Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Ca khúc của nhạc sĩ huy thục trong dạy học cho giọng nữ cao hệ trung cấp thanh nhạc trường đại học văn hóa nghệ thuật quân đội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.73 MB, 121 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG

PHAN THỊ PHƯỢNG

DẠY HỌC CA KHÚC CỦA NHẠC SĨ HUY THỤC
CHO GIỌNG NỮ CAO HỆ TRUNG CẤP TẠI TRƯỜNG
ĐẠI HỌC VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUÂN ĐỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC ÂM NHẠC
Khóa 7 (2016 - 2018)

Hà Nội, 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG

PHAN THỊ PHƯỢNG

DẠY HỌC CA KHÚC CỦA NHẠC SĨ HUY THỤC
CHO GIỌNG NỮ CAO HỆ TRUNG CẤP TẠI TRƯỜNG
ĐẠI HỌC VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUÂN ĐỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học âm nhạc
Mã số: 8140111

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Văn Toàn


Hà Nội, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả, trích dẫn trong luận văn là đầy đủ, chính xác và trung thực. Những ý
kiến khoa học được đề cập trong luận văn chưa được ai công bố ở bất kỳ
nơi nào khác. Nếu có điều gì trái với lời cam đoan tôi xin hoàn toàn chịu
trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 02 tháng 11 năm 2018
Tác giả luận văn

Phan Thị Phượng


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ĐHVH NTQĐ

Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân Đội

GS

Giáo sư

GV

Giảng viên

HV


Học viên

KHXH

Khoa học xã hội

NGND

Nhà giáo nhân dân

NSND

Nghệ sĩ nhân dân

NSUT

Nghệ sĩ ưu tú

Nxb

Nhà xuất bản

PGS

Phó giáo sư

Tr

Trang


TS

Tiến sĩ

VN

Việt Nam


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ............................................... 7
1.1. Giới thuyết khái niệm................................................................................. 7
1.1.1. Thanh nhạc .............................................................................................. 7
1.1.2. Dạy học ................................................................................................... 8
1.1.3. Dạy học thanh nhạc ............................................................................... 10
1.1.4. Phương pháp dạy học thanh nhạc ......................................................... 11
1.1.5. Giọng nữ cao ......................................................................................... 12
1.2. Đặc điểm ca khúc của Huy Thục viết cho giọng nữ cao ......................... 12
1.2.1. Sơ lược về nhạc sĩ Huy Thục ................................................................ 12
1.2.2. Cấu trúc tác phẩm tiêu biểu................................................................... 15
1.2.3. Giai điệu ................................................................................................ 20
1.3. Thực trạng việc dạy và học thanh nhạc hệ Trung cấp tại trường
Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội ........................................................... 22
1.3.1. Vài nét về trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội .................... 22
1.3.2. Đội ngũ giảng viên thanh nhạc ............................................................. 29
1.3.3. Thực trạng việc dạy và học thanh nhạc hệ trung cấp............................ 32
Tiểu kết ............................................................................................................ 41
Chương 2: BIỆN PHÁP DẠY HỌC CA KHÚC CỦA NHẠC SĨ
HUY THỤC CHO GIỌNG NỮ CAO HỆ TRUNG CẤP TRƯỜNG

ĐẠI HỌC VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUÂN ĐỘI .................................... 43
2.1. Một số biện pháp luyện tập ...................................................................... 43
2.1.1. Tư thế ca hát của giọng nữ caoh ........................................................... 43
2.1.2. Cách đặt vị trí âm thanh ........................................................................ 45
2.1.3. Khẩu hình của giọng nữ cao.................................................................. 46
2.1.4. Luyện tập hơi thở cho giọng nữ cao ..................................................... 49
2.1.5. Luyện tập một số kĩ thuật đặc thù của giọng nữ cao ............................ 53


2.2. Ứng dụng thực hành luyện tập với các ca khúc của Huy Thục ............... 56
2.2.1. Với ca khúc "Tiếng đàn Ta Lư" ............................................................ 56
2.2.2. Với ca khúc “Trăng Khuyết” ................................................................ 61
2.2.3. Với ca khúc “Tiếng hát trên đường quê hương” ................................... 65
2.3. Thực nghiệm Sư phạm ............................................................................. 69
2.3.1. Mục đích thực nghiệm .......................................................................... 69
2.3.2. Yêu cầu.................................................................................................. 69
2.3.3. Đối tượng .............................................................................................. 69
2.3.4. Nội dung ................................................................................................ 69
2.3.5. Kết quả thực nghiệm ............................................................................. 71
Tiểu kết ............................................................................................................ 72
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 73
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 76
PHỤ LỤC ........................................................................................................ 79


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trường Đại học VHNT Quân đội là một đơn vị thuộc Tổng cục
chính trị - Bộ Quốc phòng Việt Nam, là trường Đại học chuyên đào tạo các

văn nghệ sĩ biểu diễn, nhạc sĩ sáng tác, biên đạo múa chuyên nghiệp... cho
quân đội và đất nước. Là ngôi trường có bề dày truyền thống, nơi ươm
mầm và chắp cánh cho nhiều tài năng nghệ thuật, đặc biệt là lĩnh vực thanh
nhạc vói nhiều tên tuổi của thế hệ các nghệ sĩ lão thành như: Tường Vi,
Ngọc Dậu, Quốc Hương, Thanh Huyền, Linh Nhàm, Hoàng Chè, Dương
Minh Đức, Bích Việt, Rơ Chăm Phi ang... và gần đây là thế hệ các nghệ sĩ
trẻ như: Hồ Quỳnh Hương, Kasim Hoàng Vũ, Văn Mai Hương, Hoàng
Quyên, Nguyễn Phương Mai...
Là một giảng viên trực tiếp giảng dạy tại khoa Thanh nhạc của
Trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội, tiếp nối nhiệm vụ, mục tiêu
đào tạo nên các thế hệ học viên vừa hồng vừa chuyên để phục vụ đất nước,
chúng tôi luôn ưu tiên sử dụng các ca khúc cách mạng (trong đó không thể
thiếu vắng các ca khúc của Huy Thục) để giảng dạy, học tập. Tuy nhiên,
thực tế từ học tập đến giảng dạy ở các cơ sở đào tạo chính quy về âm nhạc
nói chung và trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật quân đội nói riêng, tác
giả luận văn nhận thấy một thực trạng phổ biến, đó là: việc vận dụng các
sáng tác của nhạc sĩ Huy Thục để rèn luyện nâng cao chất giọng nữ cao còn
ít và còn nhiều hạn chế.
Với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu
cầu thực tiễn của ngành và của xã hội, đồng thời xuất phát từ sự say mê các
sáng tác âm nhạc của Huy Thục, chúng tôi lựa chọn đề tài “Ca khúc của
nhạc sĩ Huy Thục trong dạy học cho giọng nữ cao hệ Trung cấp Thanh
nhạc Trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội” làm đối tượng
nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lí luận và phương pháp dạy
học Âm nhạc.


2
2. Lịch sử nghiên cứu
Qua quá trình nghiên cứu tài liệu và khảo sát thực tiễn, chúng tôi nhận

thấy các công trình nghiên cứu, bài viết chuyên khảo liên quan trực tiếp
đến đề tài còn rất ít ỏi, thậm chí là chưa được đề cập, nghiên cứu. Từ những
tư liệu bao quát được, chúng tôi thực hiện việc nghiên cứu “lịch sử vấn đề”
trên các bình diện sau đây:
2.1. Tình hình nghiên cứu các ca khúc của nhạc sĩ Huy Thục
Cho đến thời điểm này, chưa một công trình chuyên khảo nghiên cứu
về sáng tác ca khúc cho giọng nữ cao của Huy Thục được xuất hiện. Một số
bài viết tuy được in trong các Tuyển tập âm nhạc hoặc qua các lời giới
thiệu gắn liền với các ca khúc nổi tiếng của nhạc sĩ nhưng chưa thật tương
xứng với tầm vóc cũng như cống hiến lớn lao của ông cho nền âm nhạc
quốc gia. Tuy nhiên, qua một số bài viết được chúng tôi bao quát được từ
cuốn sách Nhạc sĩ Việt Nam hiện đại đã phác họa sơ lược sự nghiệp sáng
tác của ông, những đề tài tiêu biểu, những thành công mang tính dấu ấn,
những hình tượng âm nhạc nổi bật.
Đáng chú ý là một số nhận định sau đây: “Những năm tháng chiến
tranh chống Mỹ gian khổ, Huy Thục sáng tác nhiều ca khúc đặc sắc về
người lính, về miền Nam yêu thương. Trong đó, nhiều ca khúc của ông đã
đi vào đời sống xã hội mạnh mẽ” [24; tr. 248].
Nhạc sĩ Tân Huyền đã khái quát rất ngắn gọn hành trình âm nhạc của
Huy Thục: “Trên hành trình đi tìm cho mình một phong cách riêng, một cá
tính riêng trong âm nhạc, Huy Thục đã chọn con đường lăn lộn trong cuộc
sống với nhân dân, bộ đội và từ đó rút ra những tinh hoa của âm nhạc dân
gian để tái tạo trong cuộc sống của mình - đây là con đường đã giúp anh
gặt hái những thành công rực rỡ” [24; tr. 238]. Đồng thời, ông cũng đã
đánh giá rất cao ca khúc Bác đang cùng chúng cháu hành quân: “Hùng


3
tráng, say đắm và rạo rực tình yêu tuổi trẻ mãi mãi là một bông hoa đầy
hương sắc trong kho tàng hành khúc Việt Nam” [24; tr. 239].

Cô gái Pa-kô và Tiếng đàn Ta Lư tuy cùng chung cảm hứng và hình
tượng âm nhạc nhưng mỗi bài mỗi vẻ mười phân vẹn mười. Người con gái
dân tộc trong đấu tranh cách mạng được khắc chạm sinh động, giai điệu với
tiết tấu nhanh, sôi nổi như hối thúc từng đoàn người giải phóng tiến nhanh,
tiến mạnh, tiến vững chắc ra chiến trường. Nhạc sĩ Trương Quang Lục đã
bình luận cô đọng mà sâu sắc rằng: “Bài Tiếng đàn ta lư của Huy Thục ra
đời ngay tại chiến trường, thể hiện niềm vui của bà con Vân Kiều mừng
chiến thắng của quân dân ta. Ngôn ngữ âm nhạc mang màu sắc núi rừng,
chất phác, gần với ngữ điệu giọng nói Vân Kiều” [18; tr.2]. Ở một góc độ
khác nhà báo Võ Thế Hùng nhấn mạnh: “Huy Thục ca ngợi các thiếu nữ
Vân Kiều, tuy vất vả, gian nan, gùi gạo nặng trĩu trên vai, đói thì uống
nước suối, ăn rau rừng, chứ không tơ hào đến một hạt gạo của cách mạng.
Không sức mạnh tàn bạo nào dập tắt được niềm lạc quan của người thiếu
nữ Vân Kiều đi tiếp lương tải đạn. Sự thật ấy, tâm sự ấy, Huy Thục gói
ghém vào cả một tiếng đàn, một khí phách quật cường, quyết thắng” [8;
tr.17]. Đây là những nhận xét quan trọng, mang đến những gợi ý quý cho
tác giả luận văn khi thực hiện đề tài nghiên cứu.
2.2. Tình hình nghiên cứu về giọng nữ cao
Giọng nữ cao (Soprano) là một trong những nội dung quan trọng của
hệ thống phân loại giọng hát trong thanh nhạc gắn với lí thuyết âm nhạc
thính phòng cổ điển Châu Âu. Về cơ bản giọng hát chia làm 4 giọng
chính: Bass, Tenor, Contralto và Soprano. Đây cũng chính là 4 bè của một
dàn hợp xướng. Tuy nhiên về sau trong Opera do nhu cầu đa dạng hoá các
nhân vật với nhiều tính cách khác nhau nên trong Opera giọng hát được
phân chia một cách cụ thể hơn, gồm có 6 giọng: Bass, Baritone, Tenor,
Contralto, Mezzo-soprano và Soprano. Trong mỗi loại giọng lại chia ra làm


4
nhiều loại tuy theo âm sắc và âm vực. Trên cơ sở tue liệu nghiên cứu thu

thập được của quốc tế và trong nước như:
- Phương pháp Thanh nhạc thực hành của Nicola Vaccaj. Khoa
Thanh nhạc, nhạc viện Hà Nội.
- Phương pháp giảng dạy Thanh nhạc của GS. NSND Nguyễn
Trung Kiên, Viện âm nhạc. Cuốn sách có nội dung về các quy trình,
phương pháp, nguyên tắc dạy hát, các kĩ thuật cơ bản về hơi thở, khẩu
hình; hát legato, staccato, xử lý sắc thái to, nhỏ...
- Phương pháp dạy Thanh nhạc của Nhà giáo ưu tú Hồ Mộ La. Nxb Từ
điển bách khoa. Giáo trình có nội dung về các vấn đề của bộ máy phát âm,
vấn đề cộng minh, các kỹ thuật thanh nhạc cơ bản, phát âm tiếng Việt...
- Năm 2011, Trần Ngọc Lan xuất bản cuốn Phương pháp hát tốt
tiếng Việt trong nghệ thuật ca hát, Nxb giáo dục Việt Nam. Trong cuốn
này, tác giả đã đi sâu phân tích những đặc điểm của tiếng Việt trong nghệ
thuật hát dân tộc và nghệ thuật hát mới, luận án mang tính lý luận về sự
phối hợp của hai phạm trù ngôn ngữ và nghệ thuật ca hát. Mặc dù không
nghiên cứu về giọng nữ cao nhưng đây cũng là công trình liên quan đến
thanh nhạc rất cần thiết để đề tài của chúng tôi tham khảo.
- Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lý luận và Phương pháp dạy học
âm nhạc Trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương của tác giả
Phạm Thị Kim Thoa năm 2016 với đề tài Rèn luyện kỹ thuật thanh nhạc
cho giọng nữ cao hệ trung cao hệ Trung cấp Trường Đại học Văn hóa
Nghệ thuật Quân đội.
- Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lý luận và Phương pháp dạy học
âm nhạc Trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương của tác giả
Nguyễn Thị Hương Giang năm 2016 với đề tài Dạy học ca khúc mang âm
hưởng dân gian của nhạc sĩ An Thuyên tại Trường Đại học Văn hóa Nghệ
thuật Quân đội.


5

Những công trình nghiên cứu trên đây là tài liệu vô cùng quý giá đã
giúp tôi tích lũy được những kinh nghiệm cần thiết để thực hiện đề tài.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nhằm nâng cao trình độ kỹ thuật thanh nhạc, khả năng thể hiện biểu cảm
tốt tác phẩm, thẩm mỹ âm nhạc cho học viên giọng nữ cao khi biểu diễn
các tác phẩm tiêu biểu của nhạc sĩ Huy Thục.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những đặc trưng cơ bản của giọng nữ cao.
- Khảo sát, nghiên cứu thực trạng dạy học thanh nhạc cho giọng nữ
cao tại Trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội.
- Đề xuất một số biện pháp pháp rèn luyện kĩ thuật thanh nhạc cho
giọng nữ cao hệ trung cấp Trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội
thông qua một số tác phẩm tiêu biểu của Huy Thục.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Giọng nữ cao và các ca khúc của nhạc sĩ Huy Thục trong dạy học
thanh nhạc giọng nữ cao hệ trung cấp thanh nhạc Trường Đại học Văn hóa
Nghệ thuật Quân đội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu phương pháp dạy học thanh nhạc cho giọng nữ cao.
Nghiên cứu khả năng khai thác và vận dụng kĩ thuật thanh nhạc của
giọng nữ cao nhằm nâng cao kỹ thuật trong nghệ thuật ca hát cho giọng nữ
cao hệ trung cấp thanh nhạc như: hát liền giọng, hát âm nảy, hát lướt
nhanh, hát to dần, hát ngắt tiếng… vào việc xử lí các sáng tác của nhạc sĩ
Huy Thục.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện tốt đề tài này, tác giả luận văn dự định sử dụng phối
hợp các phương pháp nghiên cứu sau đây:



6
- Phương pháp tra cứu tài liệu: Để hoàn thiện luận văn của mình tác
giả đã sử dụng, tìm hiểu và nghiên cứu các công trình khoa học có liên
quan. Phương pháp tra cứu tài liệu giúp tác giả có được cái nhìn chung nhất
về đời sống văn hóa, từ đó rút ra những kết luận cần thiết.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Là phương pháp yêu cầu tác giả

cần tìm hiểu, phân tích tổng hợp các tài liệu liên quan để từ đó chắt lọc
những thông tin để xây dựng, hoàn thiện nội dung của đề tài .
- Phương pháp thực nghiệm.
6. Những đóng góp của luận văn
Đề tài cung cấp thêm cơ sở lí luận và thực trạng trong dạy học thanh
nhạc hệ trung cấp cho giảng viên chuyên ngành thanh nhạc qua một số tác
phẩm tiêu biểu của Huy Thục.
Sưu tầm, tổng hợp phân tích tư liệu, đánh giá thực trạng việc rèn
luyện kĩ thuật thanh nhạc cho giọng nữ cao tại khoa thanh nhạc, trường Đại
học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội.
Xây dựng hệ thống phương pháp, biện pháp, cách tổ chức dạy học
cho giọng nữ cao hệ trung cấp thanh nhạc trên nền tảng một số ca khúc của
nhạc sĩ Huy Thục nhằm đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo âm nhạc tại
Trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận
văn được tổ chức thành hai chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn.
Chương 2: Biện pháp dạy học ca khúc của nhạc sỹ Huy Thục cho
giọng nữ cao hệ trung cấp trường Đại học Văn hóa nghệ thuật Quân Đội.



7
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1 . Giới thuyết khái niệm
1.1.1. Thanh nhạc
Trong âm nhạc người ta thường chia ra hai lĩnh vực chính là thanh
nhạc và khí nhạc, trong đó “Khí nhạc là âm nhạc cho các nhạc cụ” [32;
tr.77], và “Thanh nhạc là âm nhạc cho giọng người” [32; tr.78]. Song, với
sự phát triền của nghệ thuật âm nhạc hiện nay thì đã có tác phẩm khí nhạc
có sự thể hiện của giọng người và nhiều tác phẩm thanh nhạc lại có phần thể
hiện quan trọng của nhạc cụ. Tuy nhiên, đặc trưng của khí nhạc vẫn là âm nhạc
được diễn tấu bằng nhạc cụ, còn thanh nhạc là âm nhạc được thể hiện bằng
giọng người.
Về thuật ngữ thanh nhạc, trong Từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như
Ý chủ biên có viết: “Thanh nhạc là âm nhạc được biểu hiện bằng giọng hát,
phân biệt với khí nhạc (do nhạc khí phát ra)” [35; tr. 881].
Người ta thường gọi thanh nhạc là hát. Có thể nói, thuật ngữ hát và
thanh nhạc đều chỉ một loại hình nghệ thuật sử dụng giọng người để thể
hiện những cung bậc cảm xúc thông qua những tác phẩm âm nhạc. Tuy
nhiên ở nước ta, thuật ngữ hát xuất hiện từ rất lâu trong đời sống con
người, còn thanh nhạc là một thuật ngữ có nguồn gốc từ phương Tây, du
nhập vào Việt Nam khoảng những năm 50 của thế kỷ XX, qua các chuyên
gia dạy hát người nước ngoài.
Tuy thanh nhạc và hát là hai thuật ngữ cùng chỉ một loại hình nghệ
thuật nhưng nó lại thể hiện ở hai mức độ khác nhau. Khi nói đến thanh
nhạc là nói đến ca hát chuyên nghiệp và khi muốn thể hiện sự chuyên
nghiệp trong ca hát người ta thường dùng thuật ngữ thanh nhạc. Nhưng
trong cách hiểu và cách gọi thông thường thì thanh nhạc chính là hát.
Hát được biểu hiện bằng giọng người và liên quan mật thiết đến



8
ngôn ngữ. Do đó, học hát chính là học kỹ thuật để phát triển giọng và học
cách xử lý ngôn ngữ riêng của từng dân tộc. Muốn hát tốt, trước tiên phải
có giọng tốt. Mỗi giọng hát đều mang những đặc điểm riêng và nó phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như: đặc điểm ngôn ngữ, môi trường sống, cấu tạo
của cơ quan phát âm, thể chất, cá tính và độ nhạy bén của từng người.
Từ những khái niệm nêu trên, tác giả quan niệm: thanh nhạc là nghệ
thuật phối hợp giữa âm nhạc và ngôn ngữ, được thể hiện thông qua giọng
hát của con người, khác với khí nhạc - loại âm nhạc viết cho các nhạc cụ
diễn tấu. Âm thanh của thanh nhạc được vang lên từ chính giọng hát của
con người, dùng giọng hát của con người để diễn tả muôn vàn cảm xúc tinh
tế thông qua giai điệu và ca từ, thể hiện tâm tư tình cảm và khát vọng của
con người.
1.1.2. Dạy học
Trong giáo dục, dạy học là một quá trình tương tác giữa người dạy
và người học, đồng thời là bộ phận của quá trình sư phạm tổng thể. Hoạt
động dạy học bao gồm hai mặt của một quá trình, đó là dạy và học luôn đi
kèm biện chứng với nhau. Dạy là hoạt động của giáo viên, không đơn
thuần chỉ là một tiến trình truyền thụ những nội dung đáp ứng mục tiêu
đề ra mà là hoạt động giúp đỡ chỉ đạo và hướng dẫn học sinh trong quá
trình lĩnh hội. Học là hoạt động nhận thức độc đáo của người học, thông
qua đó người học chủ yếu thay đổi chính bản thân mình và ngày càng có
năng lực hơn trong hoạt động tích cực nhận thức và cải biến hiện thực
khách quan.
Tổ chức hoạt động dạy bao gồm hệ thống các phương pháp nhằm
trang bị cho người học một nền tảng kiến thức cơ bản, đồng thời nêu những
phương hướng vận dụng các thao tác, kỹ năng để thực hành, luyện tập
trong thực tiễn và các hoạt động liên quan trực tiếp đến kiến thức đã học
nhằm kiểm nghiệm, trải nghiệm, từ đó tích lũy nhận thức, thành thạo quy



9
trình, trình tự các bước tiến hành, sáng tỏ lý thuyết và thực tiễn.
Như vậy, theo tác giả Phạm Viết Vượng, viết trong cuốn Giáo dục
học thì: “Dạy học là hoạt động trí tuệ của thầy và trò, một quá trình vận
động và phát triển liên tục trong trí tuệ và nhân cách” [34; tr.97] dạy học là:
“Con đường quan trọng nhất để thực hiện mục đích giáo dục toàn diện cho
thế hệ trẻ, đồng thời là phương thức để đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội”
[34, tr.29].
Dạy học là hoạt động của thầy và trò với tư cách là hai chủ thể: người
dạy và người học, hoạt động dạy - học cùng phối hợp đồng thời và cùng hướng
tới giải quyết, hoàn thành từng mục đích rõ ràng, cụ thể. Người dạy nắm
vững kiến thức khoa học chuyên ngành, có khả năng tổ chức cho người học
tập có phương pháp, nhanh chóng nắm vững hệ thống kiến thức, được trải
nghiệm và sáng tạo dựa trên những nguyên tắc, đặc thù của một chuyên
ngành bằng các hình thức học khác nhau. Đồng thời, người dạy phải có
năng lực hướng dẫn thực hành, rèn luyện và kiểm tra, đánh giá thường
xuyên kiến thức của người học. Người dạy phải định hướng đúng đắn theo
phương pháp khoa học để người học có thể tiếp thu, lĩnh hội kiến thức
nhanh, đạt kết quả tốt trong các kỳ thi, kiểm tra.
Đối với người học, trước hết phải có ý thức, xác định đúng động cơ
học tập, chủ động, tích cực và sáng tạo trong nhận thức. Tính tích cực, chủ
động học tập được biểu hiện: tìm kiếm và xử lý thông tin cùng với khả
năng vận dụng vào thực tiễn, có khả năng tìm tòi, khám phá những vấn đề
mới bằng phương pháp mới. Nói cách khác, người học có sự sáng tạo trong
học tập, không bị động, sao chép, rập khuôn máy móc.
Từ những khái niệm trên tôi cho rằng: dạy học là một hình thức tổ
chức dưới sự điều khiển có mục đích, định hướng của người dạy, giúp cho
người học có được hệ thống tri thức kĩ năng, kĩ xảo để phát triển năng lực

tư duy, năng lực hành động và phẩm chất cá nhân.


10

1.1.3. Dạy học thanh nhạc
Dạy học thanh nhạc là một hoạt động bao gồm quá trình dạy và học
hát, trong đó liên quan tới những vấn đề mang tính đặc thù bộ môn là khoa
học về cấu tạo cơ quan phát âm của con người (thanh đới, vòm họng, cổ,
mũi, khoang ngực, bụng...) cùng hệ thống kỹ thuật, phương pháp hát.
Yêu cầu đối với GV dạy học thanh nhạc là có trình độ kiến thức, năng
lực chuyên môn thanh nhạc, có sự hiểu biết sâu sắc kỹ thuật, nghệ thuật ca
hát, đặc biệt là những người có phương pháp truyền thụ kiến thức thanh
nhạc đến người học. Quá trình dạy học thanh nhạc là quá trình tác động của
nhà sư phạm thanh nhạc với đối tượng đào tạo, là quá trình phân tích, diễn
giải kiến thức thanh nhạc, nhằm tạo nên giọng hát có âm thanh đẹp, có sức
truyền cảm sâu sắc.
Cũng trong Từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý chủ biên, dạy được
nêu ở nhiều nghĩa, chúng tôi chọn một nghĩa sát nhất với đề tài là: “truyền
lại tri thức hoặc kỹ năng một cách ít nhiều có hệ thống, có phương pháp”
[35; tr.236]; còn học là “thu nhận kiến thức, luyện tập kỹ năng do người
khác truyền lại” [38; tr.437]. Mặc dù rất ngắn gọn nhưng khái niệm dạy và
học nêu trên cho chúng ta thấy những ý cốt lõi nhất.
Dạy học thanh nhạc hiện nay có hai hình thức chính là trong đào tạo
chuyên ngành thanh nhạc và đào tạo giáo viên chuyên ngành sư phạm âm
nhạc. Sự khác nhau của hai hình thức dạy học này xuất phát từ việc xác
định mục tiêu và nhiệm vụ đào tạo. Tác giả thiết nghĩ, là GV thanh nhạc,
muốn thực hiện tốt được nhiệm vụ dạy học của mình, thì cần phải hiểu rõ sự
khác biệt giữa hai hình thức đào tạo này, từ đó mới có thể đưa ra được phương
pháp dạy học phù hợp, giúp người dạy đạt được mục tiêu đào tạo một cách

nhanh nhất, hiệu quả nhất.
Như vậy, quá trình dạy bao gồm các hoạt động tổ chức, điều khiển,
chỉ dẫn… hoạt động học của người học; quá trình học bao gồm hoạt động
nhận thức, chiếm lĩnh tri thức dưới sự tổ chức, điều khiển của người dạy.


11
Từ những ý kiến nêu trên, chúng tôi rút ra: Dạy học là quá trình
hoạt động phối hợp thống nhất giữa người dạy và người học, bao gồm các
hoạt động tổ chức, điều khiển, chỉ dẫn… của thầy và hoạt động nhận thức,
lĩnh hội tri thức… của trò, nhằm giúp người học lĩnh hội các kiến thức có
chất lượng và hiệu quả nội dung học vấn.
Thực tiễn dạy học thanh nhạc tại khoa cho thấy, các giảng viên
trong quá trình lên lớp chưa có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về giáo án, chất lượng
các tiết dạy chưa cao, chủ yếu còn mang tính đối phó. Sự chủ động trong
công tác đổi mới chương trình lên lớp là chưa sâu, các giảng viên chưa có
sự chủ động trong công tác dạy và học. Vì những lý do đó,giảng viên chưa
khai thác được tiềm năng của học viên, chưa tạo được hứng thú trong mỗi
tiết học.
1.1.4. Phương pháp dạy học thanh nhạc
Dạy thanh nhạc là hoạt động của người dạy và người học nhằm phát
triển khả năng, hoàn thiện kỹ thuật, thể hiện các bài hát một cách trọn vẹn,
đạt tính thẩm mỹ.
Về phương pháp dạy học thanh nhạc, từ các khái niệm đã nêu trên,
chúng ta có thể hiểu phương pháp dạy học thanh nhạc là cách thức, con
đường chuyển tải những kiến thức về khoa học thanh nhạc; hình thành,
phát triển các kĩ năng nhận thức và hoạt động hát cho người học; là một hệ
thống những hành động có mục đích của giáo viên nhằm tổ chức hoạt động
nhận thức và thực hành kỹ năng hát của học viên như tư thế, khẩu hình, hơi
thở, các kỹ thuật hát legato, staccato, hát to, nhỏ… nhằm đạt được mục tiêu

dạy học thanh nhạc
Đối với khoa Thanh nhạc Trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân
đội, nhiệm vụ của khoa là dạy học viên những kiến thức từ cơ bản đến
chuyên sâu để các học viên sau khi ra trường có khả năng phục vụ trong
các đoàn nghệ thuật quân đội và biểu diễn âm nhạc chuyên nghiệp.


12

1.1.5. Giọng nữ cao
1.1.5.1. Phân loại giọng nữ cao
Nhiều công trình nghiên cứu về thanh nhạc đã phân chia giọng nữ cao
thành ba loại giọng chính là: giọng nữ cao kịch tính, nữ cao trữ tình và nữ
cao màu sắc. Mỗi loại giọng nữ cao này đều mang những đặc điềm riêng và
được thể hiện qua âm sắc, âm vực và âm khu.
Trong cuốn Giáo trình thanh nhạc hệ trung học 4 năm cho các giọng
Cao, Trung, Trầm của Nguyễn Trung Kiên, tác giả có những đúc kết sau:
- Nữ cao kịch tính (Soprano - dramático): có đặc điểm là “âm sắc

chắc khỏe, mạnh mẽ, âm vực rộng, khi hát xuống âm khu thấp hơi giống
âm thanh của giọng nữ trung” [14; tr.88].
- Nữ cao trữ tình (Soprano - ly rico): “Giọng nữ cao trữ tình có âm

sắc mềm mại uyển chuyển, âm vực rộng với âm thanh bay bổng, mềm mại
trong sáng và êm dịu, giọng có thể chuyển thành kịch tính ở những đoạn
cao trào” [14; tr. 64].
- Nữ cao màu sắc (Sopran - Cororatura): “Âm sắc trong sáng linh

hoạt, nhẹ nhàng, đặc biệt có khả năng luyến láy các nốt ở âm vực cao rất
tốt, âm vực rộng hơn so với nữ cao bình thường. Ở âm khu cao giọng nữ

cao, âm sắc nghe giống tiếng sáo” [14; tr.47].
Sở trường của giọng nữ cao là việc thể hiện tốt những kỹ thuật, kỹ
xảo ở âm khu cao. Tuy nhiên để thể hiện được những kỹ thuật, kỹ xảo đó
lại đòi hỏi người học phải nắm chắc những kỹ thuật hát cơ bản như: tư thế,
khẩu hình, hát rõ lời, hát chuẩn xác và cộng minh.
1.2. Đặc điểm ca khúc của Huy Thục viết cho giọng nữ cao
1.2.1. Sơ lược về nhạc sĩ Huy Thục
Huy Thục sinh năm 1935, quê ở Chính Lý, Lý Nhân, Hà Nam. Tên
khai sinh của ông là Lê Huy Thục, còn có bút danh khác là Lê Anh
Chiến (đây là bút danh được ông dùng trước bút danh Huy Thục). Ông hoạt


13
động cách mạng từ tháng 8 năm 1945, bắt đầu đi vào con đường âm nhạc
từ năm 1950 bằng chơi đàn violon. Từ năm 1954-1956, ông vào Đoàn Văn
công Quân khu Hữu Ngạn. Sau đó ông theo học lớp sáng tác âm nhạc đầu
tiên tại Trường Âm nhạc Việt Nam. Một thời gian sau, ông lại được cử đi
tu nghiệp tại Nhạc viện Liszt ở Hungary.Về nước ông tham gia giảng dạy
ở Trường Nghệ thuật Quân đội. Trong thời kỳ Kháng chiến chống Mỹ, ông
đã có mặt trên trận đường 9 Nam Lào. Sau đó ông về làm lãnh đạo và chỉ
đạo nghệ thuật Đoàn Ca múa Tổng cục Chính trị.
Nhạc sĩ Huy Thục là một trong những nhạc sĩ có nhiều đóng góp cho
nền âm nhạc cách mạng hiện đại Việt Nam. Sự nghiệp của ông song hành
với quá trình chiếu đấu và chiến thắng của dân tộc qua hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mĩ. Hơn 450 sáng tác thuộc nhiều thể loại (như
ca khúc, khí nhạc, hợp xướng), các nhạc phẩm của ông hầu hết đều mang
âm hưởng hào hùng, truyền cảm, có sức lan tỏa mãnh liệt. Vượt lên gian
khổ, hiểm nguy xông pha trong lửa đạn, các tác phẩm của ông viết rất vui
vẻ, khoan thai, một tinh thần phơi phới, lạc quan yêu đời. Âm nhạc của ông
luôn hướng đến ngợi ca hình tượng con người Việt Nam trong tranh đấu

gìn giữ mảnh đất quê hương với hình tượng người chiến sĩ xung kích,
người dân tiếp đạn - gùi lương, hình ảnh người phụ nữ tần tảo kiên trung,
với tình yêu chan chứa nồng hậu của người con gái hậu phương qua các tác
phẩm: (Kèn xuất trận, Cô gái Pa-kô, Tiếng đàn Ta lư, Ơi con suối La La,
Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân, Chào đường 9 chiến thắng, Tiếng hát
trên đường quê hương...). Đặc biệt, ông đã tiếp thu chất liệu nhạc dân gian
ví dặm Nghệ Tĩnh và tiết tấu đảo phách rất đặc trưng của nhạc chèo và chất
liệu Ca trù để xây dựng ca khúc của mình, nhạc sĩ có những đóng góp mới
tại ra những tác phẩm âm nhạc vừa đảm bảo tính sang trọng của dòng âm
nhạc thính phòng vừa mang đậm màu sắc dân gian độc đáo như các ca
khúc Trăng khuyết, Đợi, Mưa xuân… Đây là những ca khúc giàu sắc thái


14
để luyện tập kỹ thuật nhả chữ, nhấn nhá, giả thanh… và tràn đầy xúc cảm,
hoàn thành sứ mệnh của con người, của tâm hồn người Việt sau ngày thống
nhất đất nước 1975.
Một trong những đặc điểm nổi bật của âm nhạc Huy Thục chính là
thường xuyên xây dựng hình tượng âm nhạc thiên tính nữ, bóng dáng của
những người con gái kiên cường, trung hậu xuất hiện với tần suất dày đặc
trong hàng loạt các ca khúc. Nói cách khác, ông đã hoàn thiện trọn vẹn đầy
cảm xúc vẽ bức chân dung người con gái hậu phương bằng âm nhạc. Tính
chất, cường độ lực độ trong giai điệu âm nhạc luôn được thể hiện theo
hướng vút cao đạt đến đỉnh điểm của cao trào (nhiều ca khúc có những nốt
treo rất đặc trưng, đặc sắc). Bên cạnh trục chủ âm ở một vài tác phẩm, tác
giả còn sự xuất hiện của âm ngoài điệu tính li điệu tạo nên tính phức hợp
trong hòa âm được thể hiện bằng một quãng giọng rộng với âm khu cao.
Mặt khác, với nhịp độ nhanh như gấp gáp, giục giã, ca khúc của Huy Thục
đòi hỏi kĩ thuật hát phải điêu luyện, trường hơi, liền mạch v.v...
Ông là một nhạc sĩ có khối lượng sáng tác lớn. Với nhiều các ca

khúc như: Kèn xuất trận (thơ Tô Đức Chiêu), Tiếng hát trên đường quê
hương, Ơi dòng suối La La, Tiếng đàn ta-lư, Tiến lên chiến sĩ đồng
bào (phổ thơ Bác Hồ), Đợi (thơ Vũ Quần Phương), Bác vẫn cùng chúng
cháu hành quân,. Hợp xướng Hoan hô chiến sĩ Điện Biên. Ông còn có một
số tác phẩm khí nhạc: Độc tấu đàn bầu Vì Miền Nam, Độc tấu trống dân
tộc Nhịp điệu nước non, âm nhạc cho vũ kịch Ngọn lửa Nghệ Tĩnh (viết
cùng Nguyễn

Thành và Lương

Ngọc

Trác), Tiến

lên

giành

toàn

thắng (chương I)... Ngoài ra, ông còn viết phần âm nhạc cho kịch nói, phim
truyện, phim tài liệu, múa...
Trong sự nghiệp của mình,nhạc sỹ Huy Thục đã xuất bản hai Tuyển
tập ca khúc và album Tiếng đàn ta-lư. Ông đã được nhận Giải thưởng của
Hội Nhạc sĩ Việt Nam (1993, 1995), Giải thưởng Bộ Quốc phòng (1994),


15
Giải thưởng Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (1980)
[6, tr.16-20].

Trong số các ca khúc của Huy Thục, có thể kể ra một số tác phẩm
viết cho giọng nữ cao như Tiếng đàn Ta Lư, Trăng khuyết, Ơi dòng suối La
La, Tiếng hát trên đường quê hương …
1.2.2. Cấu trúc tác phẩm tiêu biểu
Phân tích cấu trúc để khi học thanh nhạc, HV có thể xử lý được các
đoạn nhạc với những tính chất khác nhau, biết phân chia hơi thở theo câu
nhạc, tiết nhạc trong tác phẩm.
Các ca khúc của nhạc sĩ Huy Thục viết cho giọng nữ cao có cấu trúc
không phức tạp, đa số viết ở hình thức 2 đoạn đơn, như bài Tiếng đàn Ta
lư, Cô gái Pako, Trăng khuyết.
Chẳng hạn như bài Tiếng đàn Ta Lư [PL.1; tr 81] có cấu trúc 2 đoạn đơn.
Đoạn a: Câu 1 từ ô nhịp 1 đến ô nhịp 8. Câu 2 từ ô nhịp 11 đến ô
nhịp 17.
Đoạn b: Gồm 3 câu, câu 1: 8 nhịp; câu 2: 8 nhịp: câu 3: 10 nhịp;
Coda: 13 nhịp. Đây là ca khúc phù hợp với giọng nữ cao màu sắc, tính chất
vui hoạt, khỏe mạnh, có âm vực rộng. Khi thể hiện ca khúc sử dụng chủ
yếu là kỹ thuật hát nảy tiếng, ngoài ra còn sử dụng kỹ thuật hát nhanh,
phong cách linh hoạt, âm thanh trong sáng.
Ví dụ 1:


16
Bài Cô gái Pako [PL.6; tr 92] được viết ở hình thức 2 đoạn đơn.
Đoạn a: Từ ô nhịp 15 đến 23 bắt đầu vào chủ đề tác phẩm được
trình bày với đoạn nhạc không phân câu.
Từ ô nhịp 23 đến 27 là phần nối chuẩn bị chất liệu cho phần tiếp theo.
Đoạn b:
Câu 1 từ ô nhịp 28 đến ô nhịp 33 sau đó là phần nối từ ô nhịp 33
đến ô nhịp 37 tính chất tiết tấu được đưa vào nhiều hơn chuẩn bị sự xuất
hiện của câu 2, câu 2 từ đó cho đến kết bài.

Ví dụ 2

Đây là ca khúc phù hợp với giọng nữ cao màu sắc, khi hát sử dụng
kỹ thuật hát nhanh, hát luyến. Người thể hiện ca khúc cần phải có kỹ thuật
thanh nhạc tốt, âm thanh trong sáng, linh hoạt khi biểu diễn mới có thể
truyền tải được hết nội dung tác phẩm.


17
Bài Trăng khuyết [PL. 2; tr 84] cũng có hình thức cấu trúc 2 đoạn đơn.
16 nhịp đầu tiên là phần mở đầu.
Đoạn a: Câu 1 bắt đầu từ ô nhịp 16 đến ô nhịp 31. Câu 2 bắt đầu từ
ô nhịp 34 đến ô nhịp 47.
Đoạn b: Câu 1 bắt đầu từ ô nhịp 51 đến ô nhịp 62. Câu 2: Quay lại
đến hết.
Đây là ca khúc được viết với tính chất trữ tình, sâu lắng, đòi hỏi
người thể hiện phải có cột hơi chắc và khỏe, âm vực rộng. Khi thể hiện làm
rõ được tính chất Ca trù trong tác phẩm.
Ví dụ 3:

Về cách lấy hơi của bài Tiếng đàn Ta lư, Cô gái Pako được phân
chia theo tiết nhạc.
Cũng vậy các bài viết ở hình thức 2 đoạn như Đợi, Mưa xuân.
Bài Đợi [PL.4; tr 88] có cấu trúc:
Đoạn a: 9 nhịp đầu là phần dạo, từ ô nhịp 9 đến ô nhịp 14 là phần mở
đầu, từ ô nhịp 16 đến ô nhịp 27 là phần tiếp diễn, từ ô nhịp 29 đến ô nhịp
39 là phần đóng.
Đoạn b: Câu 1 từ ô nhịp 39 đến ô nhịp 49. Câu 2 từ ô nhịp 65 đến ô
nhịp 87 là nối,từ 87 đến hết là phần kết.



18
Ví dụ 4:

Bài Mưa xuân [PL. 5; tr 90] có cấu trúc như sau:
17 nhịp mở đầu
Đoạn a:
Câu 1 từ ô nhịp 17 đến ô nhịp 32. Câu 2 từ ô nhịp 34 đến ô nhịp 49.
Đoạn b:
Câu 1 từ ô nhịp 51 đến ô nhịp 67. Câu 2 từ ô nhịp 67 đến ô nhịp 82.
Từ 91 đến hết là phần kết.
Ví dụ 5:


19

Bài này đoạn a được nhắc lại 1 lần có thay đổi (a’), đoạn b là sự phát
triển chất liệu mới so với a, không có tái hiện. Đoạn a’ nhắc lại a nhưng có
thay đổi về trường độ ở đầu mỗi câu.
Sơ đồ của bài Mưa xuân như sau:
a

a’

b

Câu 1 + Câu 2

Câu 1 + Câu 2


Câu 1 + Câu 2

(4n+3n) + (4n+4n)

(5n+3n) + (4n+3n)

(4n+4n) + (4n+4n)

Về cách lấy hơi của bài này cũng được phân chia cứ hết tiết nhạc thì
lấy hơi.
Các bài cấu trúc hình thức 2 đoạn là một lối cấu trúc điển hình trong
âm nhạc cổ điển phương Tây, có cấu trúc mạch lạc, rõ ràng, số nhịp trong
các tiết nhạc thường là 2 hoặc 4, tạo sự vuông vắn, khúc chiết trong cấu
trúc. Xin dẫn một số bài như sau:
Bài Đợi được viết ở hình thức 2 đoạn có tái hiện (a b), cấu trúc rất
cân phương. Một đoạn có 2 câu, mỗi câu gồm 2 tiết, mỗi tiết có 2 nhịp.
Bài Tiếng đàn Ta Lư ở hình thức 2 đoạn có cấu trúc cân đối, đoạn 1
gồm 2 vế nhạc giai điệu nhẹ nhàng vui tươi, đoạn 2 cũng gồm 2 vế nhưng
được mở rộng bằng các thủ pháp mô phỏng.


×