Tải bản đầy đủ (.doc) (241 trang)

LATS Quản lý phương tiện dạy học ở trường cao đẳng kinh tế - kỹ thuật theo tiếp cận đảm bảo chất lượng giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.96 MB, 241 trang )

v

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

TRẦN VĂN MỪNG

QUẢN LÝ PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC
Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ - KỸ THUẬT
THEO TIẾP CẬN ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

THÁI NGUYÊN - 2018


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Một trong những mục tiêu, nhiệm vụ của giáo dục - đào tạo của nước ta
hiện nay là đào tạo, phát triển nguồn nhân lực. Chỉ có thể thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước một cách nhanh chóng và bền vững bằng việc ưu tiên phát triển
nguồn nhân lực, cung cấp đầy đủ nhân lực được đào tạo. Nhiều văn bản của Đảng,
Nhà nước, các bộ ban ngành, các địa phương,… đã khẳng định quan điểm đó. Quyết
định số 579/ QĐ-TTg ngày 19/4/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt
Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020 cũng đã khẳng định mục
tiêu đưa nhân lực Việt Nam trở thành nền tảng và lợi thế quan trọng nhất để phát triển
bền vững đất nước, hội nhập quốc tế và ổn định xã hội, nâng trình độ năng lực cạnh
tranh của nhân lực nước ta lên mức tương đương các nước tiên tiến trong khu vực,
trong đó một số mặt tiếp cận trình độ các nước phát triển trên thế giới.
Nghị quyết 29 của Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI Đảng) về đổi mới căn


bản, toàn diện giáo dục - đào tạo (GD-ĐT), đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế đã khẳng định, đào tạo nhân lực có kiến thức, kỹ năng và trách nhiệm nghề
nghiệp hình thành hệ thống giáo dục nghể nghiệp với nhiều phương thức và trình độ
đào tạo kỹ năng nghề nghiệp theo hướng ứng dụng, thực hành, bảo đảm đáp ứng
nhu cầu nhân lực kỹ thuật công nghệ của thị trường lao động trong nước và quốc tế.
Để thực hiện được nhiệm vụ trên, đòi hỏi GD-ĐT phải thay đổi trên nhiều
lĩnh vực, thay đổi trong quản lý đào tạo nói chung, quản lý từng thành tố của quá
trình đào tạo nói riêng. Tất cả phải tạo thành một hệ thống, có mối quan hệ biện
chứng với nhau để tạo nên động lực thúc đẩy đổi mới căn bản, toàn diện một cách
bền vững. Trong các yếu tố tạo nên sự đổi mới căn bản, toàn diện đó, sự đổi mới
công tác quản lý phương tiện dạy học (PTDH) là một trong những thành tố giữ vai
trò quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng (ĐBCL) và hiệu quả GD-ĐT.
1.2. Là một thành tố trong cấu trúc của quá trình dạy học, PTDH trực tiếp
góp phần nâng cao chất lượng đào tạo (CLĐT) bên cạnh các điều kiện bảo đảm
khác như chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý (CBQL) giáo dục; tính hợp
lý, khoa học, hiện đại của chương trình, nội dung đào tạo và phương pháp giảng
dạy; năng lực, quy trình tổ chức quản lý; điều kiện tài chính; công tác kiểm định
chất lượng; chất lượng đầu vào và giải quyết việc làm sau tốt nghiệp; công tác xã
hội hóa;... Đối với các trường cao đẳng kinh tế - kỹ thuật (CĐKT-KT), vai trò của


2
PTDH được khẳng định rõ ràng hơn: muốn đào tạo tay nghề cho người học phải có
máy móc thiết bị để dạy nghề, đó là những phương tiện cần thiết để chuyển tải
thông tin, kiến thức và rèn luyện kỹ năng thực hành cho người học. Việc đầu tư,
trang bị PTDH hợp lý, phù hợp với ngành nghề đào tạo có ý nghĩa thiết thực đối với
hoạt động dạy nghề. Thương hiệu, uy tín và việc xếp hạng các cơ sở đào tạo, đặc
biệt là đối với đào tạo khối nghề kỹ thuật, phụ thuộc rất lớn vào điều kiện PTDH.
Quản lý, đầu tư, sử dụng, bảo quản PTDH hiệu quả cũng là một trong vấn đề không

thể thiếu trong việc góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ sở giáo dục,
trong đó có CLĐT, nghiên cứu khoa học (NCKH) và hoạt động dịch vụ.
1.3. Trong những năm gần đây, việc đầu tư PTDH đã được các trường cao
đẳng (CĐ) công lập quan tâm nhưng vẫn còn nhiều bất cập, ảnh hưởng đến hoạt
động đào tạo, NCKH và các hoạt động khác của nhà trường. Quan niệm, nhận thức
của CBQL, giảng viên (GV), nhân viên (NV) và sinh viên (SV) về tầm quan trọng
của PTDH trong đào tạo còn hạn chế; so với yêu cầu hiện nay, mức đầu tư chưa đáp
ứng nhu cầu hoạt động của nhà trường; sự đồng bộ, tính hiện đại còn chậm so với
thực tiễn sản xuất và sự phát triển của khoa học kỹ thuật; hiệu quả khai thác sử dụng
chưa cao, chưa khai thác hết hiệu suất đầu tư; công tác bảo quản, bảo trì, bảo dưỡng
chưa khoa học và kịp thời; việc quản lý, xây dựng đội ngũ NV chuyên trách, xây
dựng và triển khai kế hoạch khai thác, sử dụng, giám sát, kiểm tra vẫn còn nhiều bất
cập; công tác kiểm kê còn mang tính hành chánh, hình thức, chưa đi vào đánh giá
hiệu suất sử dụng cũng như hiệu quả đầu tư; công tác NCKH, chuyển giao công
nghệ, phát triển PTDH tự làm chưa thực sự phát huy vai trò của một trường CĐ;
quan điểm xã hội hóa công tác đầu tư, sử dụng PTDH vẫn chưa thật sự nhận được
sự quan tâm chú ý. Đặc biệt là đứng trước yêu cầu đảm bảo chất lượng giáo dục, nội
dung thể hiện sự khẳng định, cam kết của một cơ sở giáo dục đối với xã hội. Điều
này đã làm ảnh hưởng đến hoạt động của các cơ sở giáo dục nói chung và đào tạo
nghề kinh tế - kỹ thuật nói riêng, nhất là trong bối cảnh cạnh tranh chất lượng và sự
phát triển của cách mạng khoa học công nghệ 4.0, của hội nhập quốc tế hiện nay.
Với yêu cầu về đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế, những kết quả đã nghiên cứu trong lĩnh vực quản lý vẫn
chưa giải quyết những vấn đề căn bản liên quan đến lý luận về QLGD, quản lý nhà
trường, đánh giá đúng thực chất hiện trạng công tác QL PTDH hiện nay vẫn chưa
cụ thể hóa được thành các biện pháp có tính khả thi cho các trường CĐKT-KT.


3

Những giải pháp, biện pháp mới chỉ mang tính chất định hướng hoặc là những kinh
nghiệm cụ thể trong công tác QL nhà trường ở các cơ sở GD. Vì vậy, một số kết quả
đã nghiên cứu chưa xuất phát từ quan điểm QL PTDH như là một hệ thống của các
giải pháp QLGD, quản lý nhà trường, được xây dựng từ những cơ sở lý luận của
khoa học giáo dục hiện đại và cơ sở thực tiễn đào tạo của các trường CĐKT-KT.
Việc QL PTDH ở các trường CĐKT-KT từ trước tới nay không phát huy tác
dụng, hiệu quả trong việc hướng tới mục tiêu phát triển nguồn nhân lực có chất
lượng cao. Trong thời kỳ đổi mới nền KT-XH hiện nay, việc QL PTDH ở các trường
CĐKT-KT phải nhằm phát huy được hết công năng của các phương tiện, hỗ trợ đặc
lực cho hoạt động dạy học, hướng vào việc phát triển năng lực người học, thực hiện
mục tiêu ĐBCL GD, chuyển quản lý trường học thành quản trị cơ sở giáo dục. Có
như vậy, nhiệm vụ QL PTDH nói riêng và QL hoạt động của các trường CĐKT-KT
nói chung mới đạt được mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện.
Những phân tích trên là lí do của việc lựa chọn đề tài nghiên cứu luận án
“Quản lý phương tiện dạy học ở trường cao đẳng kinh tế - kỹ thuật theo tiếp cận
đảm bảo chất lượng giáo dục”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và đánh giá thực trạng QL PTDH ở các trường
CĐKT-KT theo tiếp cận ĐBCL GD, luận án đề xuất một số biện pháp QL PTDH ở
trường CĐKT-KT theo tiếp cận ĐBCL GD, nhằm góp phần nâng cao chất lượng,
hiệu quả đào tạo ở các trường CĐKT- KT.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động quản lý phương tiện dạy học ở trường Cao đẳng kinh tế kỹ thuật
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Quản lý phương tiện dạy học ở trường CĐKT-KT theo tiếp cận đảm bảo chất
lượng giáo dục.
4. Giả thuyết khoa học
PTDH là một thành tố trong cấu trúc của quá trình dạy học, góp phần nâng
cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực của các trường CĐKT-KT. Thực trạng

PTDH và quản lý PTDH ở các trường CĐKT-KT trong thời gian qua vẫn còn nhiều
khó khăn, bất cập và chưa đáp ứng yêu cầu là điều kiện ĐBCL GD. Nếu đề xuất
được các biện pháp QL PTDH theo tiếp cận ĐBCL GD một cách khoa học, đồng


4
bộ, phù hợp với đặc thù các trường CĐKT-KT, thì sẽ nâng cao hiệu quả QL PTDH,
góp phần nâng cao CLĐT ở trường CĐKT-KT.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về QL PTDH ở các trường CĐKT-KT theo tiếp
cận ĐBCL GD.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng QL PTDH ở trường CĐKT-KT công lập theo
tiếp cận ĐBCL GD.
- Đề xuất các biện pháp QL PTDH ở trường CĐKT-KT công lập theo tiếp
cận ĐBCL GD.
- Tổ chức khảo nghiệm và thực nghiệm một số biện pháp QL PTDH tại
trường CĐKT-KT Tp. Hồ Chí Minh.
6. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài luận án chỉ nghiên cứu công tác QL PTDH ở các trường CĐKT-KT
công lập; đánh giá thực trạng QLPTDH các trường CĐKT-KT trên địa bàn Tp. Hồ
Chí Minh giai đoạn 2014-2017.
- Các biện pháp quản lý đề xuất để áp dụng cho công tác quản lý ở trường
CĐKT-KT công lập trong giai đoạn hiện nay. Chủ thể quản lý là hiệu trưởng trường
CĐKT-KT, với sự phối hợp thực hiện của các phòng, khoa, tổ, trung tâm, các tổ
chức và CBQL, GV, NV của nhà trường.
7. Phương pháp tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp tiếp cận
7.1.1. Phương pháp tiếp cận hoạt động phát triển
Đây là phương pháp nghiên cứu tiếp cận việc QL PTDH ở các trường
CĐKT-KT như là một hoạt động luôn phát triển trong quá trình đào tạo nguồn nhân

lực có trình độ hiện nay. Việc xác định cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng, đề xuất
các biện pháp phải tiếp cận các hoạt động quản lý của nhà trường, được triển khai
trên các hoạt động QL cụ thể của các trường CĐKT-KT, cũng như những hoạt động
của đội ngũ CBQL, GV, NV và các đối tượng liên quan; sự phát triển theo chiều
hướng đi lên trong việc nâng cao CLĐT của các trường CĐKT-KT.
7.1.2. Phương pháp tiếp cận hệ thống
Phương pháp này đòi hỏi khi nghiên cứu cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng
cũng như đề xuất biện pháp phải đặt việc QL PTDH như một thành tố trong hệ


5
thống các hoạt động quản lý của trường CĐKT-KT, trong hệ thống các điều kiện
ĐBCL GD khác (đội ngũ, chương trình, kiểm tra đánh giá,…). Mặt khác, QL PTDH
đáp ứng yêu cầu ĐBCL như là một mục tiêu, động lực trong hệ thống các nguồn lực
để nâng cao CLĐT nguồn nhân lực hiện nay. Đó là một hệ thống cấu trúc có các
yếu tố có mối quan hệ biện chứng với nhau. Vì vậy, biện pháp QL PTDH ở trường
CĐKT-KT theo tiếp cận ĐBCL GD có liên quan tới những yếu tố chủ quan và
khách quan, ở trong trường và ngoài trường.
7.1.3. Phương pháp tiếp cận thực tiễn
Phương pháp tiếp cận này đòi hỏi trong quá trình nghiên cứu phải bám sát
thực tiễn hoạt động của các trường CĐKT-KT trên các địa bàn cụ thể. Những yêu
cầu chung về QL PTDH theo tiếp cận ĐBCL GD phải phù hợp với thực tiễn của
mỗi trường, thích ứng trong mỗi giai đoạn, có hiệu quả đối với yêu cầu sử dụng
nguồn nhân lực theo ngành nghề, trình độ. Vì vậy, các biện pháp được đề xuất cần
phải được vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt trong hệ thống các biện pháp khác,
trong quá trình phát triển của mỗi trường CĐKT-KT trên các địa bàn khác nhau.
7.1.4. Phương pháp tiếp cận đảm bảo chất lượng
PTDH là một thành tố trong cấu trúc của quá trình dạy học, PTDH góp phần
nâng cao chất lượng dạy học, hoạt động quản lý PTDH cần theo tiếp cận ĐBCL
GD, để từ đó có những biện pháp phù hợp, trang bị, khai thác, sử dụng có hiệu quả,

phù hợp với quy định về điều kiện ĐBCL trong nhà trường.
7.1.5. Phương pháp tiếp cận theo nội dung quản lý và chức năng quản lý
Quản lý PTDH là việc chủ thể quản lý sử dụng các chức năng của quản lý để
duy trì, phát triển làm cho PTDH ngày càng đáp ứng tốt hơn, hiệu quả hơn yêu cầu
ĐBCL GD của nhà trường.
Theo tiếp cận về nội dung, đó là việc chủ thể quản lý, bằng các chức năng
của quản lý, tác động vào các khâu trong vòng đời của PTDH (kế hoạch hoá PTDH;
tổ chức mua sắm; bảo quản, sử dụng; duy trì, bổ sung PTDH bằng cách nâng cao
hiệu quả, tần suất sử dụng, sử dụng chung, tự làm PTDH; kiểm kê, thanh lý để đánh
giá và tái đầu tư PTDH) nhằm đạt được mục tiêu quản lý.
Phương pháp tiếp cận theo các khâu trong vòng đời PTDH, trong từng khâu
đó lại tiếp cận theo chức năng quản lý là một phương pháp thường dùng, giúp đáp


6
ứng chi tiết hơn các mục tiêu của nghiên cứu. Trong luận án này, ngoài các phương
pháp tiếp cận đã nêu, phần nội dung quản lý tác giả lựa chọn cách tiếp cận này.
7.2. Phương pháp nghiên cứu
7.2.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích, tổng hợp các tài liệu lý thuyết, khái quát hóa và phân loại, hệ thống
hóa lý thuyết, cụ thể hóa lý thuyết trong các tài liệu các văn kiện, nghị quyết của
Đảng, Nhà nước; các thông tư, quyết định của Bộ Tài chính, Bộ GD-ĐT, Bộ Lao
động Thương binh và Xã hội; các quy định, văn bản hướng dẫn của thành phố có
liên quan để xây dựng cơ sở lý luận của vấn đề QL PTDH theo tiếp cận ĐBCL GD
ở các trường CĐ Việt Nam hiện nay.
7.2.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thông tin thực tiễn để xây dựng
cơ sở thực tiễn của đề tài. Thuộc nhóm này có các phương pháp cụ thể sau đây:
- Phương pháp quan sát: nhằm tìm hiểu, đi đến nơi, quan sát thực tế công tác
QL PTDH ở trường CĐKT-KT theo tiếp cận ĐBCL GD.

- Phương pháp điều tra: để điều tra, phỏng vấn, tư vấn, thăm dò, thu thập
thông tin về vấn đề QL PTDH ở trường CĐKT-KT theo tiếp cận ĐBCL GD, đánh
giá ưu điểm, nhược điểm để làm cơ sở để đề xuất đổi mới hoạt động quản lý; xây
dựng các giải pháp thực hiện, thăm dò về tính khả thi và hiệu quả của các biện pháp
QL PTDH theo tiếp cận ĐBCL GD ở các trường CĐKT-KT đã được đề xuất.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm quản lý giáo dục: để đánh giá, tổng hợp
các bài học, kinh nghiệm, mô hình QL PTDH ở trường CĐKT-KT theo tiếp cận
ĐBCL GD.
- Phương pháp chuyên gia: lấy ý kiến tư vấn, trao đổi, tham khảo, thăm dò ý
kiến của các nhà quản lý, các chuyên gia giáo dục, các CBQL, GV, NV trong ngành
giáo dục,... về thực trạng QL PTDH ở trường CĐKT-KT theo tiếp cận ĐBCL GD;
tính khả thi và hợp lý của các biện pháp đổi mới quản lý; phản biện, so sánh, chứng
minh tính hiệu quả, tính khả thi của việc áp dụng các biện pháp QL PTDH ở trường
CĐKT-KT theo tiếp cận ĐBCL GD.
- Phương pháp thực nghiệm: nhằm thống kê, đo đạc, lượng hóa và xử lý các
kết quả, số liệu liên quan đến thực trạng và tính cần thiết, tính khả thi của các biện
pháp QL PTDH ở trường CĐKT-KT theo tiếp cận ĐBCL GD.


7
7.2.3. Nhóm các phương pháp xử lý kết quả khảo sát và thực nghiệm
Sử dụng toán thống kê và một số phần mềm tin học để xử lý kết quả điều tra,
kết quả thực nghiệm, khảo nghiệm.
Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý các số liệu liên quan đến
hoạt động khảo sát, thăm dò thực trạng và kiểm chứng tính hiệu quả, khả thi của các
biện pháp được đề xuất về nâng cao chất lượng QL PTDH ở trường CĐKT-KT theo
tiếp cận ĐBCL GD.
8. Những luận điểm cần bảo vệ
8.1. PTDH là một thành tố quan trọng, là điều kiện ĐBCL GD ở trường
CĐKT-KT. PTDH phải phục vụ trực tiếp cho hoạt động dạy học, phản ánh được

những thành tựu của khoa học - kỹ thuật, công nghệ sản xuất, kinh doanh hiện nay.
8.2. Thực trạng PTDH và QL PTDH các trường CĐKT-KT hiện nay còn
nhiều bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu ĐBCL GD, ảnh hưởng tới chất lượng đào tạo
của các trường CĐKT-KT. Vì vậy, cần phải có những biện pháp có tính cần thiết,
khả thi để khắc phục thực trạng nói trên.
8.3. Các biện pháp QL PTDH ở các trường CĐKT-KT phải thể hiện được các
chức năng quản lý của chủ thể ở các khâu: lập kế hoạch, đầu tư mua sắm PTDH;
khai thác sử dụng, bảo trì, bảo dưỡng, sửa chữa PTDH; bảo quản, kiểm kê, kiểm
toán, thanh lý PTDH nhằm làm PTDH đáp ứng các tiêu chí ĐBCL GD một cách có
hiệu quả và bền vững.
9. Những đóng góp của luận án
9.1. Về lý luận
- Góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về PTDH và QL PTDH ở trường
CĐKT-KT theo tiếp cận ĐBCL GD.
- Đề xuất hệ thống tiêu chí mang tính chất khung để PTDH đáp ứng yêu cầu
ĐBCL GD ở trường CĐKT-KT.
9.2. Về thực tiễn
- Đánh giá được thực trạng PTDH và QL PTDH ở các trường CĐKT-KT
công lập theo tiếp cận ĐBCL GD.
- Đề xuất được 6 biện pháp QL PTDH ở trường CĐKT-KT công lập theo tiếp
cận ĐBCL GD.
10. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Khuyến nghị, Tài liệu tham khảo, Phụ lục,
luận án có 3 chương:


8
Chương 1. Cơ sở lý luận về quản lý phương tiện dạy học ở trường cao đẳng
kinh tế - kỹ thuật theo tiếp cận đảm bảo chất lượng giáo dục.
Chương 2. Thực trạng quản lý phương tiện dạy học ở các trường cao đẳng

kinh tế - kỹ thuật theo tiếp cận đảm bảo chất lượng giáo dục.
Chương 3. Biện pháp quản lý phương tiện dạy học ở các trường cao đẳng
kinh tế - kỹ thuật theo tiếp cận đảm bảo chất lượng giáo dục.


9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC
Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ - KỸ THUẬT
THEO TIẾP CẬN ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Phương tiện dạy học nói riêng và cơ sở vật chất - thiết bị dạy học nói chung
là một yếu tố quan trọng của hoạt động GD-ĐT ở bất kỳ một quốc gia, dù thời kỳ
nào, dù hoạt động giáo dục đó theo những trường phái, quan điểm chính trị, tôn
giáo khác nhau. Theo quan điểm triết học thì mối quan hệ giữa ba phạm trù nội
dung, phương pháp, phương tiện quyết định chất lượng một hoạt động của con
người. Giáo dục là một hoạt động đặc biệt, ngoài yếu tố nội dung chương trình, giáo
trình và phương pháp dạy học thì PTDH là yếu tố rất quan trọng không thể thiếu,
quyết định CLGD. Chính vì vậy, việc nghiên cứu về vấn đề nói trên cũng đã được
thực hiện, phát triển theo trình độ, tính chất của nền giáo dục tương ứng. Sự tiếp nối
và học hỏi, vận dụng, phát huy kinh nghiệm của các quốc gia, của các chính sách
trong QLGD trước đây là một yêu cầu quan trọng trong công cuộc đổi mới căn bản,
toàn diện GD-ĐT hiện nay. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý PTDH ở các
trường CĐKT-KT theo tiếp cận ĐBCL GD, không thể không xem xét, đánh giá
những kết quả đã được nghiên cứu trước đây ở trong và ngoài nước. Những thành
tựu đã đạt được, những vấn đề chưa được đề cập sẽ làm cho việc nghiên cứu, đề
xuất các giải pháp QL PTDH ở các trường CĐKT-KT sẽ có cơ sở lý luận và cơ sở
thực tiễn vững chắc, đảm bảo tính khả thi trong ứng dụng vào thực tiễn dạy học. Đó
là sự vận dụng kinh nghiệm trong và ngoài nước để đi tắt, đón đầu trong đổi mới
đào tạo nhân lực trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế, cuộc cách mạng

công nghiệp lần thứ 4.0. Trong bức tranh phong phú, đa dạng nói trên, chúng tôi
khái quát hóa những điểm nổi bậc nhất liên quan tới việc nghiên cứu QL PTDH ở
các trường CĐKT-KT theo quan điểm tiếp cận ĐBCL GD ở Việt Nam và thế giới.
1.1.1. Những kết quả nghiên cứu về phương tiện dạy học
1.1.1.1. Những nghiên cứu trên thế giới về phương tiện dạy học
Ngay từ khi hình thành cơ chế GD-ĐT, cơ chế truyền thụ tri thức, kinh
nghiệm của thế hệ trước cho thế hệ sau, từ phạm vi cộng đồng này sang cộng đồng
khác của con người, những yếu tố hỗ trợ quá trình phát - nhận đã được nhìn nhận
như là những công cụ GD, công cụ dạy học. CSVC nói chung và PTDH nói riêng


10
được hình thành, phát triển song hành với sự phát triển, tiến bộ của kho tàng tri thức
loài người cũng như cách thức mà loài người lưu giữ, truyền thụ những tri thức đó.
Chính vì vậy, trên thế giới, đã có nhiều công trình, bài viết nghiên cứu liên
quan đến PTDH từ nhiều góc độ khác nhau.
Nhà giáo dục Slovakia-J.A.Cômenxki (1592-1670) viết: “Điều cần thiết là
khởi điểm của nhận thức bao giờ cũng xuất phát từ cảm giác”. Ông nhấn mạnh tầm
quan trọng của tính trực quan: “Kiến thức càng dựa nhiều vào cảm giác thì nó càng
xác thực”, “Tính trực quan tạo ra khả năng làm cho nhà trường trở nên sinh động,
nó dạy cho học sinh hiểu và nghiên cứu thực tế một cách độc lập [11].
Cũng theo Slovakia-J.A.Cômenxki, trong tác phẩm “Phép dạy học vĩ đại”,
đã viết “…không có gì hết trong trí não nếu như trước đây không có gì trong cảm
giác. Vì thế, tất nhiên bắt đầu dạy - học không thể bắt đầu từ sự giải thích bằng lời
về các sự vật mà phải từ sự quan sát trực tiếp chúng...”, và rút ra nguyên tắc “lời
nói không bao giờ đi trước sự vật”. Đóng góp lớn nhất của ông là đã tổng kết, phát
triển kinh nghiệm tích lũy được về trực quan và đưa áp dụng nó một cách có ý
thức vào dạy học.
Nhà giáo dục học J.J.Rútxô (1712-1778), J.H.Pextalôzi (1746-1827) phát
triển trên cơ sở Tâm lý học: “Trực quan là cơ sở xuất phát để tạo ra những hình ảnh,

để biến những biểu tượng chưa rỏ ràng thành những biểu tượng rỏ ràng, chính xác;
tính trực quan là phương thức, phương tiện dẫn tới sự phát triển của tư duy” [11].
Nhà hoạt động văn hóa V.G.BêlinSki (1811-1848) đã có đóng góp to lớn vào
sự phát triển lý thuyết trực quan dạy học. Tư tưởng của ông gắn liền với tư tưởng
dạy học phát triển. Với nhà giáo dục K.Đ.Usinxki (1824-1870) thì nguyên tắc trực
quan trong dạy học đã được nâng lên một trình độ cao hơn. Ông cho rằng trực quan
là cái ban đầu và là nguồn gốc của mọi tri thức, cảm giác cung cấp tài liệu cho hoạt
động trí tuệ của con người. Trực quan làm cho quá trình lĩnh hội tri thức của học
sinh trở nên dễ dàng, tự giác, có ý thức và vững chắc hơn; tạo ra hứng thú học tập
cho học sinh, là phương tiện tốt nhất giúp giáo viên gần gũi học sinh và là phương
tiện quan trọng để phát triển tư duy cho học sinh.
Công trình nghiên cứu của A.N. Lêonchep (1947) “Những vấn đề tâm lý học
của tính tự giác học tập” đã chỉ ra những cơ sở tâm lí học của tài liệu trực quan.
Sự phân tích các thuyết khoa học cho rằng, các luận điểm xuất phát từ bất kỳ
lý thuyết trừu tượng nào và sự diễn giải các kết luận của nó cần gắn liền với các vật
thực, cần dựa trên những cấu trúc trực quan nhất định. “Phát hiện ra ý nghĩa vật lí


11
của các trừu tượng toán học, Omculianovski viết: là mặt cần thiết, quan trọng nhất
của sự phát triển lý thuyết vật lí. Thiếu mặt này thì vật lí cuối cùng chỉ là những sơ
đồ toán học chứ không phải là lý thuyết vật lí. Chỉ có mặt này mới cho các trừu
tượng toán học một thể xác vật lí”.
Tổ chức lao động quốc tế ADB/ILO (Evaluation Rating creteria for the VTE
Istitution. ADB/ILO - Bangkok 1997) đưa ra 9 tiêu chuẩn và điểm đánh giá cơ sở
GD-ĐT để kiểm định các nước thuộc tiểu vùng sông Mêkông thì trong đó các tiêu
chuẩn về CSVC - kỹ thuật chiếm 125/500 điểm.
Trong cuốn “Dựa vào các chỉ số thực hiện để đưa ra các quyết định chiến
lược” (Using Performance Indicators to Guide Strategic Decision Making, 1994),
các học giả Mỹ Bottill và Borden (đã liệt kê 21 lĩnh vực thực hiện, trong đó có

“Phương tiện cơ sở vật chất” và “Dịch vụ”. Đây cũng là 2 tiêu chí (tiêu chí 21: Hệ
thống hạ tầng cơ sở; tiêu chí 22: Hệ thống thư viện) trong tổng số 26 tiêu chí thuộc
Bộ tiêu chí kiểm định CL được đề xuất của công trình của Nguyễn Đức Chính [28]
Mạng toàn cầu world wide web (www) do Tim Berner-Lee (1991) xây dựng
đã tạo điều kiện cho sự ra đời hệ thống dạy học điện tử E-Learning.
Vấn đề CLĐT cũng được nhiều nhà làm công tác giáo dục quan tâm. Vào
thập kỷ 70, các nước như Anh, Mỹ, Canada,… cho rằng CLĐT phải gắn liền với
kinh phí đầu tư. Theo đó, đầu vào của quá trình đào tạo đóng vai trò quyết định
CLĐT. “Đầu vào” ở đây được hiểu là nguồn lực, bao gồm CSVC kỹ thuật, nguồn
tài chính, đội ngũ, chất lượng tuyển sinh,… Đều này đòi hỏi để duy trì CLĐT thì
ngân sách đầu tư cho giáo dục phải tăng tương ứng với tỷ lệ sinh viên vào học
Vào khoảng thập niên 80, GDĐH thế giới phải đương đầu với những thách
thức mới, đó là nguồn kinh phí đầu tư bị hạn chế, nhu cầu học đại học tăng đột biến.
Vì vậy, Chính phủ các nước này cho rằng phải đầu tư ít nhưng giảng dạy phải nhiều
và tốt. Họ xem đó là phương châm cho giáo dục, yêu cầu các cơ sở giáo dục phải
quan tâm đến hiệu quả và hiệu suất đào tạo của trường mình. Khi đó, vấn đề “đầu
ra” của quá trình đào tạo được quan tâm, đặc biệt là CLĐT.
Vào khoảng thập niên thập kỷ 90, việc bàn về CLĐT được đề cập khá sôi
nổi, đã có nhiều định nghĩa về CLĐT dưới các góc độ khác nhau. Một trong những
quan niệm được khá nhiều người thừa nhận, tiếp thu, phát triển đó là quan niệm của
Harvey and Green (1993), theo hai ông, CLĐT ĐH được thể hiện trên 5 phương
diện cơ bản: sự xuất chúng, sự tuyệt vời, sự ưu tú, xuất sắc; sự hoàn hảo; sự thích


12
hợp, phù hợp với mục đích; có giá trị đồng tiền, đáng giá để đầu tư; có sự biến đổi
lớn về chất. Năm phương diện này của CLĐT ĐH được thể hiện trong toàn bộ quá
trình đào tạo, từ việc xác định chất lượng của nguồn lực đầu tư ban đầu (mục tiêu,
yêu cầu, CSVC, tài chính, chương trình, đội ngũ GV, chất lượng SV nhập học) đến
chất lượng của quá trình đào tạo và việc ĐBCL của sản phẩm đào tạo [109]

Ở các nước phát triển, hoạt động đào tạo nói chung và hoạt động dạy học nói
riêng, PTDH là điều kiện cơ bản để tổ chức hoạt động của một cơ sở giáo dục.
Trong hệ thống các tiêu chí kiểm định chất lượng, PTDH chiếm một vị trí quan
trọng. Chính vì vậy, trong các nghiên cứu của các nhà khoa học, các nhà quản lý,
CSVC và PTDH được khẳng định về tính chất quan trọng; những vấn đề liên quan
đến hệ thống, quy mô PTDH, quá trình quản lý, khai thác sử dụng,… cũng được
nghiên cứu, xác định những nguyên tắc và giải pháp. Đặc biệt, vấn đề sử dụng, QL
PTDH theo định hướng phát triển năng lực người học, đảm bảo thực hiện CLGD đã
có nhiều kiến giải mang tính khoa học, thực tiễn.
Các kết quả nghiên cứu của thế giới liên quan đến PTDH trong hoạt động
dạy - học đã được tiếp thu, vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam.
1.1.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam về phương tiện dạy học
Một trong những điều kiện quyết định thành công mục tiêu của GD-ĐT là
phải đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học. PTDH là một trong những thành tố
không thể thiếu được trong quá trình dạy học. Để nâng cao chất lượng dạy học thì
vai trò, vị trí của PTDH là rất quan trọng. PTDH là các phương tiện thực nghiệm,
trực quan, thực hành giúp người học gắn lí luận với thực tiễn, giúp cho quá trình
nhận thức của người học trở nên hiệu quả hơn, đồng thời phát huy được tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của người học. Đổi mới phương pháp dạy học là sử dụng có
hiệu quả các PTDH, đưa người học vào vị trí chủ thể của hoạt động nhận thức.
Từ những năm 60 của thế kỷ XX, Bộ Giáo dục và Đào tạo chính thức ban
hành các tiêu chí PTDH từ mẫu giáo đến phổ thông. Tiếp theo là những tiêu chuẩn
để xây dựng và ban hành vào các năm 1975, 1985.
Ngày 25/10/2010, tại Hà Nội, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức Hội nghị
đánh giá thực trạng CSVC - TBDH của các trường ĐH, CĐ công lập toàn quốc .
Các báo cáo, tham luận đã đề cập đến những vấn đề liên quan đến vai trò, vị trí
của CSVC, TBDH; thực trạng công tác quản lý hoạt động này ở các cơ sở GDĐH
- CĐ; đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả công tác



13
CSVC, TBDH của các trường ĐH-CĐ công lập, phục vụ tốt yêu cầu đào tạo
nguồn nhân lực cho nền kinh tế - xã hội.
Khi tổng kết kinh nghiệm các cơ sở giáo dục tiên tiến, ngành GD-ĐT cũng
đã khẳng định rằng CSVC, TBDH ở trường học là một trong các yếu tố hết sức
quan trọng. Thực tiễn giáo dục của các nước trên thế giới và nước ta cho rằng đào
tạo con người mới đáp ứng yêu cầu ngày càng cao, ngày càng đa dạng nhằm phục
vụ cho việc phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước tất yếu phải có những CSVC - kỹ thuật tương ứng.
Chính vì vậy, những nghiên cứu về CSVC nói chung và PTDH nói riêng
trong hoạt động GD-ĐT, đã nhấn mạnh vào việc đổi mới tư duy về lĩnh vực CSVC,
PTDH; xây dựng hệ thống CSVC, PTDH đáp ứng các yêu cầu cho GD-ĐT; quản lý,
khai thác CSVC, PTDH đạt hiệu quả cao, đảm bảo đúng quy định của nhà nước.
Tháng 11/2011, trong Hội thảo khoa học của Trường ĐHSP Tp. Hồ Chí Minh
với chủ đề “Khai thác TBDH hiện đại phục vụ DH ở trường THPT”. Hội thảo tập
hợp được hơn 70 bài viết của các nhà khoa học, CBQL và các nhà giáo đánh giá về
thực trạng công tác quản lý, sử dụng TBDH ở cấp. Chia sẻ kinh nghiệm sử dụng
TBDH có hiệu quả để ứng dụng vào đổi mới phương pháp dạy và học, đồng thời đề
xuất giải pháp khai thác hiệu quả TBDH trong giai đoạn mới [94].
Trong công trình “Phương tiện dạy học”, tác giả Tô Xuân Giáp đã đưa ra
những cơ sở phân loại và phân loại PTDH, cách thức lựa chọn, thiết kế, chế tạo, sử
dụng PTDH và các điều kiện để đảm bảo sử dụng có hiệu quả PTDH. Theo tác giả,
PTDH được sử dụng đúng, có tác dụng làm tăng hiệu quả sư phạm của nội dung và
phương pháp dạy học lên rất nhiều [43].
Trong cuốn “Một số vấn đề lí luận và thực tiễn của việc xây dựng sử dụng
CSVC và TBDH ở trường phổ thông Việt Nam” (Trần Quốc Đắc, chủ biên) đã đưa ra
các quan điểm làm cơ sở cho việc sử dụng TBDH, xác định vị trí, vai trò của CSVC TBDH ở trường THPT [39].
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Quang, trong “Những khái niệm cơ bản
về lý luận quản lý giáo dục”, cho rằng PTDH là bao gồm mọi thiết bị kỹ thuật từ
đơn giản đến phức tạp được dùng trong quá trình DH để làm dễ dàng cho sự truyền

đạt và tiếp thu kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo [80]. Tác giả Nguyễn Văn Hộ trong công
trình “Lý luận dạy học”, đã nêu ý nghĩa, vai trò của PTDH trong hoạt động DH; đã
liệt kê các PTDH phổ biến được sử dụng trong các nhà trường PT hiện nay [50].


14
Trong công trình “Kiểm định chất lượng trong giáo dục đại học” tác giả
Nguyễn Đức Chính và các cộng sự đã trình bày cơ sở lý luận về đảm bảo và kiểm
định CL trong DH, đã ban hành bộ tiêu chí đánh giá CL và điều kiện ĐBCL. Trong
đó có tiêu chí về hạ tầng cơ sở, thông tin thư viện (TC21, 22). Bên cạnh đó các tác
giả đã đưa ra các phụ lục về các quy chuẩn xây dựng CSVC phục vụ đào tạo [28].
Tác giả Lê Khánh Tuấn (2009) cũng đã phân tích một số nội dung liên quan
đến QL PTDH khi thực hiện công tác dự báo và kế hoạch hóa trong QLGD [86].
Trong tài liệu “Lý luận dạy học”, tác giả Nguyễn Văn Tuấn (2009) đã trình
bày những cơ sở chung về PTDH, vai trò của các kênh thu nhận thông tin và các
biện pháp sử dụng PTDH nhằm tăng hiệu quả dạy học. Công trình “Thiết bị dạy học
và ứng dụng CNTT trong dạy học” của tác giả Lê Huy Hoàng (1998) đã nêu khái
quát chung về PTDH, trình bày về cách sử dụng thiết bị nghe nhìn có hiệu quả và
ứng dụng CNTT trong dạy học [51]. Trong đề tài “Sử dụng hiệu quả các thiết bị,
PTDH trong trường THCN - 2000”, tác giả Hồ Viết Lương đã trình bày các quan
điểm lý luận, giáo dục liên quan đến sử dụng hiệu quả, thực hiện điều tra thực trạng
về ảnh hưởng của các yếu tố khác nhau đến kết quả dạy học, từ đó đề xuất các giải
pháp nhằm hoàn thiện sử dụng PTDH tại các trường TCCN có hiệu quả [64].
Trong công trình “Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong thế kỷ XXI”,
tác giả Trần Khánh Đức đã cho rằng, PTDH nâng cao nhận thức nội dung dạy học
đối với người học, tạo cơ hội và điều kiện hỗ trợ cho họ tích cực, tự lực chiếm lĩnh
tri thức. Tuy nhiên vấn đề sử dụng và khai thác hiệu suất, hiệu quả của các phương
tiện kỹ thuật đặt lên vai các nhà sư phạm một trách nhiệm mới đòi hỏi người GV
phải có hiểu biết và năng lực khai thác hiệu quả công năng của phương tiện, thiết bị
để công nghệ hóa DH. Tác giả trình bày quan niệm về CL và CLGD, các tiêu chí

đánh giá; Bộ ISO 900:2000 và các nguyên tắc QLCL; các mô hình QL CLGD [40].
Trên các tạp chí khoa học, đã đăng tải nhiều bài viết của các nhà khoa học,
nhà QLGD, các nhà sư phạm viết về các vấn đề liên quan. Các tạp chí khoa học
như: tạp chí Giáo dục, tạp chí Khoa học Giáo dục, tạp chí Thiết bị giáo dục, các tạp
chí của các trường đại học, các cơ quan nghiên cứu,... đã đăng tải nhiều công trình
nghiên cứu lý luận về xây dựng hệ thống CSVC-TBGD nhằm nâng cao CLĐT, gắn
lý thuyết với thực hành, ĐT đáp ứng nhu cầu xã hội, theo tiêu chí ĐBCL hiện nay.
Với cách nhìn từ quan điểm ĐBCL của các cơ sở GD ĐH-CĐ, một số bài
viết đăng tải trong tạp chí khoa học đã khẳng định vai trò, vị trí của CSVC-TBGD
nói chung và PTDH nói riêng.


15
Tác giả Nguyễn Thái Bình, trong bài viết “Một số giải pháp nâng cao chất lượng
dạy nghề tại Trường cao đẳng nghề Tp.Hồ Chí Minh” [15], đã chỉ rõ, chương trình
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là chương trình cần tập trung thực hiện ở Tp. Hồ
Chí Minh. Tuy nhiên, để thực hiện được điều này ngoài việc đầu tư về CSVC, trang thiết
bị thực tập cũng như đội ngũ GV,… rất cần có những giải pháp mang tính khả thi của các
trường dạy nghề. Tác giả đi vào phân tích về một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy
nghề tại Trường CĐ nghề Tp. Hồ Chí Minh, trong đó có giải pháp tăng cường CSVC và
PTDH, nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy nghề nói chung, thực hiện đổi mới công
tác dạy nghề theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Các tác giả Nguyễn Văn Cường, Nguyễn Cẩm Thanh, trong bài viết “Môi
trường dạy học thực hành kĩ thuật theo quan điểm dạy học tương tác” [32], đã phân
tích quan niệm về môi trường dạy học theo quan điểm dạy học tương tác và đặc
điểm mỗi trường trong dạy học thực hành kỹ thuật. Từ đó, đưa ra các hạng mục
thiết kế môi trường dạy học thực hành kỹ thuật, theo quan điểm dạy học tương tác.
Môi trường học tập trong một lớp học không chỉ bao gồm những yếu tố như không
gian, thời gian, ánh sáng, trang thiết bị, phương tiện mà còn bao gồm: nội dung, tài
liệu, nhiệm vụ học tập, những phương pháp làm việc và hình thức tương tác của

giáo viên, học sinh. Môi trường dạy học tương tác hỗ trợ việc đổi mới cách học từ
bị động sang tích cực và tự lực của người học. Tác giả đã khẳng định vai trò của
PTDH trong việc dạy học thực hành kỹ thuật theo quan điểm tương tác.
Tác giả Bùi Thị Thu Hương, trong bài viết “Mục tiêu và chuẩn đầu ra trong
chương trình giáo dục đại học theo hướng tiếp cận phát triển năng lực người học”
[54], khẳng định, CLGD nói chung và CLGD đại học nói riêng phải được bắt đầu từ
việc thiết kế một chương trình; chương trình vừa là công cụ để đào tạo nguồn nhân lực
cho xã hội vừa là thước đo phát triển kinh tế - xã hội và cũng là thước đo trình độ phát
triển của khoa học GD trong thời kì đó. Trong cấu trúc của chương trình GD có các
thành tố: mục tiêu, chuẩn đầu ra, đây là thành tố quan trọng nhất quy định các thành tố
còn lại, vì mục tiêu của chương trình GD chính là một trong hai yếu tố để đánh giá CL
của chương trình đó. Tác giả cũng cho rằng, CSVC-TBGD là một trong những điều
kiện cần thiết để thực hiện mục tiêu, chuẩn đầu ra trong chương trình GDĐH.
1.1.2. Những kết quả nghiên cứu về quản lý phương tiện dạy học
1.1.2.1. Những kết quả nghiên cứu trên thế giới
Hội nghị Quốc tế về GD lần thứ 39 họp tại Giơnevơ (1984) cũng như nhiều
hội nghị về PTDH ở các nước XHCN đã khẳng định ngành giáo dục cần phải đổi


16
mới thường xuyên về mục đích, cấu trúc, nội dung, PTDH và phương pháp đào tạo
cho tất cả các người học có những cơ hội học tập. Tùy theo hoàn cảnh kinh tế, kỹ
thuật và xã hội tất cả các nước trên thế giới đều có khuynh hướng hoàn thiện CSVC,
PTDH nhằm phù hợp với sự đổi mới nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức
dạy học. Các nước có nền kinh tế phát triển đều quan tâm đến việc nghiên cứu, thiết
kế, sản xuất các PTDH hiện đại, đạt CL cao, cần thiết cho nhu cầu giáo dục.
Trong công trình "Phương tiện kỹ thuật dạy học và ứng dụng" tác giả đã đề
cập nhiều đến vị trí, vai trò, chức năng và các loại phương tiện kỹ thuật dạy học. Tài
liệu cũng đã nêu ra được những ứng dụng cụ thể, chi tiết của phương tiện kỹ thuật
dạy học trong quá trình dạy học. Tài liệu là cơ sở nghiên cứu cho lĩnh vực PTDH và

quản lý sử dụng PTDH ở nước ta trong một thời gian dài trước đây.
Từ cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, ở nhiều nước Châu Âu và Bắc Mỹ, do
kết quả của những thay đổi về dân số và sự ủng hộ chính trị đối với GDĐH đại trà
đã dẫn đến sự gia tăng rất đông số lượng SV. Chất lượng giáo dục bị ảnh hưởng do
CSVC có hạn. Chính phủ nhiều nước cho rằng “đầu tư ít, nhưng giảng dạy phải
nhiều và tốt”. Yêu cầu thỏa mãn các nhu cầu của hoạt động ĐT ngày càng gia tăng,
trong khi nguồn lực lại có giai đoạn suy giảm. Trong điều kiện đó, hiệu quả QL khai
thác các nguồn lực, hiệu suất sử dụng CSVC trở thành mối quan tâm chủ yếu của
nhiều trường ĐH. Việc cắt giảm chi tiêu ngân sách cùng với áp lực của các tổ chức
tài trợ cho nhà trường thậm chí đã thúc đẩy các cơ sở GD phải đặt rõ vấn đề xác
định xem những nhu cầu về diện tích sử dụng với các thiết bị kèm theo có xác đáng
hay không, từ đó có sự điều chỉnh hoạt động ĐT để tận dụng hiệu quả CSVC. Điển
hình cho quan điểm trên được thể hiện trong các công trình nghiên cứu của Bautista
O (1992), với việc chuyển đổi hệ thống một học kỳ sang ba học kỳ [105]; Hirsh E
(1990) với chiến lược nâng cao tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp và giảm bỏ học [106];
Lockwood G và Davies G (1985) với cơ chế khuyến khích điều tiết, chuyển đổi
CSVC giữa các khu vực trong nhà trường [107]. Đến thập niên 90, xu hướng giáo
dục đại trà lan đến các nước Châu Á, Châu Phi, Arập, Châu Mỹ La tinh. Cuộc khảo
sát của IIEP (International Institute for Educationnal Planning - UNESCO) năm
1995 chỉ ra rằng, ở nhiều nơi trên thế giới, các trường ĐH đã có nhiều giải pháp cải
tiến công tác qui hoạch, khai thác sử dụng CSVC phục vụ đào tạo [82].
Vào năm 1995, UNESCO đã tiến hành một cuộc khảo sát khá toàn diện về
hiệu quả khai thác diện tích sử dụng (diện tích hữu dụng và các thiết bị kèm theo)
của các trường ĐH nhiều khu vực, châu lục trên thế giới. Trong một công trình


17
nghiên cứu liên quan, tác giả Sanyal B.C (1995) đã trình bày khá cụ thể về tình hình
quản lý khai thác giảng đường, phòng học, phòng thí nghiệm, thực hành,… của một
số trường đại học ở Hoa Kỳ, Canada, Bỉ, Nga, Phần Lan, Hà Lan, Anh và Châu Mỹ

La tinh, đồng thời phân tích ưu nhược điểm của một số trường hợp [108].
Trong Hội thảo quốc tế tại Áo vào năm 1998 với chủ đề “ Nâng cao chất
lượng quản lý cơ sở vật chất hạ tầng giáo dục”, các đại biểu đều nhất trí rằng CSVC
có ảnh hưởng không chỉ tới kết quả học tập mà còn tác động tới sức khỏe, ý thức
của người dạy và người học. Tại Hội thảo, Ông Glen.J.Earthman thuộc Viện Nghiên
cứu Bách khoa Virginia (Mỹ) cho biết các kết quả nghiên cứu đã chứng minh mối
quan hệ giữa thành tích, hành vi của SV tới môi trường học tập. Một số yếu tố quan
trọng tác động tới việc học tập của SV là nhiệt độ, ánh sáng, không gian và PTDH
trong phòng. Theo đó, các CSVC chất lượng sẽ có CL sản phẩm GD cao hơn các
trường khác. Hàng năm, các nước thuộc tổ chức OECD (Tổ chức hợp tác và phát
triển kinh tế) đã dành ra hơn 5% tổng thu nhập quốc nội cho GD. Năm 2006, Ủy
ban Kỹ thuật Châu Âu đã thành lập các tiêu chuẩn quản lý CSVC và được áp dụng
tại tất cả các nước thuộc Liên minh Châu Âu
1.1.2.2. Những kết quả nghiên cứu ở Việt Nam về quản lý phương tiện dạy học
Nhà xuất bản Hà Nội đã xuất bản "Tài liệu khoá tập huấn của Dự án Việt
Úc" (2001) và "Quản lý và sử dụng nhằm tăng cường hiệu quả thiết bị dạy học"
(2006) đưa ra được một số phương pháp QL, khai thác, sử dụng CSVC, PTDH vào
giảng dạy để đạt hiệu quả cao [34].
Tác giả Đặng Quốc Bảo, với đề tài: “Các biện pháp quản lý của hiệu trưởng
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng CSVC - kỹ thuật phục vụ cho việc dạy và học ở
trường THPT công lập Tp. Hồ Chí Minh”, đã khảo sát và phân tích thực trạng QL
CSVC - kỹ thuật ở một số trường tại Tp. Hồ Chí Minh, từ đó đề xuất các biện pháp
quản lý của hiệu trưởng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng CSVC - kỹ thuật phục vụ
cho việc dạy và học ở trường THPT công lập tại Tp. Hồ Chí Minh. Tác giả đã nhìn
nhận vấn đề hiệu quả sử dụng nguồn lực CSVC trong phạm trù tổng thể về quản lý
nhà trường, dưới góc độ kinh tế - xã hội - sư phạm.
Công trình “Quản lý giáo dục” (Bùi Minh Hiền, chủ biên), đã đề cập đến các
vấn đề lí luận về vai trò của PTDH trong sự phát triển hệ thống giáo dục quốc dân,
phân loại các nhóm PTDH mà người quản lý cần bao quát và đưa ra một số nguyên tắc
và giải pháp QL PTDH ở các cơ sở giáo dục trong giai đoạn hiện nay [47].



18
Trong một đề tài nghiên cứu, tác giả Ngô Quang Sơn (2005) đã đề cập đến một
số biện pháp QL nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng thiết bị GD, ứng dụng CNTT và
truyền thông tại các Trung tâm GD thường xuyên và Trung tâm học tập cộng đồng.
Bằng việc giới thiệu công nghệ giáo dục kỹ thuật và dạy nghề (được dịch từ nguyên
bản tiếng Pháp “L'ingÐnierie de la formation professionnelle et technique”), dịch giả
Hoàng Ngọc Vinh (2009) [97] đã nêu lên vai trò của công tác tổ chức CSVC trong việc
xây dựng chương trình ĐT GD kỹ thuật và dạy nghề; hướng dẫn triển khai nội dung
thiết bị đào tạo theo mô phỏng trong môi trường chuyên nghiệp nhằm thực hiện đào
tạo kỹ thuật và dạy nghề dựa trên phương pháp tiếp cận theo năng lực.
Tác giả Phạm Hiền Lương, trong bài viết “Quản lí dạy học thực hành tại
Trường Cao đẳng Cảnh sát nhân dân I - thực trạng và giải pháp” [65], cho rằng,
QL DH thực hành là một nội dung rất quan trọng trong công tác QL ĐT tại Trường
CĐ Cảnh sát nhân dân I. Tuy nhiên, người học còn nhiều bỡ ngỡ, lúng túng, chưa
thành thạo về kỹ năng thực hiện các quy trình công tác nghiệp vụ cụ thể chuyên sâu
khi ra trường. Một trong những bất cập của quá trình ĐT dẫn đến những thiếu sót
tồn tại trên là do công tác QL DH thực hành. Tác giả đã làm rõ việc quán triệt nhận
thức cơ bản về QL DH thực hành; phân tích thực trạng công tác QL dạy thực hành
các chuyên ngành tại Trường CĐ Cảnh sát nhân dân I và những nguyên nhân của
hạn chế, yếu kém; đề xuất giải pháp tăng cường QL DH thực hành, trong đó cũng
đã khẳng định điều kiện CSVC- TBDH là yếu tố ĐBCL của việc dạy thực hành.
Trong thời gian qua, một số luận án tiến sĩ cũng đã nghiên cứu về đề tài quản
lý CSVC-TBGD, nghiên cứu về việc khai thác, sử dụng PTDH trong các cơ sở GD
từ phổ thông đến CĐ, ĐH. Một trong những đóng góp của các luận án chính là việc
trình bày, phân tích cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp quản
lý CSVC-TBGD trong các cơ sở GD hiện nay.
Trong luận án tiến sĩ QLGD của mình, tác giả Lê Đình Sơn với đề tài “Quản
lý cơ sở vật chất phục vụ đào tạo của trường đại học theo quan điểm quản lý chất

lượng tổng thể” đã nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về QL
CSVC phục vụ ĐT của trường ĐH khái quát một cách hệ thống những vấn đề cốt
lõi của quan điểm TQM. Từ đó đề xuất giải pháp vận dụng quan điểm TQM vào QL
CSVC phục vụ đào tạo của trường ĐH nước ta [82]. Tác giả Nguyễn Thị Hằng với
đề tài “Quản lý đào tạo nghề ở các trường dạy nghề theo hướng đáp ứng nhu cầu
xã hội” đã thực hiện khảo sát thực trạng QL các điều kiện ĐBCL ĐT với kết quả
khảo sát cho thấy, gần 50% các trường QL phát triển đội ngũ GV ở mức thấp; chỉ có


19
25,2% quản lý CSVC, thiết bị máy móc ở mức cao, gần 50% thực hiện QL ở mức
thấp. Từ công trình nghiên cứu này cho ta thấy một thực trạng cần được có giải
pháp khả thi cho công tác QL CSVC nói chung, PTDH nói riêng [45].
Tác giả Trần Minh Hùng (2013) với đề tài “Quản lý ứng dụng CNTT trong
dạy học ở trường trung học phổ thông”, tác giả đã làm rõ cơ sở lý luận việc ứng
dụng CNTT trong DH cần phải có các điều kiện đảm bảo như điều kiện về con
người, CSVC - thiết bị CNTT,... và để QL ứng dụng CNTT trong DH THPT đạt
hiệu quả, hiệu trưởng cần phải quản lý các nội dung chính như: Nâng cao trình độ
ứng dụng CNTT cho GV; QL các điều kiện hỗ trợ cho việc ứng dụng CNTT trong
dạy học,... Từ yêu cầu trên tác giả đã đánh giá thực trạng về công tác CSVC - thiết
bị CNTT ở các trường THPT tỉnh Đồng Nai và đưa ra biện pháp thực hiện [52].
Nguyễn Thanh Giang với đề tài “Quản lí ứng dụng CNTT ở trường trung học
phổ thông vùng Đông Nam Bộ”, tác giả đã nêu ra các nội dung QL ứng dụng công
nghệ thông tin (UDCNTT) chủ yếu hiện nay trong QLGD, trong đó có ứng dụng
CNTT trong QL CSVC-TBGD và thư viện; trong nội dung, phương pháp, phương
tiện QL UDCNTT phải có yếu tố quản lý của nguồn tài lực và vật lực, nó là phương
tiện tất yếu để thực hiện mục đích UDCNTT một cách QL lý này. Trên cơ sở lý
luận, tác giả đã đánh giá thực trạng CSVC-TBGD về CNTT ở các trường THPT
vùng Đông Nam Bộ. Từ đó đưa ra giải pháp phát triển các điều kiện và nguồn lực
đảm bảo cho hoạt động ứng dụng CNTT ở trường THPT, trong giải pháp này chủ

yếu là xây dựng hệ thống CSVC-TBGD về CNTT, đảm bảo nguồn lực tài chính đáp
ứng yêu cầu của ứng dụng CNTT trong dạy học và quản lý ở trường THPT [42].
1.1.3. Đánh giá chung kết quả nghiên cứu về quản lý phương tiện dạy và vấn đề
tiếp tục nghiên cứu
1.1.3.1. Những kết quả đã được khẳng định và bài học của thành công
Như vậy, việc quản lý PTDH nói chung và PTDH ở trường cao đẳng là một
vấn đề quan trọng trong nhiều công trình về QLGD, quản lý nhà trường. Các kết
quả nghiên cứu được tiếp cận từ nhiều phương diện, cách nhìn khác nhau, tùy thuộc
vào quan điểm riêng của nhà nghiên cứu, thời gian và triết lý giáo dục của mỗi quốc
gia. Mặc dù vậy, vẫn có nhiều điểm thống nhất về những vấn đề cơ bản về QL
PTDH trong hoạt động GD-ĐT. Có thể nói, các nghiên cứu về PTDH dù ở trong và
ngoài nước, đã đề cập một cách toàn diện về những vấn đề cơ bản:
- Khẳng định vai trò, vị trí của PTDH trong GD-ĐT, ở trường THPT, TCCN,
CĐ và ĐH. Đó là một quy luật biện chứng của quá trình nhận thức, quá trình hình


20
thành và phát triển năng lực cho người học. PTDH là một yếu tố, điều kiện ĐBCL
để nâng cao CL GD-ĐT nói chung và phát triển nguồn nhân lực nói riêng. Bài học
rút ra là nghiên cứu để quản lý hiệu quả PTDH là một nội dung tất yếu của hoạt
động giáo dục và trong quá trình cải tiến công tác quản lý phải tôn trọng các quy
luật khách quan, tuyệt đối không chủ quan, duy ý chí.
- Các kết quả nghiên cứu đã đề cập đến những vấn đề về nội dung, chất
lượng của PTDH ở các cấp học, ngành học, chương trình dạy học để đảm bảo cho
PTDH phát huy tác dụng trong việc cung cấp tri thức, rèn luyện kỹ năng, giáo dục
nhân cách ở các đối tượng, hoàn cảnh khác nhau. Như vậy, nghiên cứu về PTDH và
QL PTDH phải đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với nội dung dạy học, phương pháp
dạy học và hướng đến đạt được các mục tiêu của quá trình dạy học.
- Các nghiên cứu đề cập nhiều đến công tác quản lý, sử dụng, khai thác
PTDH với tư cách là một nội dung hoạt động quản lý các trường học. Nhiều nghiên

cứu để đề xuất những giải pháp, biện pháp để phát huy hiệu quả công tác QL PTDH
từ việc xây dựng kế hoạch, đầu tư mua sắm, khai thác, bảo quản,… Những đề xuất
ấy thể hiện bản chất của quy trình QLGD nói chung và việc QL PTDH ở nhà trường
nói riêng. Đây là những tiền đề để xây dựng quy trình QL PTDH ở các trường
CĐKT-KT theo tiếp cận ĐBCL GD hiện nay.
- Một số công trình nghiên cứu đã đề cập đến các điều kiện đảm bảo của
quản lý công tác PTDH, xem đó như là một yếu tố trong tổng thể các mối quan hệ
trong công tác QL PTDH. Điều này khẳng định mối quan hệ ràng buộc có tính hệ
thống về PTDH với các yếu tố của quá trình đào tạo. Vì vậy, trong quá trình QL
PTDH ở các trường CĐKT-KT theo tiếp cận ĐBCL GD, không thể chủ quan, duy ý
chí mà phải dựa trên những điều kiện cần thiết, cụ thể.
- Gần đây, một số công trình nghiên cứu đã đề cập đến QL PTDH như là một
yếu tố, biện pháp để thực hiện ĐBCL GD. Đây là cách tiếp cận mang tính khoa học,
hiện đại, cập nhật với những yêu cầu đổi mới GD-ĐT hiện nay. Chính cách tiếp cận
QL PTDH như là một yếu tố của điều kiện ĐBCL GD sẽ làm cho các trường
CĐKT-KT khai thác, sử dụng PTDH đúng mục tiêu, có chất lượng và hiệu quả hơn.
Có thể nói, những kết quả nghiên cứu về QL PTDH đã đóng góp những nội
dung quan trọng về lý luận và thực tiễn của QLGD, quản lý trường học, QL PTDH
nhằm nâng cao CLĐT. Tuy nhiên, trong bối cảnh đổi mới GD-ĐT hiện nay, việc QL
PTDH nói chung, đặc biệt là QL PTDH ở các trường CĐKT-KT đáp ứng yêu cầu
ĐBCL đang còn những vấn đề cần phải tiếp tục giải quyết. Đây chính là lý do để


21
tiếp tục nghiên cứu, đề xuất các biện pháp QL PTDH ở các trường CĐKT-KT, nhằm
đáp ứng yêu cầu đổi mới đào tạo hiện nay.
1.1.3.2. Những vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu
QL PTDH là một yêu cầu chung của QLGD, quản lý nhà trường. Tuy nhiên,
vấn đề QL PTDH ở các trường CĐKT-KT, một loại hình cơ sở đào tạo có những
đặc trưng riêng về sử dụng CSVC và TBDH, cần phải được làm sáng tỏ, cụ thể hơn.

Chỉ có như vậy, khi đề xuất biện pháp đổi mới công tác QL PTDH, các biện pháp ấy
mới có tính khả thi, tính hiệu quả cho các trường CĐKT-KT. Điều này đặt ra yêu
cầu lựa chọn những vấn đề lý luận phải phù hợp với đặc điểm của trường CĐKTKT, có như vậy mới giải quyết được vấn đề nghiên cứu một các thấu đáo, từ đó mới
đề xuất được biện pháp quản lý khoa học, khả thi.
Chất lượng, hiệu quả QL PTDH ở các trường CĐKT-KT được định lượng,
định tính như thế nào để có tính hệ thống, khoa học, không mang tính chất chủ
quan, phiến diện. Để ĐBCL GD thì PTDH cần phải có những tiêu chí cần đảm bảo
nào? Và làm sao các trường đáp ứng được các tiêu chí trên? Nói cách khác, cần phải
xây dựng được hệ thống các tiêu chí đánh giá CL PTDH ở các trường CĐKT-KT và
những biện pháp cụ thể để đáp ứng được các tiêu chí ấy một cách nhanh chóng, bền
vững. Vì vậy, để làm tốt công tác QL PTDH ở các trường CĐKT-KT theo tiếp cận
ĐBCL GD, cần xây dựng được một hệ thống tiêu chí làm cơ sở xác lập hệ thống lý
luận, khảo sát thực trạng và đề xuất biện pháp quản lý.
Một vấn đề quan trọng mà các công trình nghiên cứu trước đây chưa đề cập
đến nhiều chính là việc QL PTDH ở các trường CĐKT-KT theo tiếp cận ĐBCL GD.
Đổi mới đào tạo, đổi mới công tác phát triển nguồn nhân lực phải chú ý tới các tiêu
chí, các điều kiện ĐBCL. Vì vậy, đây là một vấn đề cần phải được nghiên cứu đầy
đủ, hệ thống về QL PTDH ở các trường CĐKT-KT, phù hợp với bối cảnh phát triển
của khoa học kỹ thuật, của yêu cầu cao về chất lượng nhân lực hiện nay. Vì vậy, cần
phải làm rõ những vấn đề liên quan (khái niệm, nội dung, các yếu tố liên quan,..)
của tiêu chí, điều kiện ĐBCL GD trong việc QL PTDH ở các trường CĐKT-KT.
Vấn đề cơ bản nhất là phải đề xuất được hệ thống các biện pháp QL PTDH ở
các trường CĐKT-KT theo tiếp cận ĐBCL GD được nhìn nhận từ quan điểm của
quản lý nhà trường, QLGD. Các biện pháp QL PTDH ở các trường CĐKT-KT theo
tiếp cận ĐBCL GD phải dựa trên những nguyên tắc nhất định, phải được cụ thể hóa
về mục tiêu, nội dung, cách thức thực hiện, phải được kiểm chứng trong thực tiễn


22
hoạt động của các trường CĐKT-KT. Trên cơ sở đó, mới có thể kiến nghị với các

cấp quản lý về đổi mới công tác TBDH ở các trường CĐKT-KT hiện nay. Trên cơ
sở lý luận và thực tiễn, cần phải đề xuất được các biện pháp có tính cần thiết, khả
thi, hiệu quả trong việc QL PTDH theo tiếp cận ĐBCL GD ở trường CĐKT-KT.
Quản lý PTDH đáp ứng yêu cầu ĐBCL ở các trường CĐKT-KT là một vấn
đề quan trọng, cần thiết, có vị trí quan trọng trong việc nâng cao chất lượng phát
triển nguồn nhân lực hiện nay. Vấn đề này đã được các nhà khoa học trong và ngoài
nước nghiên cứu, đã có những kết quả quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Tuy nhiên, trong bối cảnh đổi mới hiện nay, sự phát triển của khoa học kỹ thuật,
những nghiên cứu nói trên chưa đề cập đến những vấn đề có tính cấp thiết, cụ thể.
Chính vì vậy, trên cơ sở tiếp thu những kết quả nghiên cứu trước đây, bám sát vào
những cơ sở lý luận và thực trạng QL PTDH, cần phải đề xuất các biện pháp QL
PTDH theo tiếp cận ĐBCL GD.
1.2. Các khái niệm công cụ
1.2.1. Phương tiện và phương tiện dạy học
1.2.1.1. Phương tiện
Phương tiện vừa nói lên sự hàm chứa, tính vị trí, vừa có chức năng chuyển
giao, liên kết trong quan hệ giữa người gửi và người nhận. Như vậy, phương tiện là
một cấu trúc chứa đựng và thể hiện các tín hiệu nhằm chuyển giao nội dung nhất
định giữa người gửi và người nhận bằng hệ thống các tín hiệu thông qua các giác
quan cảm nhận của con người.
1.2.1.2. Phương tiện dạy học
Hiện nay, có nhiều tên gọi khác nhau về liên quan đến PTDH. Các tên gọi
sau đây thường được sử dụng trong ngôn ngữ nói và viết: thiết bị giáo dục
(educational equipments), thiết bị trường học (school equipments), đồ dùng dạy học
(aids equipments), thiết bị dạy học (teaching equipments), dụng cụ dạy học (devices
equipments), phương tiện dạy học (means/facilities of teaching), học liệu (learning/
school materials),... Các khái niệm nói trên được xác định từ những cách nhìn nhận
cụ thể nhưng đều liên quan đến các vật chất phục vụ hoạt động giáo dục và dạy học.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận án, xin được tiếp cận theo tên gọi là PTDH.
PTDH là một vật thể hoặc một tập hợp các vật thể mà người dạy sử dụng trong quá

trình dạy học để nâng cao hiệu quả của quá trình này, giúp người học lĩnh hội khái
niệm, định luật,... hình thành các tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, thái độ cần thiết [87].


23
PTDH là toàn bộ những trang thiết bị, đồ dùng, dụng cụ được sử dụng phục
vụ trực tiếp cho việc giảng dạy, học tập và các hoạt động khác trong nhà trường. Ví
dụ: hệ thống tăng âm, loa, micro; ti vi và các đầu đọc VIDEO, VCD, DVD; các loại
máy chiếu phim dương bản, máy chiếu qua đầu, máy chiếu đa phương tiện, máy vi
tính; các loại tranh, ảnh, tranh giáo khoa, bản đồ, bảng biểu; các loại mô hình, vật
thật; các dụng cụ, thiết bị thí nghiệm; máy móc, thiết bị, dụng cụ dạy học thực
hành... Trong một số trường hợp, người ta coi tất cả các phương tiện kể trên cũng
thuộc về CSVC của trường học. Một cách hiểu khác, xem PTDH bao gồm mọi thiết
bị kỹ thuật từ đơn giản đến phức tạp được dùng trong quá trình dạy học để làm dễ
dàng cho sự truyền đạt và tiếp thu kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo [80].
PTDH bao gồm sách giáo khoa, sách tham khảo, tranh, ảnh, phương tiện
nghe nhìn, đồ dùng dạy học, các vật tự nhiên và các phương tiện, thiết bị kỹ thuật
được đưa vào phục vụ cho quá trình dạy - học. Như vậy, có thể coi PTDH gồm thiết
bị giáo dục và các phương tiện kỹ thuật hữu hình hoặc vô hình (các phần mềm dạy
học, bài học điện tử; thiết bị thực hành ảo, thí nghiệm ảo; kho tư liệu, tài liệu, học
liệu điện tử,…) khác phục vụ cho quá trình DH và GD của nhà trường [86].
Ngoài ra còn có rất nhiều cách hiểu, cách quan niệm khác nhau về PTDH:
- PTDH là những đối tượng vật chất giúp cho người dạy và người học tổ
chức có hiệu quả quá trình DH nhằm đạt được mục đích dạy học. Nhờ những đối
tượng vật chất này, người dạy tiến hành tổ chức, điều khiển quá trình dạy học giúp
người học tự tổ chức hoạt động nhận thức của mình một cách có hiệu quả [50].
PTDH là tập hợp những đối tượng vật chất được người dạy sử dụng với tư cách là
những phương tiện tổ chức, điều khiển hoạt động nhận thức của người học, thông
qua đó mà thực hiện những nhiệm vụ dạy học [56]. PTDH là một cấu trúc chứa
đựng và thể hiện các tín hiệu hàm chứa đầy đủ những ý định của người dạy và nó có

thể được sử dụng hoặc chọn lựa nhằm chuyển tải, truyền đạt nội dung đến người
học và nhằm liên kết giữa dạy - học và nội dung theo mục tiêu và phương pháp
cũng như hoạch định ban đầu của người dạy [39].
- Theo quan điểm giáo dục học, PTDH là đại diện khách quan của đối
tượng nhận thức ẩn chứa trong đó đầy đủ những ý định, hoạch định ban đầu cả về
nội dung truyền đạt, phương pháp truyền đạt của người dạy và lĩnh hội của người
học. PTDH là một tập hợp những đối tượng vật chất được người dạy sử dụng với
tư cách là những phương tiện điều khiển hoạt động nhận thức của người học. Đối


24
với người học, phương tiện còn là nguồn tri thức phong phú để lĩnh hội tri thức,
rèn luyện kỹ năng.
- TBDH hay còn gọi là đồ dùng dạy học, PTDH, thiết bị giáo dục, học cụ,...
là tất cả những phương tiện vật chất cần thiết giúp cho GV, HS tổ chức và tiến hành
hợp lý, có hiệu quả quá trình giáo dưỡng và giáo dục ở các môn học, cấp học [43].
- PTDH là tập hợp những đối tượng vật chất được giáo viên sử dụng với tư
cách là những phương tiện tổ chức, điều khiển hoạt động nhận thức của học sinh và
đối với học sinh, đó là phương tiện để tiến hành hoạt động nhận thức của mình,
thông qua đó mà thực hiện nhiệm vụ dạy học. PTDH là tập hợp những đối tượng vật
chất và tinh thần được giáo viên sử dụng để điều khiển hoạt động nhận thức của học
sinh và đối với học sinh đó là nguồn tri thức trực quan sinh động, là công cụ để rèn
luyện kỹ năng kỹ xảo [57].
Từ những phân tích trên, trong luận án này, khái niệm PTDH được hiểu như
sau: PTDH là nguồn tài nguyên, thông tin, thiết bị kỹ thuật, đồ dùng, dụng cụ,...
được sử dụng phục vụ cho việc giảng dạy và học tập; là phương tiện giúp dễ dàng
cho sự truyền đạt của người dạy; tiếp thu kiến thức, hình thành kỹ năng và phát
triển tư duy của người học.
1.2.2. Quản lý và quản lý phương tiện dạy học
1.2.2.1. Quản lý

Trong lý luận quản lý, khái niệm quản lý đã được các nhà nghiên cứu đưa ra
theo nhiều cách khác nhau, tùy theo những cách tiếp cận khác nhau.
Các nhà nghiên cứu lý luận Liên bang Nga cho rằng: “Quản lý một hệ thống
xã hội, là khoa học, là nghệ thuật tác động vào hệ thống, chủ yếu là vào con người,
nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế - xã hội nhất định” hay “Quản lý là tính
toán sử dụng hợp lí các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài chính) nhằm thực hiện tốt
các nhiệm vụ bởi kết quả tối ưu về kinh tế - xã hội” [55].
Các tác giả nghiên cứu quản lý khác cũng có những định nghĩa quản lý rất cụ
thể như: “Quản lý chính là dự báo, lập kế hoạch, tổ chức, điều khiển, phối hợp và
kiểm tra” hay “Quản lý là một hoạt động thiết yếu đảm bảo phối hợp những nỗ lực
cá nhân nhằm đạt được những mục tiêu của nhóm. Mục tiêu của mọi nhà quản lý là
hình thành một môi trường mà con người có thể đạt được các mục đích của nhóm
với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn ít nhất. Với tư cách thực hành thì
quản lý là nghệ thuật, còn kiến thức có tổ chức thì quản lý là khoa học” [56].
Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu cũng có nhiều khái niệm khác nhau về QL:


×