BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG
LÊ THỊ HOÀI THANH
QUẢN LÝ
HOẠT ĐỘNG BIỂU DIỄN NGHỆ THUẬT
Ở TỈNH NINH BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ VĂN HÓA
Khóa 5 (2016 - 2018)
Hà Nội, 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG
LÊ THỊ HOÀI THANH
QUẢN LÝ
HOẠT ĐỘNG BIỂU DIỄN NGHỆ THUẬT
Ở TỈNH NINH BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Quản lý Văn hóa
Mã số: 8319042
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. Đào Mạnh Hùng
Hà Nội, 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả, trích dẫn trong luận văn là đầy đủ, chính xác và trung thực. Những ý
kiến khoa học được đề cập trong luận văn chưa được ai công bố ở bất kỳ
nơi nào khác. Nếu có điều gì trái với lời cam đoan tôi xin hoàn toàn chịu
trách nhiệm.
Hà Nội, ngày
tháng
năm 2018
Tác giả luận văn
Lê Thị Hoài Thanh
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BDNT
Biểu diễn nghệ thuật
CLB
Câu lạc bộ
CNH
Công nghiệp hóa
GS
Giáo sư
HĐH
Hiện đại hóa
HĐND
Hội đồng nhân dân
NTBD
Nghệ thuật biểu diễn
NSND
Nghệ sĩ nhân dân
NSƯT
Nghệ sĩ ưu tú
NTQC
Nghệ thuật quần chúng
PTS
Phó Tiến sĩ
QLNN
Quản lý nhà nước
QLVH
Quản lý văn hóa
UBND
Ủy ban nhân dân
UNESCO
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và
Văn hóa của Liên hiệp quốc
VHTT
Văn hóa thể thao
VH&TT
Văn hóa và Thông tin
VH,TT&DL
Văn hóa, thể thao và du lịch
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
WTO
Tổ chức Thương mại thế giới
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ……………………………………………………...……………....
1
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BIỂU
DIỄN NGHỆ THUẬT VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU …………….
9
1.1. Khái quát về nghệ thuật và hoạt động BDNT…………...
9
1.1.1. Khái niệm……………………………………………………..
9
1.1.2. Những vấn đề lý luận về quản lý hoạt động BDNT………….
14
1.2.3. Vai trò của QLNN đối với hoạt động BDNT ………………...
35
Tiểu kết chương 1...............................................................................
37
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BIỂU DIỄN
NGHỆ THUẬT Ở TỈNH NINH BÌNH …………………..................
39
2.1. Chủ thể quản lý ………………………………………………...
39
2.1.1. Bộ máy tổ chức, chức năng nhiệm vụ ………………………..
39
2.1.2. Nguồn lực quản lý ………………….......................................
45
2.2. Công tác quản lý hoạt động BDNT ở tỉnh Ninh Bình ……………
47
2.2.1. Ban hành và thực thi hệ thống chính sách …………………...
47
2.2.2. Đầu tư cho hoạt động biểu diễn nghệ thuật .............................
48
2.2.3. Kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong hoạt động BDNT...
53
2.3. Thực trạng hoạt động biểu diễn nghệ thuật tại Ninh Bình …….
54
2.3.1 Hoạt động biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp ………………
54
2.3.2. Hoạt động biểu diễn nghệ thuật quần chúng ............................
66
2.4. Đánh giá công tác quản lý hoạt động BDNT ở tỉnh Ninh Bình...
72
2.4.1 Ưu điểm ………………………………………………………
72
2.4.2 Hạn chế ……………………………………………………….
74
Tiểu kết chương 2…………………………………………………...
78
Chương 3: QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU, GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BDNT Ở TỈNH NINH
BÌNH ……………………………………………………………….
79
3.1. Kinh nghiệm quản lý trên thế giới …………………………….
79
3.2. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam . .. …………………….
81
3.3. Quan điểm và mục tiêu của Đảng về hoạt động BDNT ……….
84
3.4. Xu thế của hoạt động BDNT ở tỉnh Ninh Bình ……..................
90
3.5. Những giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động BDNT ở
tỉnh Ninh Bình ……………………………………………………...
92
3.5.1. Nhóm giải pháp về công tác quản lý nhà nước……………….
93
3.5.2. Giải pháp trong quản lý hoạt động BDNT chuyên nghiệp …..
102
3.5.3. Giải pháp đối với hoạt động nghệ thuật quần chúng…………
111
Tiểu kết chương 3 …………………………………………………..
113
KẾT LUẬN …………………………………………………………
114
TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………………….
116
PHỤ LỤC …………………………………………………………..
122
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng đã làm thay đổi diện
mạo và vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Nhịp sống sôi động của
kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa, mở rộng
giao lưu hợp tác quốc tế đã tạo xu hướng phát triển đầy thuận lợi nhưng
cũng chứa đựng trong đó những thách thức tiềm ẩn. Chính vì vậy, trong
tình hình hiện nay, hơn bao giờ hết cùng với sự phát triển của kinh tế,
văn hóa phải đóng vai trò điều tiết tinh thần, phải góp phần đắc lực vào
việc khai thác những nhân tố tích cực, hạn chế những yếu tố tiêu cực
trong đời sống xã hội.
Nghệ thuật biểu diễn - một trong những thành tố quan trọng không
thể thiếu của văn hóa có vị trí, vai trò hết sức to lớn đối với đời sống tinh
thần của người dân, góp phần xây dựng nền văn hóa và con người Việt
Nam. Trong những năm qua, lĩnh vực biểu diễn nghệ thuật đã đạt nhiều
thành tựu, đáp ứng một phần quan trọng nhu cầu hưởng thụ văn hoá của
các tầng lớp nhân dân, đóng góp tích cực vào sự nghiệp đổi mới, đặc biệt là
góp phần củng cố “sự sâu rễ bền gốc” nơi nhân dân. Xu thế đất nước vận
động và hướng tới nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chắt lọc
tinh hoa văn hóa nhân loại và phát triển hơn nữa giá trị tinh túy văn hóa dân
tộc Việt Nam ngàn đời lưu giữ thì hoạt động nghệ thuật cũng có lối đi riêng
của mình. Những giá trị văn hóa đích thực của nhân loại sẽ được tiếp thu,
còn biểu hiện chưa đẹp, phản cảm sẽ bị loại ra khỏi dòng chảy phát triển.
Để đạt được kết quả đó, vai trò của quản lý về hoạt động biểu diễn nghệ
thuật rất quan trọng, nó góp phần định hướng cho thẩm mỹ nghệ thuật đặc
biệt là của giới trẻ đi đúng hướng, xu thế của xã hội với quan điểm lấy
Chân - Thiện - Mỹ làm gốc rễ của sự phát triển.
2
Ninh Bình là vùng đất cố đô có bề dày văn hoá - lịch sử hàng nghìn
năm. Văn hoá truyền thống Ninh Bình vừa có nét riêng bản địa, vừa mang
sắc thái vùng miền do yếu tố hội tụ, giao thoa của nhiều nền văn minh. Với
nền móng lịch sử văn hóa, nghệ thuật lâu đời của dân tộc nói chung và tỉnh
Ninh Bình nói riêng, hoạt động văn học nghệ thuật tỉnh đã đóng góp to lớn
vào sự nghiệp xây dựng tỉnh Ninh Bình trong các cuộc kháng chiến và
trong công cuộc đổi mới hiện nay, đặc biệt trong sự nghiệp xây dựng đời
sống văn hoá cơ sở.
Lĩnh vực biểu diễn nghệ thuật có vai trò quan trọng trong đời sống
văn hóa, góp phần giáo dục, định hướng về thẩm mỹ, lối sống của người
xem, nhất là thế hệ trẻ. Đây cũng là một trong những phương tiện biểu đạt
truyền thống văn hóa, hình ảnh con người Việt Nam nói chung và tỉnh Ninh
Bình nói riêng, góp phần tích cực trong việc giao lưu, hợp tác quốc tế về
văn hóa. Trong những năm qua, hoạt động biểu diễn và tổ chức biểu diễn
nghệ thuật chuyên nghiệp tỉnh Ninh Bình đã góp phần làm cho các loại
hình nghệ thuật phát triển, đa dạng về hình thức, phong phú về nội dung,
nhiều chương trình nghệ thuật có chất lượng, đáp ứng được nhu cầu thưởng
thức nghệ thuật của nhân dân.
Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức hoạt động biểu diễn nghệ thuật
vẫn còn xuất hiện nhiều hiện tượng tiêu cực, vi phạm như: Tổ chức biểu
diễn không có giấy phép; Không đúng nội dung giấy phép; Bán vé quá số
ghế quy định; Tự ý tăng giá vé; Quảng cáo sai sự thật - không đúng nội
dung, thời gian chương trình biểu diễn; Mạo danh, sử dụng thiết bị thu âm
trước để thể hiện thay cho biểu diễn thật; Người biểu diễn tự ý thêm bớt lời
ca, động tác biểu diễn và trang phục phản cảm, không phù hợp với thuần
phong mỹ tục của dân tộc... Những điều này đã làm ảnh hưởng đến phong
cách thẩm mỹ của một bộ phận giới trẻ, đồng thời gây những bức xúc trong
dư luận xã hội.
3
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, xây dựng một xã hội vừa có đời
sống vật chất đầy đủ, vừa có đời sống tinh thần lành mạnh, phong phú là
mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Bên cạnh đó, nhu cầu hưởng thụ
nghệ thuật của người dân ngày càng phong phú, đa dạng. Muốn cho văn học
nghệ thuật nói chung và nghệ thuật biểu diễn nói riêng phục vụ xã hội một
cách hiệu quả, phát huy được hết tác dụng của mình thì công tác quản lý nhà
nước phải đảm bảo điều kiện cần thiết cho lĩnh vực này vừa hoạt động đúng
tính chất, vừa đảm bảo nâng cao khả năng cảm thụ, thưởng thức nghệ thuật
của công chúng...
Trên cở sở pháp lý và thực tiễn của công tác quản lý nhà nước về
lĩnh vực biểu diễn nghệ thuật đang đặt ra ngày càng bức xúc trong thời kỳ
phát triển CNH, HĐH, hội nhập và phát triển có tính toàn cầu, cần nâng
cao năng lực quản lý nhà nước ngày càng hiệu lực và hiệu quả hơn. Chính
vì vậy, qua tìm hiểu nghiên cứu, tôi chọn đề tài “Quản lý hoạt động biểu
diễn nghệ thuật ở tỉnh Ninh Bình” làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu
Đối với nước ta, quản lý nhà nước về hoạt động biểu diễn nghệ thuật
là vấn đề còn mới mẻ. Trong quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc quản lý về hoạt động biểu diễn nghệ thuật
ở các cấp nói chung và trên từng địa bàn cụ thể nói riêng đòi hỏi cần phải
được làm sáng tỏ. Chính vì thế mà vấn đề này đã và đang thu hút sự quan
tâm của các nhà quản lý, các nhà nghiên cứu. Có thể khái quát một số đề tài
liên quan đến luận văn đáng chú ý:
- Lê Thị Thu Hiền (2009), Quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật
sân khấu truyền thống ở Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch [23]. Luận văn
Thạc sĩ. Tác giả trình bày những vấn đề chung và thực trạng quản lý nhà
nước về hoạt động biểu diễn nghệ thuật truyền thống của Bộ Văn Hóa, Thể
4
Thao và Du Lịch. Từ đó đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả cho
hoạt động này.
- Trần Thục Quyên (2006), Quản lý hoạt động Biểu diễn nghệ thuật
tại Nhà hát Tuổi trẻ [36]. Luận văn Thạc sĩ quản lý Văn hóa. Tác giả trình
bày cơ sở lý luận hoạt động biểu diễn nghệ thuật cũng như nêu lên thực trạng
quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật tại Nhà hát Tuổi Trẻ. Qua đó đề xuất
một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật
tại Nhà hát Tuổi trẻ.
- Phạm Tuấn Anh (2013), Quản lý Nghệ thuật biểu diễn chuyên
nghiệp ở Thái Bình [1]. Luận văn Thạc sĩ quản lý Văn hóa. Tác giả trình
bày cơ sở lý luận và thực trạng quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật
chuyên nghiệp ở Thái Bình. Từ đó đưa ra những giải pháp cho nghệ thuật
biểu diễn ở Thái Bình phát triển phù hợp với thời kỳ đổi mới hiện nay.
- Nguyễn Thanh Xuân (2017), Quản lý nguồn nhân lực trong các tổ
chức nghệ thuật biểu diễn công lập trên địa bàn Hà Nội [48]. Luận án Tiến
sĩ. Tác giả đã hệ thống các lý thuyết về tạo động lực để tạo ra đòn bẩy hiệu
quả công việc, phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nguồn nhân lực trong
tác tổ chức NTBD hiện nay, nhận diện bảy hiệu quả trong quản lý nguồn
nhân lực của các tổ chức NTBD công lập hiện nay theo hiệu quả cá nhân và
hiệu quả tổ chức, nêu lên xu hướng phát triển của NTBD công lập trong
những năm tới, phát triển theo chiều hướng thực hiện lộ trình tự chủ và
hoạt động theo cơ chế thị trường, cạnh tranh với các loại hình giải trí khác.
Cuối cùng đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
của các tổ chức NTBD công lập.
- Bùi Thị Thúy Ngọc (2014), Quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật
tại tỉnh Phú Thọ [33]. Luận văn thạc sĩ Quản lý Văn hóa trường Đại học
Văn hóa Hà Nội. Tác giả trình bày cơ sở lý luận và thực trạng quản lý hoạt
động biểu diễn nghệ thuật tại tỉnh Phú Thọ. Từ đó đưa ra những giải pháp
5
quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật phù hợp với thời kỳ đổi mới hiện
nay.
- Đặng Thị Thanh Hoa (2013), Quản lý hoạt động biểu diễn nghệ
thuật trên địa bàn Hà Nội [22]. Luận văn Thạc sĩ Quản lý Văn hóa trường
Đại học Văn hóa Hà Nội. Luận văn đã trình bày thực trạng quản lý hoạt
động biểu diễn nghệ thuật trên địa bàn Hà Nội và đề xuất những biện pháp
nâng cao hiệu quả cho hoạt động.
Nhìn chung phần lớn các đề tài trên cũng đã đề cập đến công tác
quản lý về hoạt động nghệ thuật biểu diễn. Tuy nhiên, cho đến thời điểm
này, chưa có một công trình nghiên cứu nào trình bày một cách có hệ thống
từ lý luận đến thực trạng, giải pháp nâng cao chất lượng quản lý nhà nước
về hoạt động nghệ thuật biểu diễn trên địa bàn cấp tỉnh nói chung và tỉnh
Ninh Bình nói riêng, nhất là sau khi Nghị định số 79/2012/NĐ-CP ngày
05/10/2012 của Chính phủ quy định về biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời
trang; Thi người đẹp và người mẫu; Lưu hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi
hình ca múa nhạc, sân khấu ra đời và Nghị định số 15/2016/NĐ-CP ngày
15/3/2016 của Chính phủ quy định về sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 79/2012/NĐ-CP ngày 05/10/2012 của Chính phủ quy định về
biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; Thi người đẹp và người mẫu;
Lưu hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu. Luận
văn của tác giả sẽ nghiên cứu về nội dung “Quản lý hoạt động biểu diễn
nghệ thuật ở tỉnh Ninh Bình”
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Khảo sát đánh giá thực trạng quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật
ở tỉnh Ninh Bình và đề xuất những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả
công tác quản lý lĩnh vực biểu diễn nghệ thuật trên địa bàn tỉnh trong thời
gian tới.
6
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của quản lý nhà nước trên lĩnh
vực biểu diễn nghệ thuật, đặc điểm, nội dung, thực trạng quản lý nhà nước
về lĩnh vực biểu diễn nghệ thuật cấp tỉnh trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa của tỉnh và đất nước.
- Khảo sát, đánh giá những thành tựu và hạn chế trong quản lý về
biểu diễn nghệ thuật của tỉnh Ninh Bình trong những năm qua, tìm nguyên
nhân tồn tại.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm phát huy ưu điểm, khắc
phục khuyết điểm, nâng cao hiệu quả quản lý về biểu diễn nghệ thuật trên
địa bàn tỉnh trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động biểu diễn nghệ thuật của một địa phương cấp tỉnh, trong
trường hợp cụ thể là tỉnh Ninh Bình bao gồm toàn bộ hoạt động biểu diễn
nghệ thuật chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp (nghệ thuật quần
chúng). Công tác quản lý hoạt động nghệ thuật trên địa bàn tỉnh được triển
khai toàn diện, không thể thiếu một trong hai hình thức trên. Do vậy trong
khuôn khổ đề tài này, luận văn đặt giới hạn nghiên cứu vấn đề quản lý về
biểu diễn nghệ thuật, cụ thể: Biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp và biểu
diễn nghệ thuật quần chúng, bao gồm các loại hình nghệ thuật truyền thống
và hiện đại.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung khảo sát thực trạng công tác quản lý lĩnh vực biểu
diễn nghệ thuật chuyên nghiệp và nghệ thuật quần chúng có tổ chức trên địa
bàn tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2013 - 2017. Tác giả chọn giai đoạn này vì từ
7
tháng 01/2013, Nghị định 79/2012/NĐ-CP của Chính phủ quy định về biểu
diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; Thi người đẹp và người mẫu; Lưu
hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu có hiệu lực thi
hành, đồng thời cũng là giai đoạn tỉnh Ninh Bình có nhiều hoạt động văn
hóa nghệ thuật đặc sắc.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng các phương pháp cụ thể như:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp: Được sử dụng nhằm lựa chọn
những tài liệu, số liệu, những thông tin liên quan đến nội dung và đối tượng
nghiên cứu phục vụ viết luận văn, là tiền đề giúp cho việc phân tích, đánh giá
tổng hợp các nội dung và đối tượng nghiên cứu khách quan, chính xác.
- Phương pháp phân tích tổng hợp: Được sử dụng trong quá trình
phân tích, đánh giá toàn diện nội dung, đối tượng nghiên cứu trong quá
trình viết luận văn.
- Phương pháp khảo sát thực tế.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp: Phỏng vấn sâu,
thống kê, diễn giải, đánh giá…
6. Những đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần hệ thống hóa và khái quát hóa những vấn đề lý
luận chung quản lý nhà nước lĩnh vực biểu diễn nghệ thuật đối với cấp tỉnh.
Khảo sát, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về lĩnh vực biểu diễn nghệ
thuật trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. Đề xuất một số phương hướng, giải pháp
nhằm giúp cho việc quản lý nhà nước về lĩnh vực biểu diễn nghệ thuật ngày
một tốt hơn trong thời gian tới.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho những nghiên cứu chuyên
về lĩnh vực biểu diễn nghệ thuật, đây là lĩnh vực được nhiều người quan tâm
nhưng nếu không có sự quản lý chặt chẽ, hiệu quả của các cơ quan quản lý
8
nhà nước dễ phát sinh tiêu cực, vi phạm và gây tác động, ảnh hưởng xấu, lâu
dài tới đạo đức, văn hóa của con người, đặc biệt là thế hệ trẻ.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận
văn gồm 3 chương.
Chương 1: Khái quát về quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật và địa
bàn nghiên cứu.
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật ở tỉnh
Ninh Bình.
Chương 3: Quan điểm, mục tiêu, giải pháp nâng cao hiệu quả quản
lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật ở tỉnh Ninh Bình.
9
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
BIỂU DIỄN NGHỆ THUẬT VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Khái quát về hoạt động biểu diễn nghệ thuật
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1. Quản lý
Hoạt động quản lý đã xuất hiện từ lâu, nhưng thuật ngữ “quản lý”
cho đến nay vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau. Tùy từng mục tiêu và dưới
các góc độ nghiên cứu, người ta có thể đưa ra các quan niệm khác nhau về
quản lý. Có quan điểm coi quản lý là quá trình bao gồm các khâu lập kế
hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra những nỗ lực của các thành viên trong
tổ chức và sử dụng tất cả các nguồn lực khác nhau của tổ chức để đạt được
mục tiêu đã định trước. Cũng có quan điểm cho rằng quản lý là sự tác động
định hướng bất kỳ lên một hệ thống nào đó nhằm trật tự hóa nó và hướng
nó phát triển phù hợp với những quy định nhất định.
Mặc dù có nhiều quan niệm, song thuật ngữ quản lý được thống nhất
ở hai nội dung chủ yếu là:
Thứ nhất, quản lý là sự tác động mang tính tổ chức, tính mục đích
của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý.
Thứ hai, mục tiêu của quản lý là làm cho đối tượng quản lý hoạt
động phù hợp với ý chí của chủ thể quản lý đã định ra từ trước.
Nói đến quản lý trước hết là sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của
chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý. Sự tác động này không mang tính
đơn lẻ, tự phát mà nó mang tính tổ chức, tính mục đích rõ ràng. Mục đích
mà chủ thể quản lý đặt ra là hướng đối tượng quản lý hoạt động phù hợp
với ý chí của mình.
Từ hai nội dung nêu trên có thể đưa ra khái niệm về quản lý: Quản lý
là sự tác động có tổ chức, có mục đích của chủ thể quản lý lên đối tượng
quản lý nhằm đạt được mục tiêu đã được đặt ra từ trước.
10
1.1.1.2. Quản lý nhà nước
Quản lý nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng
quyền lực Nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của
con người để duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp
luật nhằm thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước trong
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Quản lý nhà nước luôn mang tính quyền lực, tính tổ chức chặt chẽ;
đặc điểm pháp lý của quan hệ quản lý là sự không bình đẳng giữa các bên
trong quan hệ quản lý, chính vì vậy trong quản lý nhà nước mọi mệnh lệnh,
quyết định quản lý luôn mang tính đơn phương một chiều, bắt buộc thực
hiện và khi cần các chủ thể quản lý có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế
thi hành. Mọi mệnh lệnh, quyết định quản lý phải được chấp hành nghiêm
túc, triệt để, xác định rõ trách nhiệm pháp lý và xử lý nghiêm mọi sự vi
phạm, chấp hành không nghiêm túc.
Quản lý nhà nước là hoạt động có mục tiêu rõ ràng, có chiến lược và
kế hoạch để thực hiện mục tiêu: đặc điểm này đòi hỏi các cơ quan nhà nước
phải xác định rõ mục tiêu, xây dựng chiến lược và kế hoạch hoạt động của
cấp trên và đường lối chính sách của Đảng. Quản lý nhà nước là hoạt động
dựa trên những quy định chặt chẽ của pháp luật, đồng thời là hoạt động có
tính chủ động, sáng tạo và linh hoạt trong thực tiễn điều hành, quản lý.
Trên cơ sở những quy định của pháp luật và mục tiêu, định hướng, kế
hoạch của cấp trên và đường lối chính sách của Đảng.
Quản lý nhà nước phải đảm bảo nguyên tắc công khai, dân chủ trong
hoạt động thể hiện tinh thần tôn trọng nhân dân, biết lắng nghe, tiếp thu ý
kiến nhân dân. Quản lý theo đúng luật sẽ góp phần tích cực vào việc lập lại
trật tự kỷ cương trong tình hình văn hóa – xã hội hiện đang có nhiều lộn
xộn. Đặc biệt, trong quá trình tăng cường hội nhập quốc tế, trong bối cảnh
11
nền kinh tế toàn cầu, ứng dụng rộng rãi những thành tựu của công nghệ
thông tin, làm phong phú những ảnh hưởng qua lại giữa các nền văn hóa.
1.1.1.3. Nghệ thuật
Nghệ thuật gắn liền với tư duy tình cảm của con người. Nghệ thuật là
sản phẩm hoạt động sáng tạo của con người, bằng những phương tiện biểu
hiện đặc thù riêng của mình, nghệ thuật phản ánh thế giới và cải tạo thế
giới. Nghệ thuật giúp con người nhận thức những giá trị Chân - Thiện Mỹ, là phương tiện tác động vào thế giới nội tâm của con người, làm cho
con người gắn bó với cộng đồng. Theo quan điểm mỹ học Mác và Ăng
ghen cho rằng: “Hơn bất cứ lĩnh vực nào trong quan hệ thẩm mỹ giữa con
người và hiện thực, nghệ thuật mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Nó không chỉ
phản ánh các điều kiện sinh hoạt thông thường của xã hội mà còn phản ánh
chiều sâu của tâm lý” [26, tr.318].
Nhiều nhà nghiên cứu văn hóa đã có các công trình nghiên cứu về
văn học nghệ thuật nói chung và biểu diễn nghệ thuật nói riêng. Theo đó,
các loại hình nghệ thuật như: ca, múa, nhạc, xiếc, múa rối… là những loại
hình mà sự truyền đạt tới người thưởng thức mang tính tập thể, có tính
hành động cao. Chính tính tập thể đã đem lại hiệu quả lan truyền và tăng
cường độ lên rất cao, mà sự thưởng thức riêng lẻ không thể nào so sánh
được. Còn tính hành động chính là cơ sở, là phương tiện cho người nghệ sĩ
sáng tạo nghệ thuật, mọi hiện tượng đều được diễn tả qua hành động sân
khấu. Nghệ thuật biểu diễn còn mang tính tổng hợp bởi trong đó chứa đựng
nhiều yếu tố nghệ thuật kết hợp với nhau để tạo thành tác phẩm nghệ thuật.
Ví dụ: Nghệ thuật sân khấu là một nghệ thuật tổng hợp với sự kết hợp của
văn học, hội họa, âm nhạc, vũ đạo, nhiếp ảnh, điêu khắc và nghệ thuật biểu
diễn của người diễn viên là trung tâm.
12
1.1.1.4. Biểu diễn nghệ thuật
Theo tác giả Trần Trí Trắc: “Nghệ thuật biểu diễn là sự thể hiện sáng
tạo của nghệ sĩ trước khán giả, là tiếng nói từ trái tim đến với trái tim, từ
tình cảm đến với tình cảm và trở thành bảo tàng sống của dân tộc” [11,
tr.265]. Như vậy, có thể thấy vai trò của người nghệ sĩ là rất quan trọng, họ
là người sáng tạo nghệ thuật, tạo ra những tác phẩm nghệ thuật giúp khán
giả nhận thức sâu sắc hơn về hiện thực đời sống xã hội.
Theo Nghị định số 79/2012/NĐ-CP ngày 05/10/2012 của Chính phủ
quy định về biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; Thi người đẹp và
người mẫu; Lưu hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân
khấu: “Biểu diễn nghệ thuật là trình diễn chương trình, tiết mục, vở diễn
trực tiếp trước công chúng của người biểu diễn. Loại hình nghệ thuật biểu
diễn bao gồm: Tuồng, chèo, cải lương, xiếc, múa rối, bài chòi, kịch nói,
kịch dân ca, kịch câm, nhạc kịch, giao hưởng, ca, múa, nhạc, ngâm thơ, tấu
hài, tạp kỹ và các loại hình nghệ thuật biểu diễn khác”.
Nghệ thuật biểu diễn Việt Nam được hình thành và phát triển cùng
tiến trình lịch sử của đất nước. Trải qua nhiều giai đoạn phát triển, nghệ
thuật biểu diễn đã phản ánh sinh động nhiều phương diện của đời sống xã
hội, luôn bám sát cuộc sống, phục vụ nhiệm vụ chính trị. Đặc biệt trong
công cuộc đổi mới đất nước, thông qua các loại hình của nghệ thuật biểu
diễn để đấu tranh những mặt tiêu cực của xã hội, những tư tưởng thù địch
đồng thời ca ngợi sự nghiệp xây dựng đất nước và hướng con người tới
những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp.
1.1.1.5. Quản lý nhà nước về hoạt động biểu diễn nghệ thuật
Quản lý nhà nước về hoạt động biểu diễn nghệ thuật là sự tác động
của chủ thể quản lý đối với tập thể và cá nhân chịu trách nhiệm thực hiện
13
các nhiệm vụ về hoạt động nghệ thuật biểu diễn để đạt được mục tiêu, kế
hoạch đặt ra.
Quản lý nhà nước về hoạt động BDNT là một bộ phận hữu cơ trong
toàn bộ hoạt động quản lý nhà nước về văn hóa. Nhà nước giữ vai trò quan
trọng trong việc quản lý các hoạt động BDNT phục vụ nhu cầu đời sống
tinh thần của nhân dân. Nhà nước là người đại diện cho nhân dân đảm bảo
các quyền có trong Hiến pháp của công dân về văn hóa, điều tiết sự hài hòa
của cơ cấu văn hóa, lợi ích văn hóa và yêu cầu phát triển, thỏa mãn nhu cầu
văn hóa của xã hội.
Hiện nay trong cơ chế thị trường, quản lý hoạt động BDNT là vấn đề
cần được nghiên cứu chu đáo. Bởi lẽ quản lý nhà nước về hoạt động BDNT là
thể hiện quyền lực Nhà nước trong lĩnh vực văn hóa. Quyền lực đó bao gồm:
định hướng hoạt động, xây dựng hành lang pháp lý, quản lý, cơ chế chính
sách điều hành các cơ quan tổ chức hoạt động theo kế hoạch, chương trình,
mục tiêu, tổ chức bộ máy, đầu tư tài chính, giám sát, thanh tra kiểm tra…
Theo quan niệm của ngành văn hóa, Quản lý nhà nước về hoạt động
BDNT là sự tác động liên tục, có tổ chức, có chủ đích của Nhà nước bằng
hệ thống pháp luật và bộ máy của mình, nhằm phát triển văn hóa, điều
chỉnh hoạt động của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực hoạt
động BDNT và liên quan, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
1.1.1.6. Biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp
Biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp được thực hiện bởi các Đoàn
nghệ thuật chuyên nghiệp. Đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp được đầu tư từ
ngân sách nhà nước, các diễn viên, nghệ sĩ của các Đoàn nghệ thuật chuyên
nghiệp nằm trong biên chế của Nhà nước, được hưởng lương và mọi chế độ
theo quy định của Nhà nước. Hoạt động biểu diễn nghệ thuật chuyên
14
nghiệp là hoạt động có doanh thu với các chương trình biểu diễn được Nhà
nước đầu tư xây dựng và quản lý về nội dung và chất lượng nghệ thuật.
1.1.1.7. Biểu diễn nghệ thuật quần chúng
Nghệ thuật biểu diễn quần chúng là hoạt động nghệ thuật không
chuyên nghiệp, được tổ chức và thực hiện bởi các nhóm nghệ sĩ được tập
trung theo mùa vụ từ các cơ quan đơn vị khác nhau, không được đầu tư từ
ngân sách Nhà nước, các diễn viên là những người không chuyên nghiệp,
không trong biên chế của Đoàn nghệ thuật Nhà nước. Hoạt động nghệ thuật
biểu diễn không chuyên là hoạt động nghệ thuật phục vụ nhiệm vụ chính trị
của địa phương, không có doanh thu, với quy mô nhỏ, đơn giản, gọn nhẹ.
1.1.2. Những vấn đề lý luận về quản lý hoạt động BDNT
1.1.2.1. Đặc điểm của hoạt động BDNT
Hoạt động của biểu diễn nghệ thuật chủ yếu thuộc loại hoạt động
sáng tạo, trên lĩnh vực tinh thần, tác động đến trí tuệ, tâm hồn con người.
Nó là kết quả của lao động trí tuệ, cơ bắp, tạo dựng những tác phẩm nghệ
thuật từ các chất liệu ngôn ngữ khác nhau, như chữ viết, âm thanh, màu
sắc, ánh sáng, hình khối, hành động, tiếng nói…Thông qua các chất liệu và
hình thức nghệ thuật riêng biệt hoặc tổng hợp, người nghệ sỹ với tài năng
sáng tạo độc đáo sẽ tạo nên những thế giới nghệ thuật mang các đặc trưng
hình tượng thẩm mỹ vô cùng đa dạng, phong phú cho nhu cầu đời sống văn
hóa tinh thần của con người. Đồng thời, giống như các loại hình nghệ thuật
khác thuộc lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, biểu diễn nghệ thuật cũng là một
bộ phận quan trọng trong nền văn hóa, do vậy, BDNT với tư cách là sản
phẩm bao gồm những đặc điểm sau:
BDNT cũng mang đầy đủ những đặc tính sản phẩm, lao động cụ thể
và lao động trừu tượng tạo nên giá trị của sản phẩm. Tuy nhiên sản phẩm
này còn có những nét đặc trưng riêng so với các sản phẩm thông thường
khác ở chỗ:
15
- Các nguyên vật liệu để sản xuất ra sản phẩm này không chỉ ở dạng
vật thể mà còn ở dạng phi vật thể (như kiến thức, quan điểm, tư tưởng, đạo
đức, thẩm mỹ, kinh nghiệm, năng khiếu…).
- Các nguyên vật liệu ở dạng phi vật thể này thường chiếm một tỉ
trọng khá lớn so với nguyên vật liệu ở dạng vật thể để cấu thành sản phẩm.
Việc tiêu hao các nguyên vật liệu phi vật thể này có liên quan tới hoạt động
sáng tạo của người sản xuất ra sản phẩm. C.Mác coi đó thuộc phạm trù lao
động trừu tượng.
Đặc điểm này đòi hỏi khi tính toán chi phí không thể chỉ tính việc bù
đắp phần “khấu hao” cả hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình, mà còn cả
việc đổi mới, nâng cao trình độ của người sản xuất nữa. Kinh nghiệm quốc
tế và thực tiễn nước ta cho thấy rằng, thị trường ít quan tâm và tác động
trực tiếp tới bộ phận này, mà thường Nhà nước vì lợi ích chung, phải quan
tâm và trực tiếp hỗ trợ cho việc tính toán này thông qua các công cụ quản
lý kinh tế vĩ mô của mình như thuế, trợ giá…
Bên cạnh đó, giống như các sản phẩm thông thường khác, sản phẩm
của NTBD cũng có giá trị, giá trị sử dụng, giá trị trao đổi, song sản phẩm
của NTBD còn có thêm các giá trị khác như: Giá trị đạo đức, giá trị thẩm
mỹ, giá trị văn hóa… nói cách khác, là những giá trị chính trị - xã hội.
Trong phân loại của tổ chức Văn hóa, khoa học và giáo dục của Liên
hiệp quốc (UNESCO), người ta phân biệt văn hóa vật thể với văn hóa phi
vật thể. Văn hóa vật thể bao hàm các động sản, bất động sản mang một giá
trị, ý nghĩa đặc biệt về mặt lịch sử, truyền thống… (liên quan đến các di
tích, công trình lịch sử, đền đài, cung điện…). Còn sản phẩm văn hóa phi
vật thể là toàn bộ những sáng tạo dựa trên cơ sở truyền thống của một cộng
đồng văn hóa, đã xây dựng và hình thành nên một hệ thống giá trị và chuẩn
mực mà dựa vào đó từng cộng đồng tự khẳng định bản sắc văn hóa và xã
hội riêng của mình. Do đó, không phải ngẫu nhiên có những sản phẩm văn
16
hóa cả vật thể và phi vật thể cùng với thời gian, giá trị của nó càng được
tăng lên [28, tr.36]. Điều đó chứng tỏ, các sản phẩm của BDNT là một loại
hàng hóa đặc biệt, không thể chỉ tính toán, hoạch toán lỗ lãi theo cách
thường làm với các sản phẩm hàng hóa thuần túy thông thường khác. Bởi
lẽ, nếu giá trị của hàng hóa thể hiện thông qua giá cả, thì đối với sản phẩm
của BDNT, giá cả thường không thu được phí sử dụng như đối với một cây
cầu, hay một đoạn đường. Kết quả hoạt động BDNT không chỉ thể hiện ở
dạng giá trị bằng tiền (doanh thu, lỗ, lãi đơn thuần) mà một phần quan
trọng ở dạng khó quy ra giá trị bằng tiền (như truyền thống, đạo đức, thẩm
mỹ…). Nếu chỉ tính toán, hoạch toán theo cách thông thường như vậy thì
một mặt sẽ không phản ánh đầy đủ các chi phí làm ra sản phẩm, mặt khác
sẽ rất khó có những sản phẩm tầm cỡ, có chất lượng. Trong lợi ích, BDNT
không chỉ tác động trực tiếp tới người hưởng thụ mà còn lan tỏa ra xung
quanh, cho cả những người không mua hoặc không muốn mua. Thực tế
trong những năm gần đây, hoạt động BDNT sản xuất khá nhiều các sản
phẩm phục vụ cho nhu cầu xã hội, nhưng trong đó còn hiếm những sản
phẩm đáp ứng tốt yêu cầu bồi dưỡng, giáo dục và phát huy phẩm chất văn
hóa tốt đẹp của con người Việt Nam.
Đồng thời, cũng chính vì tính đặc biệt này của sản phẩm BDNT khiến
nó thuộc loại hàng hóa công cộng, hàng hóa khuyến dụng. Điều này nghĩa
là, hàng hóa đó một khi đã được cung ứng cho một người này thì có thể
được cung cấp cho những người khác và xã hội nghĩ rằng mọi người dân nên
tiêu dùng hoặc tiếp nhận, cho dù thu nhập của họ ở mức nào đi nữa.
Là lĩnh vực hoạt động sản xuất tinh thần, các sản phẩm văn hóa nói
chung và BDNT nói riêng luôn mang trong nó các mặt tri thức, tư tưởng,
tình cảm, tâm hồn, đạo đức… biểu hiện sức sống, sức sáng tạo của một dân
tộc. Chính giá trị văn hóa ẩn giấu bên trong các sản phẩm cụ thể mà nhiều
sản phẩm văn hóa trong đó có BDNT cùng với thời gian ngày càng trở nên
17
có giá trị. Sự tồn tại giá trị văn hóa trong sản phẩm và tính chất công cộng
của sản phẩm văn hóa mà tất yếu cần nhìn nhận, xem xét, đánh giá chúng
trước hết trên khía cạnh văn hóa, tác dụng, hiệu quả của chúng đối với xã
hội về mặt văn hóa. Cũng như vậy, BDNT cần lấy nhiệm vụ phục vụ chính
trị, tư tưởng là mục đích hoạt động.
Trên thực tế, khi sử dụng sản phẩm của BDNT (thưởng thức một
chương trình nghệ thuật) người tiêu dùng (khán giả) không chỉ được
thỏa mãn tức thời, mà những giá trị nội dung tiếp nhận được còn tích
lũy lâu dài, trở thành nhận thức trong con người. Ngoài ra, người tiêu
dùng đó còn truyền cho người khác bằng việc kể lại nội dung và thông
qua hàng trăm, hàng nghìn người tiêu dùng, con số người biết nhân
lên gấp bội. Mặt khác, khi người tiêu dùng (khán giả) hài lòng tiếp thu
những giá trị của BDNT thì cái mà người tiêu dùng tiếp nhận sẽ giúp
họ có những quyết định đúng đắn trong cuộc sống, đưa họ tới những
hoạt động không chỉ ở dạng tinh thần mà còn tạo ra các sản phẩm vật
chất, các giá trị mới. Sự phát triển ngày nay cho thấy, khi đánh giá con
người là nhân tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất thì văn hóa
trở thành lực lượng thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển của sức sản
xuất. Chính điều này đã giải thích cho sự cần thiết phải tài trợ cho văn
hóa nói chung và BDNT nói riêng dù dưới danh nghĩa Nhà nước hay
các tổ chức kinh tế - xã hội [28, tr.37]
1.1.2.2. Chức năng của hoạt động BDNT
Nghệ thuật biểu diễn là một loại hình tổng hợp của lĩnh vực văn hóa
nghệ thuật. Ở đó có cả văn học, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, múa và
nghệ thuật biểu diễn của diễn viên, cùng sự tham gia trực tiếp của
khán giả. BDNT mang trong mình những nội dung phong phú, đa
dạng về cuộc sống, từ triết học, mỹ học, sử học, dân tộc học, xã hội
học đến chính trị, đạo đức, tôn giáo… với bao niềm vui, nỗi buồn,
thương, yêu, hờn, giận, khát vọng, mơ ước và hy vọng của con
18
người, đã khẳng định rõ chức năng của mình trong sự phát triển của
đời sống xã hội [42, tr.11].
- Chức năng nhận thức:
Nhận thức là đặc tính phân biệt con người với các sinh vật khác.
BDNT trang bị cho con người những tri thức cần thiết để làm chủ thiên
nhiên, làm chủ xã hội và bản thân. BDNT chính là tấm gương phản ánh
cuộc sống. Thông qua BDNT con người có thể tự chiêm ngưỡng về mình:
mình đã sinh ra, tồn tại, vận động, phát triển qua những thời kỳ nào, đang
sống và khát vọng tới đâu. Vì cuộc sống ở trong BDNT là hiện thực ở cuộc
đời, được bắt nguồn từ cuộc đời, phụ thuộc vào quy luật của cuộc đời và
được nghệ sỹ khái quát sáng tạo để nói về cuộc đời. Chức năng nhận thức
của BDNT không đơn thuần là phản ánh những tri thức của con người mà
còn hướng tới mục đích cao đẹp thể hiện tính nhân văn là bản chất của
BDNT. Nâng cao trình độ nhận thức của con người bằng BDNT là việc
phát huy những tiềm năng sáng tạo của con người. Tạo tiền đề quan trọng
để hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội.
- Chức năng giáo dục:
BDNT không chỉ là tấm gương phản chiếu cuộc đời, mà còn là cuốn
sách giáo khoa vĩ đại giảng giải cuộc đời về cái đẹp, cái xấu; cái thiện, cái
ác; cái thực, cái giả, cái tiên tiến, cái lạc hậu, cái mới, cái cũ, cái vui, cái
buồn… và giúp con người có sức mạnh, niềm tin để vươn lên cái cao cả,
hoàn thiện cuộc đời. Thông qua các tác phẩm, các hình tượng nghệ thuật,
BDNT đã tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất
con người, làm cho con người dần dần có những phẩm chất và năng lực theo
chuẩn mực xã hội đề ra. BDNT làm cho con người đã biết lại biết được
nhiều hơn, đã hiểu lại hiểu được sâu hơn, đã tin lại càng tin hơn và làm cho
con người được lớn hơn cái bản thân họ vốn có. BDNT thực hiện việc giáo
19
dục bằng cách tác động vào lý trí và tình cảm của con người, đánh thức, nuôi
dưỡng những cảm xúc nhân tính hướng con người tới cái đẹp, cái thiện. Nhờ
vậy, BDNT đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách con
người. Với chức năng giáo dục, BDNT tạo nên sự phát triển liên tục của lịch
sử mỗi dân tộc cũng như lịch sử nhân loại, gắn các thế hệ với mục tiêu
hướng đến Chân - Thiện - Mỹ.
- Chức năng thẩm mỹ:
Sống theo yêu cầu của cái đẹp và vì cái đẹp là nhu cầu của con
người. BDNT thông qua các hoạt động, sản phẩm của mình nhằm đáp ứng
nhu cầu đó của con người. Nói cách khác, BDNT là biểu hiện tập trung
nhát quá trình sáng tạo của con người theo quy luật của cái đẹp. Với BDNT
con người có thể tự thanh lọc mình theo hướng vươn tới cái đẹp và phê
phán những thói hư tật xấu của mỗi con người. Với chức năng thẩm mỹ,
BDNT nhấn mạnh sự cần thiết phải có lối ứng xử xã hội thích hợp, ngăn
ngừa những thói xấu, phi xã hội, phi nhân tính bằng cách biểu hiện thái độ
khinh bỉ tức giận và chê cười những gì xa rời với các chuẩn mực đã được
nhân dân thừa nhận đồng thời ca ngợi những ứng xử phù hợp với chuẩn
mực được số đông thừa nhận và phù hợp với tiến bộ xã hội.
- Chức năng giải trí:
Trong cuộc sống, ngoài lao động và sáng tạo, con người có nhu cầu
giải trí. Nhu cầu giải trí được xác định là nhu cầu sản xuất và tiêu thụ các
sản phẩm văn hóa. Để tái tạo sức lao động, con người phải được nghỉ ngơi
và nghỉ ngơi phải được đáp ứng và tổ chức tốt. Do đó, văn hóa giải trí phải
trở thành một nhu cầu căn bản của xã hội. Là một bộ phận của văn hóa,
BDNT đem đến cho mọi người niềm khoái cảm, giải trí. Khi nghe một bản
nhạc, xem một vở kịch, người hưởng thụ không chỉ tiếp nhận nội dung tư
tưởng và nghệ thuật của tác phẩm mà còn có được những phút thư giãn tâm