có hướng dẫn xử lý một số vấn đề liên quan đến
giải quyết tranh chấp đai;
- Theo quá trình thay đổi của chính sách pháp luật về đất đai, mối quan hệ giữa
Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và Ủy ban nhân dân trong việc giải quyết


các vụ án tranh chấp đất đai tiếp tục được hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số
01/2002/TTLT – TANDTC – VKSNDTC – TCĐC ngày 03 tháng 01 năm 2002. Tại
tiểu mục a, b, c mục 1.3 phần 1 Nghị quyết số 02/2004/NQ - HĐTP ngày 10 tháng 8
năm 2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có hướng dẫn cụ thể
thêm về đường lối giải quyết tranh chấp đất đai trên cơ sở thông tin cung cấp từ cơ
quan thẩm quyền tại địa phương.
Các văn bản trên quy định thời hạn mà cơ quan thẩm quyền địa phương cung
cấp thông tin cho Tòa án là 01 tháng. Sau khi Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực thi
hành, năm 2014, Tòa án nhân dân tối cao có tiến hành xây dựng Thông tư liên tịch
hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Đất đai về giải quyết tranh chấp đất đai
nhưng đến nay đã qua 03 lần chỉnh lý vẫn chưa xong.
Ngoài ra, về trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cơ quan thẩm quyền tại địa

phương trong quá trình giải quyết vụ án, pháp luật về tố tụng dân sự qua các thời kỳ
đều có quy định. Hiện nay, Điều 7 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định “Cơ
quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm
cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân
(sau đây gọi là Viện kiểm sát) tài liệu, chứng cứ mà mình đang lưu giữ, quản lý khi
có yêu cầu của đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát theo quy định của Bộ luật này và
phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ đó; trường
hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho
đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát” và thời hạn cung cấp chứng cứ của cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền được xác định tại Điều 106 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là
15 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu.
Từ các quy định trên cho thấy, các văn bản pháp luật trước đây lần lược xác
định cơ quan có thẩm quyền tại địa phương có trách nhiệm phối hợp, cung cấp chứng
cứ cho Tòa án trong giải quyết các vụ án tranh chấp đất đai gồm Ủy ban nhân dân cấp
có thẩm quyền và cơ quan quản lý ruộng đất tại địa phương (Thông tư liên tịch số 04
năm 1990); cơ quan địa chính (Thông tư liên tịch số 02 năm 1997), Sở Địa chính, Sở
Địa chính – Nhà đất (Thông tư 01 năm 2002). Hiện nay, Điều 23 Luật Đất đai năm
2013 quy định “3. Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm quản lý nhà nước về đất
đai tại địa phương theo thẩm quyền quy định tại Luật này”; Điều 24 Luật đất đai năm
2013 quy định “Cơ quan quản lý đất đai ở địa phương được thành lập ở tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương và ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; tổ chức
dịch vụ công về đất đai được thành lập và hoạt động theo quy định của Chính phủ”;
Điều 25 Luật Đất đai năm 2013 quy định “1. Xã, phường, thị trấn có công chức làm
công tác địa chính theo quy định của Luật cán bộ, công chức.
2. Công chức địa chính ở xã, phường, thị trấn có trách nhiệm giúp Ủy ban
nhân dân cấp xã trong việc quản lý đất đai tại địa phương.”
Hướng dẫn Luật Đất đai năm 2013, Điều 4 Nghị định 43/2014/NĐ – CP ngày
15 tháng 5 năm 2014 quy định “1. Cơ quan quản lý đất đai ở địa phương bao gồm:
a) Cơ quan quản lý đất đai ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là Sở Tài
nguyên và Môi trường;



b) Cơ quan quản lý đất đai ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh là
Phòng Tài nguyên và Môi trường”;
Và Điều 5 của Nghị định này quy định về tổ chức và hoạt động của Văn phòng
Đăng ký đất đai tại địa phương, trong đó “Văn phòng đăng ký đất đai có chi nhánh
tại các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất
đai được thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Văn phòng đăng ký đất
đai theo quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;”
Theo đó, cơ sở pháp lý quy định về mối quan hệ giữa Tòa án và cơ quan có
thẩm quyền địa phương trong giải quyết vụ án tranh chấp đất đai được khái lược ở
những nội dung chủ yếu sau:
- Cơ sở pháp lý để xác định cụ thể cơ quan thẩm quyền tại địa phương được
pháp luật giao trách nhiệm phối hợp với Tòa án trong giải quyết tranh chấp đất
đai tại địa phương: Cơ quan có thẩm quyền là Ủy ban nhân dân các cấp; Sở Tài
nguyên và Môi trường, Phòng Tài nguyên và Môi trường, Văn phòng Đăng ký quyền
sử dụng đất và các Chi nhánh Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất. Nhiệm vụ,
quyền hạn, chức năng của từng cơ quan được quy định cụ thể trong Luật Đất đai năm
2013, hướng dẫn tại các văn bản sau:
- Các Nghị định hướng dẫn số 43, 44, 45, 46, 47/2014/NĐ – CP ngày 15 tháng
5 năm 2014; Nghị định số 01/2017/NĐ – CP ngày 06 tháng 01 năm 2017….
- Thông tư số 30/2013/TT – BTNMT ngày 14 tháng 10 năm 2013; Thông tư số
23/2014/TT – BTNMT ngày 19 tháng 5 năm 2014; Thông tư số 17/2014/TT –
BTNMT ngày 21 tháng 4 năm 2014; Thông tư số 24/2014/TT – BTNMT ngày 19
tháng 5 năm 2014; Thông tư số 28/2014/TT – BTNMT ngày 02 tháng 6 năm
2014….Trong các Thông tư trên thì Thông tư số 24/2014/TT – BTNMT là văn bản
mà các Thẩm phán cần quan tâm hơn khi xác định cơ quan có thẩm quyền cung cấp
thông tin, tài liệu chứng cứ cho Tòa án.
- Cơ sở pháp lý để xác định các nhiệm vụ cụ thể được giao trong mối quan
hệ phối hợp giữa Tòa án và cơ quan thẩm quyền địa phương, được tổng hợp như

sau:
Văn bản pháp quy

Nhiệm vụ của cơ quan thẩm quyền
tại địa phương
Thông tư liên tịch - Cung cấp cho Toà án nhân dân các
04/1990
tài liệu địa chính hoặc các tài liệu có
liên quan đến việc xác định quyền sử
dụng đất đai hợp pháp của các đương
sự;
- Giúp Toà án trong việc điều tra,
giám định để xác minh mức thiệt hại,
mức bồi thường.
Công

văn

số Cho biết việc sử dụng đất đó có hợp

Nhiệm vụ của Tòa án nhân dân
- Trường hợp số liệu được cung
cấp không khớp với thực địa thì
Toà án cùng cơ quan quản lý
ruộng đất đo lại;
- Kiến nghị với Uỷ ban nhân dân
xử lý các hành vi vi phạm theo
quy định tại các điều 53, 54 Luật
đất đai để giúp Uỷ ban nhân dân
thực hiện tốt chức năng quản lý

Nhà nước về đất đai


154/NCPL ngày 04
tháng 6 năm 1992
của Tòa án nhân dân
tối cao
Thông tư liên tịch
02/1997

pháp hay không, nếu việc sử dụng đất
hợp pháp thì thời hạn sử dụng đất có
còn nữa hay không?

- Cung cấp cho Toà án nhân dân, Viện
kiểm sát nhân dân các tài liệu địa
chính, các tài liệu có liên quan hoặc
xác nhận việc sử dụng đất của đương
sự.
- Cho biết rõ là việc sử dụng đất của
đương sự thuộc trường hợp nào trong
các trường hợp:
+ Xác nhận việc sử dụng đất đó là
hợp pháp, nhưng chưa kịp cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất theo
quy định của Luật Đất đai;
+ Cho biết rõ là việc sử dụng đất đó
không vi phạm quy hoạch và thuộc
trường hợp có thể được xem xét để
giao quyền sử dụng đất;

+ Cho biết rõ, việc sử dụng đất đó là
không hợp pháp, tài sản không được
phép tồn tại trên đất đó;
- Có trách nhiệm giúp Toà án nhân
dân, Viện kiểm sát nhân dân xác minh
các tình tiết có liên quan đến quyền sử
dụng đất, đo lại diện tích đất khi cần
thiết...
- Nhận thấy bản án, quyết định của
Toà án không phù hợp với các quy
định của pháp luật về đất đai, …kiến
nghị với Toà án nhân dân, Viện kiểm
sát nhân dân để xem xét theo pháp
luật
Thông tư liên tịch - Xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã,
01/2002
phường, thị trấn nơi có đất (đối với hộ
gia đình, cá nhân) hoặc giấy xác nhận
của Sở Địa chính, Sở Địa chính - Nhà
đất (đối với tổ chức kinh tế.) về việc
đất đó đã có giấy chứng nhận về
quyền sử dụng đất hợp pháp;
- Các nội dung được quy định tại
Thông tư 02/1997;

- Kiến nghị với cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền xử lý theo quy định
tại Luật Đất đai

Bộ luật tố tụng dân Cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn

sự 2015
cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát
nhân dân (sau đây gọi là Viện kiểm
sát) tài liệu, chứng cứ mà mình đang
lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của
đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát theo
quy định của Bộ luật này và phải chịu
trách nhiệm trước pháp luật về việc
cung cấp tài liệu, chứng cứ đó; trường
hợp không cung cấp được thì phải

Khi giải quyết vụ việc dân sự, Tòa
án có quyền hủy quyết định cá
biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ
chức, người có thẩm quyền xâm
phạm quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự trong vụ việc dân sự mà
Tòa án có nhiệm vụ giải quyết.

- Kiến nghị với cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền xử lý theo quy định
tại Luật Đất đai


thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý
do cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm
sát

Từ kết quả khái lược trên, hiện nay có thể xác định những nhiệm vụ của Tòa án
và cơ quan thẩm quyền tại địa phương trong việc giải quyết tranh chấp đất đai do

pháp luật quy định là:
- Nhiệm vụ của cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương:
Thứ nhất: Cung cấp cho Toà án nhân dân các tài liệu địa chính hoặc các tài
liệu có liên quan đến việc xác định quyền sử dụng đất đai hợp pháp của các đương
sự;
Thứ hai: Cho biết việc sử dụng đất đó có hợp pháp hay không, nếu việc sử
dụng đất hợp pháp thì thời hạn sử dụng đất có còn nữa hay không (đối với đất có
thời hạn sử dụng)
Thứ ba: Xác nhận thực tế việc sử dụng đất của đương sự.
Thứ tư: Cho biết rõ là việc sử dụng đất của đương sự thuộc trường hợp nào
trong các trường hợp sau:
- Xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng chưa kịp cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai;
- Cho biết rõ là việc sử dụng đất đó không vi phạm quy hoạch và thuộc trường
hợp có thể được xem xét để giao quyền sử dụng đất;
- Cho biết rõ tài sản có được phép tồn tại trên đất hay không;
Thứ năm: Giúp Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân xác minh các tình
tiết có liên quan đến quyền sử dụng đất, đo lại diện tích đất khi cần thiết.
Thứ sáu: Xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất (đối
với hộ gia đình, cá nhân) hoặc giấy xác nhận của Sở Địa chính, Sở Địa chính - Nhà
đất (đối với tổ chức kinh tế.) về việc đất đó đã có giấy chứng nhận về quyền sử dụng
đất hợp pháp khi đương sự mất hoặc không quản lý Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất;
Thứ bảy: Kiến nghị cơ quan thẩm quyền xem xét tính hợp pháp của bản án có
hiệu lực pháp luật của Tòa án.
- Nhiệm vụ của Tòa án nhân dân: Chủ yếu là nhiệm vụ kiến nghị Ủy ban
nhân dân thực hiện các phần việc trong quản lý đất đai và nhiệm vụ thụ lý, giải quyết
yêu cầu hủy quyết định cá biệt của cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực đất đai
tại địa phương.
2. Những phần việc cụ thể trên thực tế cần phải có sự phối hợp, thực hiện

của cơ quan thẩm quyền tại địa phương khi Tòa án giải quyết vụ án tranh chấp
đất đai
Thực tiễn giải quyết các vụ án tranh chấp đất đai rất đa dạng và phức tạp, nhất
là các vụ án mà đất tranh chấp không có giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất hợp
pháp của đương sự. Theo đó, dựa trên quy định của pháp luật đất đai và pháp luật tố
tụng dân sự, qua kết quả giải quyết các vụ án tranh chấp đất đai tại địa phương đang
công tác, chúng tôi có thể khái lược một số phần việc chính mà khi giải quyết vụ án
Tòa án cần phải có sự phối hợp của cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương:
- Thứ nhất là thu thập tài liệu chứng cứ, quan điểm của cơ quan thẩm quyền tại
địa phương về nguồn gốc hình thành, quá trình quản lý, sử dụng đất; thông tin đo đạc,
lập bản đồ, hồ sơ địa chính, cơ sở dữ liệu về quá trình đăng ký, đăng ký biến động,
thực hiện các quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất qua các thời kỳ. Thủ tục này


được các Thẩm phán xác định là bắt buộc phải làm trong các vụ án tranh chấp có liên
quan đến đất đai.
- Thứ hai là thu thập thông tin, quan điểm của cơ quan có thẩm quyền về
những vấn đề phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án, như:
+ Diện tích đất trên thực tế không trùng khớp với diện tích đất trong giấy tờ
liên quan như Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hồ sơ địa chính do địa phương
quản lý hoặc có hiện tượng lấn chiếm đất công….
Ví dụ: Ông A tranh chấp đất với ông B. Sau khi Tòa án xem xét thẩm định thì
kết quả đo đạt cho thẩy diện tích đất của ông B trên thực tế nhiều hơn so với diện tích
đất thuộc bìa đỏ của ông B và diện tích đất của ông A trên thực tế ít hơn so với diện
tích đất thuộc bìa đỏ của ông A. Trường hợp này, Tòa án phải làm văn bản gửi cơ
quan có thẩm quyền xác định nguyên nhân, vị trí thiếu, thừa đất trên thực tế so với
giấy tờ lưu trữ tại địa phương và tính hợp pháp của người đang quản lý, sử dụng diện
tích đất thừa.
+ Vị trí, tứ cận thửa đất trên thực tế không trùng khớp với hồ sơ đo vẽ lưu trữ
tại địa phương. Ví dụ: Theo bản đồ địa chính thì thửa đất của ông A phía Tây giáp

đường giao thông nhưng trên thực tế thì phía Tây thửa đất của ông A lại giáp nhà bà
B. Trường hợp này Tòa án phải có văn bản hỏi cơ quan thẩm quyền về sự không phù
hợp trên.
+ Công trình xây dựng trên đất chưa được cấp thẩm quyền công nhận. Ví dụ:
Khi xem xét, thẩm định, Tòa án xác định trên diện tích đất tranh chấp (loại đất vườn)
có ngôi nhà của con ông A mới xây dựng không xin phép. Trường hợp này Tòa án
phải có văn bản hỏi cơ quan thẩm quyền về tính hợp pháp của tài sản trên đất.
- Thứ ba là thông tin, tài liệu chứng cứ từ cơ quan thẩm quyền tại địa phương
về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; thống kê, kiểm kê đất đai; giá đất và thuế đất;
giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; liên quan
đến các dự án đầu tư trên đất; việc chấp hành pháp luật đất đai, kết quả thanh tra,
kiểm tra, xử lý vi phạm, giải quyết tranh chấp, khiếu kiện liên quan đến diện tích đất
tranh chấp.
- Thứ tư, đối với diện tích đất không có các giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật
Đất đai năm 2013 thì ngoài các nội dung trên, Tòa án còn phải hỏi thêm thông tin từ
cơ quan thẩm quyền tại địa phương về cơ sở dữ liệu liên quan đến diện tích đất tranh
chấp, tính hợp pháp, phù hợp quy hoạch của việc sử dụng đất, người đang sử dụng
đất có đủ điều kiện để công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp, cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất hay không? Quyền lợi về sở hữu chung, tài sản trên đất của người
thứ ba…
II. Một số vấn đề về thực trạng mối quan hệ giữa cơ quan thẩm quyền tại
địa phương với Tòa án nhân dân trong giải quyết tranh chấp đất đai:
1. Đánh giá chung về kết quả đạt được:
Pháp luật đất đai và pháp luật tố tụng dân sự được hoàn thiện hơn qua các thời
kỳ, kịp thời tháo gỡ các vướng mắc phát sinh trong quá trình giải quyết các vụ án
tranh chấp đất đai tại Tòa án. Nhờ vậy, trong những năm qua, mặc dù số lượng và
tính phức tạp của các vụ án tranh chấp đất đai tại Tòa án địa phương năm sau tăng
nhiều hơn năm trước nhưng tiến độ và chất lượng giải quyết được cải thiện theo
hướng tích cực, hạn chế được những sai sót không đáng có làm kéo dài thời gian giải
quyết vụ án, tránh gây phiền hà cho nhân dân và ảnh hưởng đến uy tín của hệ thống

Tòa án nhân dân. Số lượng các vụ án bị tạm đình chỉ do chờ kết quả trả lời, cung cấp


chứng cứ từ cơ quan thẩm quyền tại địa phương giảm rõ rệt, các Tòa án nhân dân địa
phương đã tích cực phối hợp với cơ quan thẩm quyền địa phương, tranh thủ sự quan
tâm lãnh đạo của Tòa án cấp trên và cấp ủy địa phương trong tổ chức thực hiện các
nhiệm vụ liên quan đến công tác phối hợp, tháo gỡ kịp thời những “điểm nghẽn” về
thời hạn và thủ tục tố tụng xuất phát từ việc cung cấp thông tin của cơ quan quản
thẩm quyền tại địa phương. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả chung đó, thực tiễn
giải quyết các vụ án tranh chấp đất đai tại địa phương vẫn còn những hạn chế và gặp
phải những vướng mắc mang tính căn bản sau:
2. Những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân
2.1. Một số hạn chế
Một là: Tiến độ giải quyết các vụ án tranh chấp có liên quan đến đất đai tại Tòa
án vẫn còn chậm, đa số các vụ án đều phải gia hạn, sử dụng hết 6 tháng mà pháp luật
tố tụng cho phép; nhiều vụ án phải tạm đình chỉ chờ kết quả trả lời của cơ quan thẩm
quyền nhiều năm; nhiều Tòa án bị kiểm điểm trách nhiệm, không xét thi đua cuối
năm do lượng án tranh chấp đất đai tồn đọng nhiều.
Hai là: Nhiều vụ án tranh chấp đất đai bị hủy đi, hủy lại nhiều lần do lỗi chủ
quan của Thẩm phán trong việc thu thập chứng cứ từ cơ quan thẩm quyền, xác định
sai cơ quan có thẩm quyền trả lời thông tin về quản lý đất đai hoặc nội dung trả lời
của cơ quan thẩm quyền không rõ, không đầy đủ, thiếu thống nhất nhưng vẫn xét xử,
quyết định giải quyết vụ án;
Ba là: Còn một số lãnh đạo Tòa án nhân dân địa phương để xảy tình trạng
“quyền anh, quyền tôi” trong mối quan hệ với cơ quan thẩm quyền tại địa phương,
điều này dẫn tới thiếu sự linh hoạt, hiệu quả trong công tác phối hợp, tác động tiêu
cực đến tiến độ, chất lượng giải quyết các vụ án tranh chấp có liên quan đến đất đai.
2.2. Một số vướng mắc phát sinh từ thực tiễn giải quyết các vụ án tại Tòa
án:
Một là: Trách nhiệm chậm hoặc không cung cấp chứng cứ, thông tin theo yêu

cầu của Tòa án của cơ quan thẩm quyền trong tố tụng dân sự được quy định rõ tại
khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, trong đó có xác định chế tài xử lý
hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Nhưng thực tiễn không thực hiện được
các quy định này vì chưa xác định được rõ thẩm quyền, thủ tục, cách thức xử lý chế
tài đối với cơ quan thẩm quyền khi chậm hoặc không cung cấp thông tin, chứng cứ
theo yêu cầu của Tòa án;
Hai là: Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực thi hành, các quy định về thẩm
quyền trong quản lý đất đai tại địa phương được mở rộng cho Ủy ban nhân dân cấp
xã và các cơ quan liên quan như Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai, Phòng Tài
nguyên và Môi trường thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện. Nhưng trên thực tế rất
nhiều Tòa án chỉ gửi văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân cấp huyện trả lời và cung cấp
chứng cứ vì cho rằng Ủy ban nhân dân cấp xã và các phòng, ban, cơ quan thuộc Ủy
ban nhân dân cấp huyện chỉ là cơ quan tham mưu cho Ủy ban nhân dân cấp huyện.
Ngược lại, khi nhận được văn bản yêu cầu của Tòa án thì Ủy ban nhân dân cấp huyện
lại có văn bản cho rằng trách nhiệm trả lời, cung cấp thông tin, tài liệu chứng cứ
thuộc các đơn vị trực thuộc Ủy ban nhân dân. Điều này dẫn đến hệ lụy là Tòa án
không thu thập được thông tin, tài liệu chứng cứ liên quan. Ngoài ra, theo quy định
hiện hành thì Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai hoạt động tại đơn vị cấp huyện
nhưng lại thuộc sự quản lý, điều hành của Văn phòng Đăng ký đất đai thuộc Sở Tài
Nguyên và Môi trường, điều này giới hạn, tác động không nhỏ đến hiệu lực lãnh đạo,


quản lý, đốc thúc của lãnh đạo địa phương đối với Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất
đai trong việc đảm bảo tiến độ, nội dung trả lời văn bản, cung cấp chứng cứ cho Tòa
án.
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc
2.3.1. Một số nguyên nhân khách quan:
Thứ nhất: Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về đất đai và tố tụng dân
sự đã có nhiều thay đổi tiến bộ nhưng vẫn chưa theo kịp yêu cầu chung. Các Thông
tư liên tịch hướng dẫn về mối quan hệ giữa Tòa án và cơ quan có thẩm quyền tại địa

phương trong giải quyết các tranh chấp đất đai trước đây còn chung chung, nhiều nội
dung chưa theo kịp sự thay đổi của pháp luật đất đai và pháp luật tố tụng dân sự sau
này. Nhưng, hiện vẫn chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể (như tinh thần xây dựng
Thông tư của Tòa án nhân dân tối cao năm 2014) về mối quan hệ giữa Tòa án nhân
dân và cơ quan thẩm quyền địa phương trong giải quyết các vụ án tranh chấp liên
quan đến đất đai.
Thứ hai: Hiện vẫn thiếu cơ sở pháp lý về thẩm quyền, thủ tục xử lý, truy cứu
trách nhiệm đối với các tổ chức, cơ quan không hoặc chậm thực hiện việc cung cấp
thông tin, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án. Thực tiễn cho thấy ngoài sự tác động,
đôn đốc theo kênh quản lý hành chính nhà nước của cấp trên đối với cấp dưới hoặc
thông qua hoạt động giám sát của Ban Pháp chế Hội đồng nhân dân cùng cấp, Đại
biểu Quốc hội, thì cho đến nay chưa có cơ quan, tổ chức nào bị xử lý hành chính hoặc
truy cứu trách nhiệm do chậm hoặc không thực hiện việc cung cấp thông tin, chứng
cứ theo yêu cầu của Tòa án.
Thứ ba: Công tác quản lý dữ liệu, hồ sơ, tài liệu liên quan đến đất đai ở nhiều
địa phương qua các thời kỳ không đảm bảo yêu cầu, thiếu khoa học; một số trường
hợp tài liệu, dữ liệu bị mất, hư hỏng hoặc không biết ở đâu do việc chia tách, sáp
nhập các đơn vị hành chính cấp huyện theo yêu cầu phát triển của xã hội…những vấn
đề đó khiến cho việc khai thác thông tin, trả lời, cung cấp cho Tòa án không đảm bảo
tiến độ và chất lượng.
2.3.2. Một số nguyên nhân chủ quan:
Thứ nhất: Lãnh đạo một số địa phương vẫn còn quan niệm xem Tòa án nhân
dân địa phương như một Sở, phòng, ban trực thuộc địa phương nên lơ là trong quản
lý, giám sát, đôn đốc hoặc thiếu trách nhiệm, không coi trọng việc thực hiện nhiệm
vụ cung cấp thông tin, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án. Một số công chức phụ
trách công việc liên quan tại các cơ quan được giao thẩm quyền trong quản lý đất đai
tại địa phương xem nhẹ trách nhiệm phối hợp với Tòa án trong giải quyết tranh chấp
đất đai.
Thứ hai: Một số Thẩm phán thiếu kinh nghiệm và còn yếu năng lực chuyên
môn, không nắm bắt hết các quy định pháp luật liên quan dẫn đến không xác định

được vấn đề, nội dung, phạm vi cần hỏi, cần đề nghị cơ quan thẩm quyền cung cấp tài
liệu chứng cứ; thậm chí có trường hợp Thẩm phán không xác định cơ quan nào có
thẩm quyền cung cấp thông tin, tài liệu chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án. Ngoài ra,
nhiều trường hợp nội dung hỏi trong các văn bản của Tòa án vượt quá thẩm quyền,
nhiệm vụ của cơ quan quản lý tại địa phương, có trường hợp Thẩm phán đề nghị cơ
quan thẩm quyền tại địa phương trả lời về hướng giải quyết vụ tranh chấp.
Thứ ba: Công tác phối hợp giữa lãnh đạo Tòa án nhân dân cấp huyện với lãnh
đạo các cơ quan thẩm quyền tại một số địa phương còn thiếu chặt chẽ, có nơi còn
cứng nhắc, chưa đặt lợi ích chung, lợi ích nhân dân lên trước hết; nhiều địa phương


chưa xây dựng được quy chế phối hợp giữa Tòa án nhân dân và Ủy ban nhân dân
trong công tác chung, trong đó có nhiệm vụ giải quyết tranh chấp đất đai.
III. Một số kiến nghị, đề xuất
1. Tòa án nhân dân tối cao cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn việc thực hiện
mối quan hệ giữa Tòa án nhân dân và cơ quan thẩm quyền tại địa phương trong việc
giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án. Đây là việc làm rất cần thiết nhằm kịp thời
tháo gỡ vướng mắc hiện có tại Tòa án nhân dân địa phương, nhất là tháo gỡ nhiều vụ
án tranh chấp đất đai đang bị tạm đình chỉ nhiều năm do chưa có kết quả trả lời của
cơ quan thẩm quyền địa phương. Trong văn bản hướng dẫn, Tòa án nhân dân tối cao
cần đặt biệt quan tâm đến nội dung xác định cơ quan nào có thẩm quyền, trách nhiệm
thực hiện các nhóm nhiệm vụ hoặc từng nhiệm vụ cụ thể theo yêu cầu của Tòa án và
thủ tục, trình tự, thẩm quyền áp dụng các chế tài đối với các tổ chức, cá nhân liên
quan đến việc vi phạm quy định về thực hiện công tác phối hợp, cung cấp chứng cứ
trong tố tụng dân sự.
2. Lãnh đạo Tòa án nhân dân các cấp cần chủ động làm việc với Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cùng cấp, xây dựng quy chế phối hợp giữa Tòa án nhân dân và Ủy ban
nhân dân trong việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị nói chung, trong quan hệ
phối hợp, cung cấp chứng cứ giải quyết vụ án tranh chấp đất đai nói riêng. Việc xây
dựng quy chế cần cụ thể, sát với từng công việc liên quan, khắc phục được các vướng

mắc hiện có, tránh chung chung, hình thức; đồng thời phải đảm bảo công tác kiểm
tra, đôn đốc, đánh giá, sơ kết việc thực hiện quy chế này theo định kỳ.
3. Tranh chấp liên quan đến đất đai là loại tranh chấp phức tạp nhất, có liên
quan đến nhiều loại án trong tố tụng dân sự, gồm dân sự thuần túy, hôn nhân gia đình
và cả án kinh doanh thương mại. Do vậy, Tòa án nhân dân tối cao cần tập huấn hoặc
xây dựng tài liệu tập huấn chuyên đề về vai trò, nhiệm vụ của lãnh đạo Tòa án, Thẩm
phán trong mối quan hệ với cơ quan thẩm quyền tại địa phương trong giải quyết các
tranh chấp liên quan đến đất đai nhằm nâng cao năng lực chuyên môn, kỹ năng giải
quyết, xử lý tình huống phát sinh trong quá trình giải quyết các vụ án liên quan đến
đất đai của lãnh đạo, Thẩm phán Tòa án nhân dân địa phương.
4. Về lâu dài, nhà nước cần đầu tư kinh phí và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin, khoa học kỹ thuật trong công tác quản lý, khai thác dữ liệu về quản lý đất
đai tại địa phương. Theo chúng tôi, nhà nước cần phát huy năng lực và giao quyền
cho các tổ chức ngoài nhà nước trong công tác đo đạc, thu thập, quản lý, cung cấp dữ
liệu về tài nguyên, môi trường, tạo tiền đề để dịch vụ hóa công tác đo đạc, kiểm đếm
thực tế để tạo sự chủ động cho Tòa án, đáp ứng được nguyên tắc “tôn trọng sự tự
nguyện của đương sự” trong tố tụng dân sự; giảm bớt áp lực công việc cho các đơn vị
nhà nước liên quan, trong tình hình tinh giản biên chế, thiếu người nhưng nhiều việc
như hiện nay.
Trong các kiến nghị, đề xuất trên thì kiến nghị thứ nhất là quan trọng và cấp
thiết nhất. Thực tiễn giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án địa phương vẫn còn
nhiều khó khăn, vướng mắc; thông qua bài viết này, chúng tôi mong nhận được sự
quan tâm của Tòa án nhân dân cấp trên, sự chia sẽ, trao đổi của đồng nghiệp, nhằm
hướng tới mục tiêu giải quyết tốt công việc tại Tòa án, phục vụ tốt yêu cầu của nhân
dân.
Tác giả bài viết: Nguyễn Văn Dũng
Tòa án nhân dân thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.




×