Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Dạy học phân môn vẽ trang trí trong trường tiểu học tiên phương, chương mỹ , hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.93 MB, 85 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG

LÊ VĂN TÙNG

DẠY HỌC PHÂN MÔN VẼ TRANG TRÍ
TRONG TRƯỜNG TIỂU HỌC TIÊN PHƯƠNG,
CHƯƠNG MỸ, HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC BỘ MÔN MỸ THUẬT
Khóa 1 (2015 - 2017)

Hà Nội, 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG

LÊ VĂN TÙNG

DẠY HỌC PHÂN MÔN VẼ TRANG TRÍ
TRONG TRƯỜNG TIỂU HỌC TIÊN PHƯƠNG,
CHƯƠNG MỸ, HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học bộ môn mỹ thuật
Mã số: 60140111

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đinh Gia Lê


Hà Nội, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu trong luận văn là trung thực và chưa có công bố trong công trình nghiên
cứu khoa học nào khác. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm với lời cam đoan
của mình.
Hà Nội, ngày 20 tháng 01 năm 2018
Tác giả

Lê Văn Tùng


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BCH

Ban Chấp hành

CTQG

Chính trị quốc gia

GD&ĐT

Giáo dục và Đào tạo

GV

Giáo viên


HCM

Hồ Chí Minh

PGS

Phó giáo sư

SPNTTW

Sư phạm Nghệ thuật Trung ương

Tp

Thành phố

tr.

trang

TS

Tiến sĩ

VHTT

Văn hóa thể thao

VH-TT


Văn hóa thông tin
Formatted: Font color: Black
Formatted: Font color: Black


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH DẠY
HỌC PHÂN MÔN TRANG TRÍ Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC TIÊN PHƯƠNG....7
1.1. Cơ sở lí luận dạy học mĩ thuật ở bậc tiểu học .......................................... 7
1.1.1. Khái niệm dạy học mĩ thuật và phân môn trang trí .............................. 7
1.1.2. Ý nghĩa và vai trò của dạy học mĩ thuật ở bậc tiểu học ...................... 10
1.2. Cơ sở thực tiễn dạy học mĩ thuật ở bậc tiểu học .................................... 11
1.2.1. Thực trạng của việc dạy học mĩ thuật ở bậc tiểu học ......................... 11
1.2.2. Đặc điểm của môn mĩ thuật tiểu học................................................... 13
1.2.3. Đặc điểm chung của học sinh tiểu học ................................................ 14
1.3. Nội dung và phương pháp của phân môn trang trí bậc tiểu học ............ 17
1.3.1. Nội dung của môn Mĩ thuật ................................................................ 17
1.3.2. Thời lượng và đặc điểm của phân môn vẽ trang trí ............................ 17
1.3.3. Phương pháp dạy học của phân môn vẽ trang trí ................................ 20
1.4. Khái quát về trường tiểu học Tiên Phương ............................................ 22
1.4.1. Vị trí và cơ sở vật chất ........................................................................ 22
1.4.2. Đội ngũ giáo viên ................................................................................ 23
1.4.3. Đặc điểm riêng của học sinh nhà trường ............................................ 23
1.4.4. Thực trạng dạy học phân môn vẽ trang trí tại trường tiểu học
Tiên Phương .................................................................................................. 24
1.5. Đánh giá về thực trạng dạy học phân môn trang trí ............................... 27
1.5.1. Ưu điểm ............................................................................................... 27
1.5.1.1. Trong lĩnh vực giáo dục mỹ thuật .................................................... 27

1.5.2. Hạn chế và nguyên nhân ..................................................................... 29
Tiểu kết .......................................................................................................... 31
Chương 2: ĐỀ XUẤT CÁC BIỆN PHÁP VÀ THỰC NGHIỆM DẠY HỌC
PHÂN MÔN VẼ TRANG TRÍ ..................................................................... 33
2.1. Căn cứ đề xuất các biện pháp ................................................................. 33


2.2. Một số các biện pháp cụ thể ................................................................... 35
2.2.1. Về mặt nội dung .................................................................................. 35
2.2.2. Về mặt phương pháp ........................................................................... 38
2.2.3. Biên soạn một bài giảng mẫu .............................................................. 40
2.2.4. Các biện pháp tổ chức thực hiện ......................................................... 48
2.3. Tổ chức thực nghiệm một số biện pháp trong nhà trường ..................... 50
2.3.1. Những vấn đề chung về thực nghiệm ................................................. 50
2.3.2. Nội dung thực nghiệm ......................................................................... 51
2.3.3. Phân tích kết quả thực nghiệm ............................................................ 53
Tiểu kết .......................................................................................................... 58
KẾT LUẬN ................................................................................................... 59
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 61
PHỤ LỤC ...................................................................................................... 65


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghệ thuật trang trí xuất phát từ thực tiễn, phản ánh cuộc sống đời
thường, nhưng không rập khuôn mà đòi hỏi phải luôn tạo ra cái mới, cái lạ,
cái đẹp, nhiều hình nhiều vẻ từ bố cục, hình mảng, họa tiết cho đến màu sắc.
Trang trí có một đặc điểm nổi bật là yêu cầu người học phải luôn suy nghĩ,

luôn sáng tạo không ngừng để có những bài tập phong phú, đẹp về hình, đẹp
về màu sắc. Vì thế, học trang trí giúp cho học sinh năng lực làm việc: dám
nghĩ, dám làm, dám thay đổi phương pháp làm việc tư duy, khoa học và sáng
tạo. Vẽ trang trí mang tính giáo dục rất lớn: Bồi dưỡng và phát triển cho học
sinh phẩm chất của con người lao động - lao động sáng tạo, trang trí gần gũi
gắn bó với cuộc sống nó tạo ra các sản phẩm phục vụ sinh hoạt hàng ngày, tạo
cho người học có một kiến thức thẩm mỹ cơ bản và toàn diện nhất.
Hiện nay, trong thực tiễn giảng dạy phân môn vẽ trang trí trong nhà
trường cho thấy: về nhận lực, các trường học đã bố trí đủ số lượng giáo viên
dạy mĩ thuật, được đào tạo đúng chuyên ngành, yêu nghề có tinh thần nhiệt
huyết trong công tác giảng dạy. Về vật lực, nhiều trường có cơ sở vật chất
được trang bị đầy đủ như phòng học chức năng, học liệu, đồ dùng dạy học.
Tuy nhiên, có một thực tế rằng chất lượng dạy - học phân môn này chưa đạt
được mục tiêu đề ra. Điều này đến từ nhiều phía như: còn một bộ phận không
ít giáo viên chưa được chuẩn hóa đủ kiến thức, kĩ năng nghề nghiệp, còn hiểu
biết chưa đủ về nghệ thuật trang trí và phương pháp dạy học phân môn vẽ
trang trí. Do đó, trong quá trình giảng dạy, giáo viên đưa đến kiến thức cho
học sinh một cách chung chung, chưa chú ý đến trọng tâm, chưa chú ý đến
mức độ phát huy khả năng sáng tạo của học sinh,... Do vậy, kết quả học tập
của học sinh chưa cao, bài vẽ của học sinh thiếu tính sáng tạo về bố cục,
đường nét, họa tiết và màu sắc.


2

Xuất phát từ thực tế công tác giảng dạy bộ môn Mĩ thuật trong trường
tiểu học, qua quá trình trao đổi, học hỏi kinh nghiệm của các đồng nghiệp,
chúng tôi nhận thấy rằng phân môn trang trí là một trong những phân môn mĩ
thuật, có những ngôn ngữ nghệ thuật mang đặc thù riêng và kiến thức của
môn này khá thuận tiện trong việc vận dụng trong cuộc sống. Trong chương

trình môn Mĩ thuật, phân môn vẽ trang trí không được đặt thành một phần
riêng mà nó được sắp xếp xen kẽ với các phân môn khác: Vẽ theo mẫu, Nặn
tạo dáng, Vẽ tranh đề tài, Thường thức mĩ thuật. Điều này góp phần làm
phong phú nội dung môn Mĩ thuật ở bậc tiểu học.
Là một giáo viên dạy học mĩ thuật, chúng tôi luôn trăn trở và suy nghĩ
làm thế nào để các em học tốt phân môn vẽ trang trí? Làm thế nào để nâng
cao chất lượng phân môn vẽ trang trí? Chính vì vậy, tôi đã quyết định chọn đề
tài: “Dạy học phân môn vẽ trang trí trong trường tiểu học Tiên Phương,
Chương Mỹ, Hà Nội’’ để đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
giờ dạy phân môn vẽ trang trí trong nhà trường. Chúng tôi mong muốn rằng,
kết quả nghiên cứu của đề tài này sẽ góp phần khắc phục được vấn đề bất cập
đã và đang tồn tại trong dạy học phân môn trang trí ở bậc tiểu học khi đưa ra
các biện pháp thích hợp, nâng cao trình độ của giáo viên, tạo được không khí
hứng thú, khơi nguồn khả năng tư duy sáng tạo và đặc biệt là sự yêu thích của
học sinh với phân môn này.
2.Tình hình nghiên cứu
Trong giáo dục nghệ thuật, nội dung mĩ thuật có vị trí quan trọng nên
trong chương trình giáo dục năm 2000, lĩnh vực mĩ thuật được xem là một
trong những môn học được quy định trong kế hoạch đào tạo ở bậc tiểu học,
góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện. Cùng
với đó, đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực này và có
thể chia thành 2 giai đoạn sau:


3

- Trước năm 2000 (lấy mốc theo chương trình giáo dục năm 2000)
Một số cuốn sách viết về phương pháp dạy học mĩ thuật giai đoạn này
có thể kể đến là: Tác giả Phạm Minh Tuân biên soạn cuốn Phương pháp
giảng dạy Mỹ thuật vào năm 1996 [29]. Nội dung liên quan đến tranh trí được

tác giả trình bày từ khái niệm cơ bản, cho đến cách dạy sao cho phù hợp với
đối tượng là sinh viên ngành mĩ thuật. Cũng theo mạch kiến thức này, tác giả
Trần Minh Lân biên soạn cuốn Giáo trình Mỹ thuật I vào năm 1997 [12].
Năm 1998, tác giả Ngô Bá Công biên soạn cuốn Giáo trình Mỹ thuật cơ bản
[8]. Về cơ bản, 3 cuốn sách này là tài liệu tham khảo giúp chúng tôi có được
cách tiếp cận về phương pháp dạy trang trí ở đại học, cũng như kiến thức cơ
bản trong lĩnh vực này.
- Sau năm 2000
Năm 2000, khi mĩ thuật, cùng với âm nhạc và thủ công, được chính
thức nằm trong nội dung giáo dục bắt buộc (giáo dục nghệ thuật) thì có rất
nhiều tác giả viết về phương pháp dạy học mĩ thuật.
Năm 2000, hai tác giả Nguyễn Lăng Bình, Phạm Thị Chỉnh viết cuốn
Mỹ thuật và phương pháp giảng dạy [3]. Cuốn sách này được biên soạn nhằm
trang bị cho giáo viên có kiến thức để tổ chức dạy học nội dung phân môn
trang trí. Năm 2001, tác giả Nguyễn Quốc Toản viết cuốn Phương pháp giảng
dạy Mĩ thuật [27]. Với lợi thế là tác giả của bộ sách mĩ thuật phổ thông nên
nội dung của cuốn sách mà tác giả Nguyễn Quốc Toản đưa ra bám sát vào
sách giáo khoa, theo từng bài trong phân môn.
Năm 2002, Bộ Giáo dục và Đào tạo chính thức ban hành Chương trình
giáo dục phổ thông - Chương trình tổng thể [4]. Sau thời điểm này, tác giả Hồ
Văn Thùy biên soạn cuốn Bài giảng Mĩ thuật - phương pháp giảng dạy Mĩ
thuật [26]. Trong cuốn sách này, tác giả đã bàn luận về những kiến thức cơ
bản và phương pháp dạy học phân môn trang trí bám sát theo chương trình
giáo dục mĩ thuật đã được ban hành.


4

Đến năm 2012, tác giả Nguyễn Thu Tuấn biên soạn cuốn Giáo trình
phương pháp dạy học Mĩ thuật 1-2 [30], dành cho sinh viên ngành Nghệ thuật

của khối trường sư phạm nói chung.
Đến năm 2017, khi Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể được
soạn thảo, nhóm tác giả Đinh Gia Lê, Vương Trọng Đức, Phạm Minh
Phong,... biên soạn cuốn Giáo dục mĩ thuật phổ thông - Giai đoạn giáo dục
cơ bản [14]. Trong cuốn sách này, trang trí không còn là một phân môn độc
lập mà nằm chung trong các lĩnh vực khác như: Tạo hình - Thiết kế - Bình
luận mĩ thuật.
Bên cạnh đó, nhiều hội thảo "Đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng phát triển năng lực học sinh" liên quan đến đổi mới phương pháp dạy
học nói chung và phương pháp dạy học mỹ thuật nói riêng cũng được tổ chức
từ trung ương đến địa phương. Đây chính là cơ sở, căn cứ cho việc chuyển từ
hình thức dạy học cung cấp kiến thức sang phát triển năng lực và phẩm chất
người học.
Như vậy, có thể thấy những cuốn sách viết về phương pháp dạy trang
trí ở bậc tiểu học có nhiều nhưng chỉ nói về phương pháp chung mà chưa có
đầu sách nghiên cứu cụ thể về giảng dạy phân môn vẽ trang trí trong nhà
trường cụ thể, đặc biệt trong phạm vi nghiên cứu là Trường tiểu học Tiên
Phương, Chương Mỹ, Hà Nội thì chưa có. Do đó, nghiên cứu của đề tài xem
như là sự tiếp nối với những công trình nghiên cứu trước đây trong lĩnh vực
này, cũng như góp phần nâng cao hiệu quả dạy học nội dung này trong thời
gian tới của nơi mà chúng tôi đang công tác.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 . Mục đích nghiên cứu
Qua nghiên cứu thực trạng dạy học phân môn trang trí ở Trường tiểu học
Tiên Phương, Chương Mỹ, Hà Nội để đưa ra những biện pháp dạy học nhằm
nâng cao chất lượng dạy và học phân môn vẽ trang trí tại nhà trường.


5


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của phân môn vẽ trang trí trong
chương trình giáo dục mĩ thuật ở bậc tiểu học.
- Thực trạng việc giảng dạy phân môn vẽ trang trí trong trường tiểu học
Tiên Phương, Chương Mỹ, Hà Nội.
- Đề xuất một số nội dung và phương pháp dạy phân môn trang trí.
- Thực nghiệm của vấn đề nghiên cứu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nội dung và phương pháp dạy học phân môn vẽ trang trí ở bậc tiểu học.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu: trong năm học 2016 - 2017.
Không gian nghiên cứu: Trường tiểu học Tiên Phương, Chương Mỹ,
Hà Nội.
Thực nghiệm: giờ học phân môn trang trí của học sinh lớp 4, 5.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích tổng hợp : Tổng hợp thông tin liên quan đến nội
dung, phương pháp dạy học phân môn trang trí qua sách và các tài liệu tham khảo.
Qua đó, phân tích để xây dựng khung lý thuyết cho nghiên cứu của đề tài.
- Phương pháp phỏng vấn: lấy ý kiến của học sinh, giáo viên về mức độ
quan tâm đến phân môn trang trí, cũng như hiệu quả của những biện pháp đã và
đang thực hiện ở nội dung dạy học phân môn trang trí trong Trường tiểu học Tiên
Phương.
- Phương pháp thực nghiệm: Căn cứ những nội dung, phương pháp dạy học
phân môn trang trí, chúng tôi tiến hành thực nghiệm để kiểm tra tính khả thi của
những biện pháp trong thực tiễn giáo dục của nhà trường.


6


6. Những đóng góp của luận văn
- Đánh giá bước đầu về hiệu quả của cách thức đang triển khai dạy học
phân môn vẽ trang trí ở Trường tiểu học Tiên Phương, Chương Mỹ, Hà Nội.
- Qua nghiên cứu lí luận và thực tiễn đề ra một số biện pháp nhằm nâng
cao chất lượng dạy - học phân môn vẽ trang trí của giáo viên và học sinh trường
tiểu học Tiên Phương, Chương Mỹ, Hà Nội.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài cũng là nguồn tài liệu tham khảo cho
giáo viên dạy mĩ thuật ở một số trường tiểu học trên địa bàn huyện Chương
Mỹ, cũng như tham khảo cho những hướng nghiên cứu liên quan.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và phụ lục luận văn
gồm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và tổng quan về tình hình dạy học phân môn trang
trí ở trường tiểu học
Chương 2: Đề xuất những biện pháp và thực nghiệm dạy học phân môn vẽ
trang trí ở Trường tiểu học Tiên Phương


7

Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH DẠY HỌC PHÂN
MÔN TRANG TRÍ Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC TIÊN PHƯƠNG
1.1. Cơ sở lí luận dạy học mĩ thuật ở bậc tiểu học
1.1.1. Khái niệm dạy học mĩ thuật và phân môn trang trí
1.1.1.1. Mĩ thuật
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, mĩ thuật là:
I (danh từ). Ngành nghệ thuật phản ánh cái đẹp bằng sắc màu,
đường nét, hình khối: triển lãm mĩ thuật. II (tính từ). Có tính nghệ
thuật, hợp với thẩm mĩ: cách trình bày, trang trí rất mĩ thuật. [33,

tr.1120].
Trong Từ điển thuật ngữ mĩ thuật phổ thông, mĩ thuật:
(A. fine arts; P. beaux arts) Từ dùng để chỉ các loại hình nghệ thuật
tạo hình chủ yếu là hội họa, đồ họa, điêu khắc, kiến trúc. Nói cách
khác, từ mĩ thuật (đẹp + nghệ thuật) chỉ cái đẹp do con người hoặc
thiên nhiên tạo ra mà mắt ta nhìn thấy được [16, tr.106].
Với cách tiếp cận này, mĩ thuật xuất hiện từ rất lâu, gắn liền với sự phát
triển của lịch sử loài người trong việc tri nhận những sự vật, hiện tượng trong
mối quan hệ với cuộc sống. Sau này, khi mỗi loại hình trong mĩ thuật có
những phát triển thành những hệ thống tương đối độc lập đã tạo nên những
ngành riêng như hội họa, điêu khắc, trang trí, kiến trúc, nghệ thuật đương
đại,… Một số loại hình trong mĩ thuật gồm:
Hội họa: nghệ thuật vẽ dùng màu sắc, hình mảng, đường nét để diễn đạt cảm
xúc của người vẽ trước vẻ đẹp của con người, thiên nhiên, xã hội… [16, tr.88].
Điêu khắc: nghệ thuật thực hiện những tác phẩm có không gian ba
chiều (tượng tròn) hoặc hai chiều (chạm khắc, chạm nổi) bằng cách gọt, đẽo,
gò, đắp, gắn… những khối vật liệu rắn chắc như gỗ, đá, kim loại… [16, tr.65].


8

Đồ họa: một ngành vẽ, trong đó người ta dùng kĩ thuật in ấn để thể hiện
tác phẩm, sản xuất ra hàng loạt bản để có thể phổ biến rộng rãi [16, tr.67].
Nghệ thuật đương đại: là tên gọi các trào lưu nghệ thuật xuất hiện tại
phương Tây kể từ sau Thế chiến II… thuật ngữ Nghệ thuật đương đại không
những được dùng để xác định về mặt thời gian, mà còn để phân biệt về mặt
hình thức với những loại hình đã và đang theo đuổi con đường của các trào
lưu, phong cách thuộc chủ nghĩa Hiện đại đã định hình, phát triển mạnh từ
cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX [13, tr.5].
Như vậy, tựu chung khái niệm mĩ thuật nói đến một loại hình nghệ

thuật có ngôn ngữ riêng là đường nét, màu sắc, hình khối tác động trực tiếp
đến thị giác.
1.1.1.2. Trang trí
Theo Từ điển mĩ thuật phổ thông: Trang trí là “nghệ thuật làm đẹp,
phục vụ cho đời sống vật chất và tinh thần của con người” [16, tr.134]. Như
vậy, trang trí là khái niệm chỉ việc làm đẹp nói chung, trong đó có sử dụng
những nguyên lí như cân đối, đối xứng, đường diềm,… Khi đi sâu vào nghiên
cứu thì chúng ta thấy có một số thuật ngữ liên quan chỉ những trạng thái, mức
độ khác nhau như: trang trí, trang hoàng, trang điểm, trình bày, bố cục, sắp
xếp,… Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi sử dụng khái niệm
“trang trí” để chỉ tên một phân môn trong lĩnh vực mĩ thuật ở trường phổ
thông, gồm hai dạng: trang trí cơ bản và trang trí ứng dụng. Trang trí cơ bản
là dạng bài vẽ họa tiết, màu sắc theo các hình như trang trí hình vuông, trang
trí hình chữ nhật, trang trí hình tròn, trang trí chữ,… Trang trí ứng dụng là các
dạng bài vận dụng những kiến thức trong phân môn trang trí để làm đẹp cho
những sản phẩm gần gũi như trang trí cái khăn, chậu cây, cái đĩa, lọ hoa, kẻ
khẩu hiệu, trang trí đầu báo tường,… Trong lĩnh vực giáo dục mỹ thuật ở bậc
tiểu học, ở chương trình giáo dục hiện hành, cùng với phân môn vẽ trang trí


9

còn có các phân môn khác như: vẽ theo mẫu, vẽ tranh, tập nặn tạo dáng,
thường thức mỹ thuật.
1.1.1.3. Dạy học mĩ thuật
Trong nhà trường phổ thông, dạy học mĩ thuật nhằm trang bị cho học
sinh một số kiến thức phổ thông và cần thiết về mĩ thuật, những khái niệm,
các loại hình, kiến thức cơ bản liên quan đến ngôn ngữ riêng của loại hình này
nhằm giúp học sinh hoàn thành được các bài tập quy định ở chương trình.
Theo đó, dạy học mĩ thuật ở bậc phổ thông không nhằm đào tạo nên những

người làm nghệ thuật chuyên nghiệp (họa sĩ, nhà điêu khắc, nhà thiết kế,…)
mà có mục đích giúp học sinh cho được nhận thức ban đầu về loại hình nghệ
thuật này, cũng như góp phần nâng cao thị hiếu thẩm mỹ, biết cách tạo ra
những sản phẩm mĩ thuật phù hợp với lứa tuổi, cũng như bước đầu biết cách
thưởng thức những tác phẩm, sản phẩm mĩ thuật theo cách phân giải những
yếu tố cấu thành. Để đạt được mục tiêu đề ra, việc dạy học mĩ thuật ở bậc phổ
thông cần theo một số nguyên tắc:
Thứ nhất, môn mĩ thuật có tính giáo dục. Đó là, môn học giúp cho học
sinh có con mắt tinh xảo; bàn tay khéo léo; óc quan sát; có cảm nhận, hiểu
biết về những hình thể màu sắc và đó là cơ sở cho việc phát triển trí tưởng
tượng cũng như tình cảm với cảnh vật và con người xung quanh. Đồng thời,
những kiến thức của môn học này sẽ hỗ trợ cho các môn liên quan đến các kĩ
năng như khéo tay, quan sát, liên tưởng, tưởng tượng,…
Thứ hai, người học (học sinh) và người dạy (giáo viên) được “tự do”
trong quá trình giáo dục mĩ thuật. Tự do cho học sinh không phải học sinh
muốn vẽ gì thì vẽ mà là khi học sinh vẽ theo một sự vật, chủ đề nào đó thì
người dạy không được bắt các em phải vẽ theo cách thấy, cách vẽ của mình.
Tự do cho người dạy được hiểu là giáo viên phải dạy hết chương trình đã
được quy định, nội dung đã được biên soạn trong sách giáo khoa nhưng giáo


10

viên được lựa chọn những phương pháp, cách thức triển khai bài dạy phù hợp
với điều kiện, đặc thù của học sinh ở nơi công tác (những vẫn đảm bảo theo
nội dung giáo dục đã được quy định). Sự tự do này giúp giáo viên phải suy
nghĩ, vận dụng khéo léo những tri thức chuyên ngành sao cho phù hợp với
đặc điểm tâm sinh lí và mỗi cá nhân trong lớp học. Có thể diễn đạt theo cách
khác là giáo viên chỉ theo những nguyên tắc, quy trình đã được thiết kế trong
sách, còn những chi tiết thì người dạy có quyền thay đổi sao cho phù hợp với

hoàn cảnh, miễn sao đảm bảo đúng mục tiêu cần đạt được của bài học.
Thứ ba, không áp đặt, làm hộ và tôn trọng sự sáng tạo của người học
(học sinh). Việc dạy học mĩ thuật cần lưu ý đến sự khơi gợi cách thức để học
sinh tự mình làm ra sản phẩm, việc gợi ý cần chú ý đến sự phát triển trong
nhận thức của học sinh. Thay bằng việc giáo viên vẽ một đồ vật có sẵn lên
bảng để học sinh xem và vẽ theo thì giáo viên cần phân tích hình dáng, màu
sắc của đồ vật để học sinh tiếp nhận, xử lý đồ vật đó theo cách riêng của
mình. Bởi ở lứa tuổi học sinh (nhất là bậc tiểu học) thì khả năng bắt chiếc rất
lớn và điều này cản trở đến sự sáng tạo trong môn học.
1.1.2. Ý nghĩa và vai trò của dạy học mĩ thuật ở bậc tiểu học
Môn mĩ thuật thuộc lĩnh vực giáo dục nghệ thuật và có ngôn ngữ biểu
đạt riêng nên muốn hiểu đúng về loại hình này cần phải hiểu về đặc điểm
ngôn ngữ của nó. Do đó, dạy học mĩ thuật ở bậc phổ thông có mục tiêu trang
bị cho học sinh những kiến thức ban đầu, cơ bản về mĩ thuật để từng bước
giúp học sinh có được thị hiếu thẩm mỹ lành mạnh, hình thành được tư duy và
năng lực thẩm mĩ cho bản thân, có khả năng nhận biết, thưởng thức, phân
tích, đánh giá các sản phẩm mĩ thuật và biết vận dụng các kỹ năng của môn
học vào học tập và cuộc sống. Trong chương trình giáo dục, mỗi phân môn
đều có những ý nghĩa giáo dục riêng.


11

Trong phân môn vẽ theo mẫu, học sinh được rèn luyên khả năng tập
chung, tính ước lượng và sự liên hệ giữa các bộ phận của vật thể.
Ở phân môn trang trí, học sinh được học về tính cách điệu, sự kết hợp
của đường nét và màu sắc theo những quy ước nhằm tạo nên những hình thức
trang trí nhất định. Ở phân môn này, học sinh sử dụng trí tưởng tượng để tạo
nên một bài trang trí hài hòa, đẹp mắt và vận dụng để trang trí những đồ vật
cụ thể trong cuộc sống.

Trong phân môn vẽ tranh, học sinh được rèn luyên khả năng tái hiện lại
ký ức, kích thích sự liên tưởng, tưởng tượng để sáng tạo nên những bài thực
hành. Trong phần này, giáo viên căn cứ theo những chủ đề cho trước và
hướng dẫn mỗi học sinh trình bày chủ đề này theo cách riêng của mình, học
sinh có thể vận dụng các kỹ năng được hình thành trong môn học như quan
sát, tưởng tượng,…
Với phân môn thường thức mĩ thuật, học sinh được làm quen cách phân
giải những yếu tố riêng của mĩ thuật như đường nét, màu sắc, bố cục,… cũng
như hoàn cảnh sáng tác, thông điệp mà tác giả gửi gắm nhằm cảm nhận cái
hay, ý nghĩa riêng mà mỗi tác phẩm, sản phẩm mĩ thuật được sáng tạo.
Phân môn tập nặn tạo dáng giúp học sinh có được tư duy tạo hình trong
không gian ba chiều, làm nổi bật những chi tiết của một hình ảnh, bộ phận mà
không thể diễn đạt trên giấy. Ở phân môn này, học sinh được làm quen với
những hình khối đơn giản và chủ yếu sử dụng bằng chất liệu đất sét, bìa các
tông,… Với những bài tập tạo dáng sản phẩm sẽ giúp học sinh có được tư duy
về hình khối trong không gian, theo những diện khác nhau chứ không đơn
thuần là 2 chiều trên tờ giấy.
1.2. Cơ sở thực tiễn dạy học mĩ thuật ở bậc tiểu học
1.2.1. Thực trạng của việc dạy học mĩ thuật ở bậc tiểu học
Trong cuốn Giáo trình phương pháp dạy - học mĩ thuật, tác giả Nguyễn
Quốc Toản đã nêu:


12

… quan niệm về mục đích, vị trí, nhiệm vụ của môn mĩ thuật chưa
đúng đắn ở cán bộ quản lí, giáo viên, phụ huynh. Môn mĩ thuật
được xem là môn học phụ, từ đí dạy và học thường chưa được chú
ý, nhiều địa phương thiếu giáo viên, vì thế dạy và học mĩ thuật
thiếu hệ thống, có nơi học sinh không được học mĩ thuật,… [27,

tr.14].
Về cơ bản, việc dạy học mĩ thuật ở bậc tiểu học đã qua nhiều giai đoạn. Trước
năm 1954, dạy học mĩ thuật ở trường phổ thông chỉ được thực hiện ở các tỉnh,
thành phố lớn và theo chương trình mĩ thuật của Pháp hoặc tự biên soạn. Từ
năm 1954 đến năm 1975, ở miền Bắc, việc dạy học mĩ thuật chưa được rộng
khắp, chưa có tài liệu mĩ thuật ở bậc tiểu học và sách mĩ thuật chủ yếu được
biên soạn theo chương trình của các nước xã hội chủ nghĩa, chủ yếu là Liên
Xô (cũ). Ở miền Nam, vẽ là môn học bắt buộc trong Chương trình tiểu học
ban hành ngày 16 tháng 7 năm 1959. Điểm thú vị là ở lớp 1, 2, môn này chia
ra cho học sinh nam và nữ (học sinh nam học 50 phút/ tuần và học sinh nữ
học 25 phút/ tuần). Ở lớp 3, 4 học chung (50 phút/ tuần). Ở lớp 5 học 1 giờ 40
phút/ tuần.
Sau khi đất nước thống nhất (1975), chương trình giáo dục được thống
nhất hai miền nhưng chương trình mĩ thuật chưa có hiệu lực về mặt pháp lí.
Nhiều nơi thường tự sửa chữa, thay đổi tùy tiện theo từng tỉnh, đôi khi theo
từng huyện, quận. Phải đến đợt cải cách giáo dục năm 1980, môn mĩ thuật ở
trường phổ thông mới được quan tâm và biên soạn một cách có hệ thống, bài
bản. Hội đồng bộ môn mĩ thuật trong đợt cải cách này gồm: VS.GS - HS Trần
Văn Cẩn, GS.HS Phạm Công Thành, PGS.HS Nguyễn Lương Tiểu Bạch.
Chương trình mĩ thuật được xây dựng trên cơ sở tham khảo chương trình mĩ
thuật của các nước trong khu vực châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ,
Lào, Thái Lan,… Nội dung môn học gồm các phân môn: Vẽ theo mẫu, vẽ


13

trang trí, vẽ tranh, giới thiệu mĩ thuật (phân môn tạo dáng tập nặn nằm trong
phần thủ công).
Từ năm 2000 đến nay, chương trình mĩ thuật được xây dựng mới phù
hợp với tình hình, mục đích, điều kiện phát triển xã hội. Điều kiện dạy học mĩ

thuật ngày càng được cải thiện như trang thiết bị ngày một đầy đủ. Vấn đề
đào tạo, bồi dưỡng giáo viên ngày một tăng và có chất lượng. Nhìn chung,
chương trình mĩ thuật 2000 không có nhiều thay đổi về nội dung mà chủ yếu
là đổi mới cách vận dụng phương pháp dạy - học.
Giai đoạn 2006-2015, Bộ Giáo dục & Đào tạo Việt Nam (MOET) và
Bộ Ngoại giao Đan Mạch đã ký kết Dự án hỗ trợ giáo dục mĩ thuật tiểu học
(SAEPS), trong đó tập trung vào dạy học mĩ thuật theo phương pháp Đan
Mạch, với tổng số vốn 1,2 triệu USD. Dự án được thành lập với mục tiêu
khuyến khích suy nghĩ sáng tạo và phát triển nhận thức của trẻ em thông qua
việc phát triển các phương pháp sư phạm và tài liệu giảng dạy lấy học sinh
làm trung tâm.
1.2.2. Đặc điểm của môn mĩ thuật tiểu học
Dạy học mĩ thuật trong nhà trường ở bậc tiểu học gồm 5 phân môn
chính là:
Vẽ theo mẫu: là hình thức dạy vẽ bằng việc hướng dẫn học sinh quan
sát đối tượng (mẫu) có trước mặt và vẽ lại (mô phỏng) bằng cách nhìn, cách
nghĩ và cảm thụ riêng của mỗi học sinh. Trong cuốn Giáo trình Mĩ thuật và
phương pháp dạy học mĩ thuật, tác giả Nguyễn Quốc Toản đã lưu ý trong việc
dạy vẽ theo mẫu: “tả, mô phỏng lại theo mẫu chứ không phải sao chép, rập
khuôn như mẫu khi thiết kế. Như vậy, tuy cùng một mẫu, cùng một cách
hướng dẫn nhưng tất cả các bài vẽ sẽ không giống nhau” [27, tr.78]. Ông cũng
lí giải thêm rằng các bài vẽ theo mẫu không giống nhay bởi:


14

Mỗi người ngồi ở một vị trí khác nhau: ở chính diện, ở bên phải,
bên trái nên cách nhìn mẫu khác nhau; người ngồi cao, thấp, người
ngồi xa, gần sẽ nhìn mẫu không như nhau. Khả năng so sánh, phân
tích, ước lượng khác nhau nên nhận xét về kích thước, tỉ lệ của mẫu

ở mỗi người cũng không giống nhau. Cảm thụ vẻ đẹp của mẫu ở
mỗi người một khác, do vậy biểu hiện qua hình cũng khác nhau [27,
tr.78].
Vẽ trang trí: là cách sử dụng đường nét, hình mảng, đậm nhạt, màu sắc,
hình khối… để tạo nên sản phẩm phù hợp với nội dung, yêu cầu của từng
dạng bài. Phân môn này giúp học sinh vận dụng những kiến thức đã học vào
bài vẽ theo cách nghĩ, cách cảm thụ riêng của mỗi học sinh theo sự hướng dẫn
về nguyên tắc trong trang trí từ giáo viên.
Vẽ tranh: là tên gọi chung cho các hình thức vẽ về đề tài hay các thể
loại như tĩnh vật, chân dung, phong cảnh… trong đó: Vẽ tranh đề tài là học
sinh thực hành bài vẽ theo một đề tài cho trước; vẽ tự do là học sinh thực hiện
bài vẽ theo đề tài mà mình thích, hay có khả năng diễn đạt tốt nhất.
Thường thức mĩ thuật: là hoạt động dạy học giúp học sinh tiếp xúc, làm
quen với tác phẩm mĩ thuật và qua phân tích, tìm hiểu để cảm nhận những giá
trị nghệ thuật trong các tác phẩm.
Tập nặn và tạo dáng: là hoạt động giúp học sinh làm quen, hình thành
các thao tác đơn giản với các dạng hình khối và tạo hình đồ vật thông qua
chất liệu đất sét, bìa cứng, vỏ hộp,...
1.2.3. Đặc điểm chung của học sinh tiểu học

- Đặc điểm sinh lý và tâm lý
+ Đặc điểm về mặt sinh lý
Ở giai đoạn này, học sinh tiểu học có hệ xương còn nhiều mô sụn,
xương sống, xương hông, xương chân, xương tay đang trong thời kỳ phát


15

triển nên chưa cứng cáp. Hệ cơ đang trong thời kỳ phát triển mạnh nên các
học sinh rất thích các trò chơi vận động như chạy, nhảy, nô đùa. Hệ thần kinh

cấp cao đang hoàn thiện về mặt chức năng, do vậy tư duy của các em chuyển
dần từ trực quan hành động sang tư duy hình tượng, tư duy trừu tượng. Do đó,
các em rất hứng thú với các trò chơi trí tuệ như đố vui, các cuộc thi trí tuệ,…
+ Đặc điểm tâm lý
Nếu như ở bậc mầm non hoạt động chủ đạo của trẻ là vui chơi, thì đến
tuổi tiểu học hoạt động chủ đạo của trẻ đã có sự thay đổi về chất, chuyển từ
hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập, quá trình nhận thức có nhiều thay
đổi. Các cơ quan cảm giác: Thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác
đều phát triển và đang trong quá trình hoàn thiện. Tri giác của học sinh tiểu
học mang tính đại thể, ít đi vào chi tiết và mang tính không ổn định. Ở đầu
giai đoạn tiểu học, tri giác thường gắn với hành động trực quan, đến cuối giai
đoạn này (lớp 4, 5), tri giác bắt đầu mang tính xúc cảm, mang tính mục đích,
có phương hướng rõ ràng. Ở bậc tiểu học, học sinh thích quan sát các sự vật
hiện tượng có màu sắc sặc sỡ, hấp hẫn. Lúc này, tư duy mang đậm màu sắc
xúc cảm và chiếm ưu thế ở tư duy trực quan hành động. Các phẩm chất tư duy
chuyển dần từ tính cụ thể sang tư duy trừu tượng khái quát. Khả năng khái
quát hóa phát triển dần theo lứa tuổi, lớp 4, 5 bắt đầu biết khái quát hóa lý
luận. Tuy nhiên, hoạt động phân tích, tổng hợp kiến thức còn sơ đẳng ở phần
đông học sinh tiểu học. Tưởng tượng của học sinh tiểu học đã phát triển
phong phú hơn so với trẻ mầm non nhờ có bộ não phát triển và vốn kinh
nghiệm ngày càng dầy dạn.
Như vậy, ở giai đoạn đầu, việc chú ý có chủ định của học sinh còn yếu,
khả năng kiểm soát, điều khiển chú ý còn hạn chế. Ở giai đoạn này chú ý
không chủ định chiếm ưu thế hơn chú ý có chủ định. Học sinh lúc này chỉ


16

quan tâm chú ý đến những môn học, giờ học có đồ dùng trực quan sinh động,
hấp dẫn có nhiều tranh ảnh, trò chơi hoặc có cô giáo xinh đẹp, dịu dàng,… Ở

cuối tuổi tiểu học trẻ dần hình thành kĩ năng tổ chức, điều chỉnh chú ý của
mình. Chú ý có chủ định phát triển dần và chiếm ưu thế, ở học sinh đã có sự
nỗ lực về ý chí trong hoạt động học tập như học thuộc một bài thơ, một công
thức toán hay một bài hát dài,... Trong sự chú ý của học sinh đã bắt đầu xuất
hiện giới hạn của yếu tố thời gian, học sinh đã định lượng được khoảng thời
gian cho phép để làm một việc nào đó và cố gắng hoàn thành công việc trong
khoảng thời gian quy định.
- Đặc điểm về tư duy tạo hình
Học sinh ở bậc tiểu học thích vẽ nên đón nhận môn học một cách hồ
hởi. Khi vẽ, học sinh vẽ theo cách nhìn, cách nghĩ và sự thích thú của mình
mà không ngại ngần hay quá chú ý đến việc sai đúng.
Ở lớp 1: học sinh có nét vẽ tự nhiên. Do tay chưa cứng cáp nên nét vẽ
còn run rẩy. Học sinh vẽ các hình thể theo lối liệt kê, rời rạc thiếu sự liên kết.
Hình vẽ thường nhỏ và có tỷ lệ đều nhau. Do sử dụng dạng màu có sẵn
(không phải pha) nên màu sắc thường rực rỡ, mạnh.
Ở các lớp 2, 3: Bài vẽ đã có nhiều chi tiết hơn. Đã xuất hiện việc vẽ màu có
sắc độ. Việc quan sát mẫu và vẽ hình thể đã có sự tương đồng nhất định.
Ở lớp 4, 5: Học sinh đã có sự tập trung và cứng cáp hơn trong việc thể
hiện các nét vẽ và sử dụng màu có sự tinh tế hơn. Học sinh đã có ý thức về sự
xa gần, thay đổi hình thể để tạo cảm giác về không gian, làm cho bài vẽ trở
nên phong phú, đa dạng hơn.


17

1.3. Nội dung và phương pháp của phân môn trang trí bậc tiểu học
1.3.1. Nội dung của môn Mĩ thuật
Bảng 1: Thời lượng phân phối tiết học của môn mĩ thuật tiểu học
Phân môn
Lớp


Vẽ theo mẫu Vẽ trang trí Vẽ tranh

Thường thức Tập nặn tạo

(tiết)

(tiết)

(tiết)

mĩ thuật (tiết)

dáng (tiết)

1

9

9

10

4

2

2

9


8

9

4

4

3

8

8

9

5

4

4

8

9

9

4


4

5

8

9

9

4

4

Tổng

42

43

46

21

14

cộng
Môn mĩ thuật tiểu học gồm 1 tuần/ tiết và 35 tiết/ năm, bao gồm cả 2 tiết
kiểm tra học kì 1 và 2, 1 tiết tổng kết năm học.

Trong chương trình hiện nay, dạy học mĩ thuật ở bậc phổ thông được
thực hiện thống nhất và là môn học bắt buộc trong chương trình phổ thông.
Kết quả học tập môn mĩ thuật của học sinh được dùng để đánh giá, xếp loại
học sinh hàng năm [Phụ lục 1].
1.3.2. Thời lượng và đặc điểm của phân môn vẽ trang trí
Theo chương trình hiện hành, phân môn vẽ trang trí ở bậc tiểu học gồm
43 tiết, có số tiết nhiều thứ 2 sau phân môn vẽ tranh. Cụ thể là:
Bảng 2: Nội dung phân môn vẽ trang trí ở tiểu học
Lớp
1

Nội dung phân môn trang trí/ tiết
Màu và vẽ màu vào hình đơn giản
Vẽ màu và hình quả (trái) cây
Vẽ hình vuông và hình chữ nhật


18

Vẽ màu vào hình vẽ ở đường diềm
Vẽ màu vào các hoạ tiết ở hình vuông
Vẽ tiếp hình và màu vào hình vuông
Vẽ màu vào hình vẽ phong cảnh
Vẽ màu vào hình của tranh dân gian
Vẽ tiếp hình và màu vào hình vuông, đường diềm
Vẽ đường diềm trên áo, váy
2

Vẽ đậm, vẽ nhạt
Màu sắc, vẽ màu vào hình có sẵn

Vẽ tiếp họa tiết vào đường diềm và vẽ màu
Vẽ tiếp họa tiết vào hình vuông và vẽ màu
Trang trí đường diềm
Vẽ màu vào hình có sẵn tranh Gà mái.
Vẽ họa tiết dạng hình vuông, hình tròn
Vẽ thêm vào hình có sẵn (vẽ gà) và vẽ màu.
Trang trí hình vuông

3

Vẽ tiếp hoạ tiết và vẽ màu vào đường diềm
Vẽ tiếp hoạ tiết và vẽ màu vào hình vuông
Vẽ màu vào hình có sẵn
Trang trí cái bát
Vẽ màu vào hình có sẵn
Trang trí hình vuông
Vẽ màu vào dòng chữ nét đều
Vẽ tiếp hoạ tiết và vẽ màu vào hình chữ nhật
Vẽ màu vào hình có sẵn

4

Chép họa tiết trang trí dân tộc
Trang trí đường diềm
Trang trí hình vuông
Trang trí hình tròn
Tìm hiểu về kiểu chữ nét đều
Trang trí lọ hoa



19

Tạo dáng và trang trí chậu cảnh
5

Màu sắc trong trang trí
Vẽ họa tiết trang trí đối xứng qua trục
Trang trí đối xứng qua trục
Trang trí hình chữ nhật
Tìm hiểu về kiểu chữ in hoa nét thanh nét đậm
Tập kẻ kiểu chữ in hoa nét thanh nét đậm
Trang trí đầu báo tường
Trang trí cổng trại hoặc lều trại thiếu nhi
Với nội dung này, phân môn vẽ trang trí của đặc điểm hướng đến việc

học sinh phải luôn suy nghĩ, sáng tạo để có những bài tập đa dạng, phong phú.
Đặc điểm của vẽ trang trí thể hiện ở một số nội dung sau:
- Các họa tiết trong trang trí
Họa tiết trong trang trí là những hình vẽ rõ ràng, có đường nét cụ thể,
dứt khoát, mang tính đặc trưng của lối vẽ trang trí như đơn giản hóa, cách
điệu hóa,… Họa tiết trang trí được quan sát, nghiên cứu, ghi chép từ thực tế,
trong đó lược bỏ đi những chi tiết rườm rà không cần thiết và sắp xếp lại tạo
nên ấn tượng về mặt thị giác.
- Màu sắc sử dụng trong trang trí: phụ thuộc vào mục đích, nội dung
trang trí. Việc sử dụng màu sắc trong trang trí hướng đến sự hài hòa, trong đó
lưu ý đến mối quan hệ của các màu cạnh nhau (màu bổ túc, màu tương phản,
gam màu nóng, gam màu lạnh, màu chính - phụ,…), sắc độ (đậm - nhạt).
- Cách sắp xếp trong trang trí. Ở bậc tiểu học, trang trí theo 4 quy tắc sau:
+ Nhắc lại: đây là hình thức trang trí sử dụng một họa tiết nhiều lần xếp
theo một chiều của đường diềm, có thể theo chiều ngang của hình chữ nhật

hay chạy theo đường cong, đường tròn của hình tròn, hay theo chu vi của hình
vuông. Trong hình thức trang trí này, họa tiết có đặc điểm giống nhau từ màu
sắc, kích thước và có khoảng cách đều nhau.


×