Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Phân tích và đánh giá các quy định trong Bộ Luật Dân sự 2015 về giao dịch dân sự vô hiệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (81.83 KB, 15 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Để thỏa mãn nhu cầu trong cuộc sống của mình giao dịch dân sự là phương tiện
quan trọng , phố biến được các chủ thể sử dụng . Song , không phải bất cứ giao
dịch nào cũng đều có hiệu lực nhất là khi chủ thể xác lập chúng là những người
không đầy đủ năng lực hành vi dân sự như người chưa thành niên, người mất
năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi,
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Phần lớn người dân đều không nhận
thức rõ quy định về giao dịch dân sự với các chủ thể này . Vì vậy , những giao
dịch dân sự đó thường bị vô hiệu thậm chí là xảy ra tranh chấp gây tổn hại
không chỉ đến thời gian , tiền bạc mà còn đến tình cảm của song phương và việc
thực hiện các giao dịch tiếp theo . Nhận thấy thực tế như vậy , em chọn đề tài số
13 : “Phân tích và đánh giá các quy định trong Bộ Luật Dân sự 2015 về giao
dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân
sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện” .
Trong bài tập của em sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Chính vì thế, em
rất mong nhận được những góp ý từ phía các thầy cô để bài làm được hoàn
thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn !
B. NỘI DUNG
I. Một số vấn đề lý luận về giao dịch vô hiệu do người chưa thành niên, người
mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành
vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện
1. Một số khái niêm liên quan
a. Giao dịch dân sự
Theo điều 116 BLDS 2015 quy định về giao dịch dân sự “
Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.” . Và điều 117 quy định về điều
kiện có hiệu lực của giao dịch dân là “1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ
các điều kiện sau đây:
a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với
giao dịch dân sự được xác lập;


b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;

1


c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật,
không trái đạo đức xã hội.
2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
trong trường hợp luật có quy định.”
b. Giao dịch dân sự vô hiệu
Theo điều 122 BLDS 2015 giao dịch vô hiệu là “ Giao dịch dân sự không có
một trong các điều kiện được quy định tại điều 117 bộ luật này thì vô hiệu , trừ
trường hợp Bộ luật có quy định khác ” .
Giao dịch dân sự vô hiệu trong các trường hợp được quy định trong các điều
123 , 124 , 125 , 126 , 127 ,128 ,129 BLDS 2015 là các giao dịch vô hiệu do vi
phạm điều cấm của luật , trái đạo đức xã hội , do giả tạo , do người chưa thành
niên , người mất năng lực hành vi dân sự , người có khó khăn trong nhận thức ,
làm chủ hành vi , người bị hạn chế năng lực hành vi dấn sự xác lập , thực hiện ,
do nhầm lẫn , do lừa dối , đe dọa , cưỡng ép , do người xác lập không nhận thức
và làm chủ được hành vi của mình , do không tuân thủ quy định về hình thức .
2. Quy định trong Bộ Luật Dân sự 2015 về giao dịch dân sự vô hiệu đối với
người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác
lập và thực hiện
a. Quy định trong Bộ Luật Dân sự 2015
Tại điều 125 BLDS 2015 có quy định :
“1. Khi giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại
diện của người đó, Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo quy định của

pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện hoặc
đồng ý, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Giao dịch dân sự của người quy định tại khoản 1 Điều này không bị vô hiệu
trong trường hợp sau đây:
a) Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi, người mất năng lực hành vi dân
sự nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người đó;
b) Giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho
người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với
người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ;

2


c) Giao dịch dân sự được người xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau khi đã
thành niên hoặc sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự.”
b. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu
Theo khoản 1điều 132 BLDS 2105 thì thời hạn yêu cầu Tòa án tuyên bố giao
dịch vô hiệu là 2 năm sau thời hạn này mà không có yêu cầu thì giao dịch được
coi là có hiệu lực “ 1. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô
hiệu quy định tại các Điều 125, 126, 127, 128 và 129 của Bộ luật này là 02 năm,
kể từ ngày:
a) Người đại diện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân
sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự biết hoặc phải biết người được đại diện tự mình xác lập, thực
hiện giao dịch”
c. Hậu quả pháp lý
Được quy định tại điều 131 BLDS là “1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm
phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời
điểm giao dịch được xác lập.

2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu,
hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn
trả.
3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi,
lợi tức đó.
4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
5. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền
nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.”
III. Phân tích và đánh giá
1. Những điểm mới so với Bộ luật Dân sự 2005
BLDS 2015 đã có nhiều sửa đổi và bổ sung mới nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích cũng như của các chủ thể khi thực hiện giao dịch dân sự . So với quy định
BLDS 2005 , BLDS 2015 không chỉ thêm một nhóm chủ thể vào nhóm các chủ
thể không đầy đủ năng lực hành vi dân sự mà còn quy định đến những trường
hợp giao dịch dân sự không mặc nhiên vô hiệu khi người chưa thành niên,
người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi xác lập và thực hiện .

3


Về đối tượng , ở BLDS 2015 có quy định thêm chủ thể là người có khó khăn
trong nhận thức và làm chủ hành vi . BLDS 2005 Điều 130 chỉ quy định chủ
thể của giao dịch dân sự vô hiệu trong điều này là “ người chưa thành niên,
người mất năng lực hành vi dân sự hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi” còn
ở BLDS 2015 điều 125 bổ sung thêm một nhóm chủ thể trong giao dịch dân sự
vô hiệu ở điều này đó là nhưng có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi
được quy định “ do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự,
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người bị hạn chế

năng lực hành vi” .
Nhóm chủ thể mới -Người có khó khăn trong nhận thức , làm chủ hành vi
theo khoản 1 điều 23 BLDS 2015 là “ Người thành niên do tình trạng thể chất
hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa
đến mức mất năng lực hành vi dân sự” . Như vậy, đặc điểm của người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi phải là người thành niên nhưng do tình
trạng sức khỏe hoặc tinh thần dẫn đến khả năng nhận thức của họ cũng sẽ bị hạn
chế. Những người có khó khăn trong việc nhận thức, làm chủ hành vi sẽ gặp
khó khăn trong việc thể hiện ra bên ngoài ý chí đích thực của mình so với
những người có năng lực nhận thức bình thường. Nhóm chủ thể này có thể là
những người thành niên mắc mắc bệnh nhưng không mất hoàn toàn khả năng
nhận thức và điều khiển hành vi , hay người già do hệ thần kinh trung ương bị
lão hóa dần dần nên làm cho trí nhớ kém, hay quên, cá biệt mắc một số bệnh
như Parkinson hoặc bệnh Alzheimer hoặc người khuyết tật ... nhưng đều phải
có kết luận của giám định pháp như tâm thần làm căn cứ mà không mặc nhiên
thừa nhận theo nhận định chủ quan của một hay một số cá nhân
Như vậy , nhóm chủ thể mới được bổ sung trong điều 125 có nhiều điểm
tương đồng cũng như khác biệt với những nhóm chủ thể đã được quy định ở bộ
luật trước đó . So với chủ thể là người chưa thành niên , về chủ thể này được
quy định tại điều 21 BLDS 2015 “1. Người chưa thành niên là người chưa đủ
mười tám tuổi.
2. Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi do người đại diện theo pháp luật
của người đó xác lập, thực hiện.
3. Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao
dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân
sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.
4. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực
hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản
phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người
đại diện theo pháp luật đồng ý.” Như vậy , thì họ đều như nhau về năng lực

pháp luật , không thể tự mình xác lập , thực hiện một số giao dịch dân sự nhất
định . Không đầy đủ năng lực hành vi dân sự song người chưa thành niên theo
thời gian đến một độ tuổi nhất định họ sẽ có đầy đủ năng lực hành vi dân sự và
được mặc nhiên công nhân điều đó . Song người có khó khăn trong nhận thức ,

4


làm chủ hành vi , họ là người đã thành niên nhưng do điều kiện sức khỏe nên
gặp khó khăn và không có quy định về một độ tuổi nào đó mà ở độ tuổi đấy họ
sẽ có năng lực hành vi dân sự đầy đủ như người chưa thành niên . Đồng thời để
xác định một cá nhân có phải là người chưa thành niên không căn cứ vào độ
tuổi còn xác đinh một người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi
dựa vào tình trạng sức khỏe về thể chất , tinh thần và kết luận giám định pháp y
tâm thần .
Chủ thể là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự được quy định tại điều
24 BLDS 2015 là “1. Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn
đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên
quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố
người này là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự và phạm vi đại diện.
2. Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị
Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người
đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng
ngày hoặc luật liên quan có quy định khác.
3. Khi không còn căn cứ tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan
hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định
tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự.”

So với chủ thể là người có khó khăn trong nhận thức và điều khiển hành vi thì
họ đều là người thành niên có đầy đủ năng lực pháp luật nhưng không đầy đủ
năng lực hành vi , không thể tự mình xác lập hay thực hiện một số giao dịch
nhất định hay đều dựa trên yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên
quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan mà Tòa án sẽ tuyên bố và xác nhận .
Song cá nhận bị hạn chế năng lực hành vi dân sự là do nghiện ma túy hay chất
kích thích khác và gây thiệt hại lớn , phá tán tài sản . Còn người có khó khăn
trong nhận thức , làm chủ hành vi là do thể chất hoặc tinh thần của người đó và
có giấy chứng nhận của giám định pháp y tâm thần mà không phải do chịu tác
động của ma túy hay các chất kích thích hay do nghiện các chất đó gây thiệt
hại ,phá tán tài sản .
Và cuối cùng , so với chủ thể là người mất năng lực hành vi dân sự được quy
định tại điều 22 BLDS 2015 là “1. Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc
bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của
người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra
quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở
kết luận giám định pháp y tâm thần.

5


Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì theo
yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của
cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố
mất năng lực hành vi dân sự.
2. Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại
diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.”. Thì họ đều là người thành niên , họ đều
có năng lực pháp luật như nhau , đều có vấn đề về năng lực hành vi dân sự , đều
dựa trên yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ
quan, tổ chức hữu quan mà Tòa án sẽ tuyên bố và xác nhận và đều phải có giấy

chứng nhận pháp y tâm thần làm căn cứ . Bên cạnh đó , hai nhóm chủ thể này
cũng có sự khác nhau chủ thể là người mất năng lực hành vi dân sự mọi giao
dịch của họ đều không thể tự mình xác lập và thực hiện song chủ thể là người
có khó khăn trong nhận thức , làm chủ hành vi có thể tự mình xác lập và thực
hiện một số giao dịch dân sự nhất định .
Điểm mới tiếp theo khi quy định về vần đề này ở BLDS 2015 đã có thêm
những quy định hoàn toàn mới mà BLDS 2005 chưa đề cập hay quy định về
trường hợp giao dịch dân sự không bị vô hiệu khi người chưa thành niên, người
mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành
vi hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi xác lập và thực hiện tại khoản 2 điều
125 BLDS 2015 “2. Giao dịch dân sự của người quy định tại khoản 1 Điều này
không bị vô hiệu trong trường hợp sau đây:
a) Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi, người mất năng lực hành vi dân
sự nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người đó;
b) Giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho
người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với
người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ;
c) Giao dịch dân sự được người xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau khi đã
thành niên hoặc sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự ”
Những quy định tại khoản 2 điều 125 là hoàn toàn mới chưa được quy định
trong bộ luật trước đó BLDS 2005 . Tại điểm a) khoản 2 điều 125 BLDS quy
định về chủ thể là người chưa thành niên với độ tuổi là dưới 6 tuổi và người mất
năng lực hành vi dân sự tự mình xác lập thực hiện những giao dịch dân sự mà
vẫn có hiệu lực khi và chỉ khi giao dịch đó liên quan đến nhu cầu thiết yếu theo
khoản 20 điều 3 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 “ Nhu cầu thiết yếu là
nhu cầu sinh hoạt thông thường về ăn , mặc , ở , học tập , khám bệnh , chữa
bệnh và các nhu cầu sinh hoạt thông thường khác không thể thiết trong cuộc
sống của mỗi người , mỗi gia đình . ” . Như vậy , có thể hiểu trong trường hợp ở
điểm a) mặc dù các chủ thể này không có năng lực hành vi song vẫn có thể tự

mình , xác lập thực hiện một số giao dịch nhất định mà không bị vô hiệu tất cả
các giao dịch mà các chủ thể này thực hiện . Song , nó không đáp ứng tất cả nhu

6


cầu , mong muốn của các chủ thể này mà chỉ đáp ứng những nhu cầu thiết yếu
ảnh hưởng trực tiếp đến chủ thể , cuộc sống thường nhật của họ . Chẳng hạn H
(5 tuổi ) có thể mua bút , vở , thước kẻ - giao dịch này vẫn có hiệu lực và được
thực hiện bình thường như các giao dịch dân sự khác nhưng khi H tham gia mua
bán cổ phiếu hay nhà đất mà không có sự đồng ý của người đại diện thì giao
dịch này không có hiệu lực nếu người dại diện yêu cầu Toàn án tuyên bố giao
dịch vô hiệu .
Tại điểm b)khoản 2 điều 125 BLDS 2015 quy định chủ thể gồm đầy đủ các
chủ thể trong điều 125 là người chưa thành niên , người bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự , người có khó khăn trong nhận thức , làm chủ hành vi hành vi ,
người mất năng lực hành vi dân sự . Do đó , các chủ thể này hoàn toàn có thể tự
mình xác lập và thực hiện giao dịch dân sự nhất định mà giao dịch dân sự đó
vẫn có hiệu lực . Song , chỉ khi các giao dịch này có lợi cho họ . Khác với giao
dịch dân sự bình thường , phổ biến đi kèm quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể
tham gia . Ở giao dịch dân sự với các chủ thể này khi họ tự xác lập và thực hiện
chỉ phát sinh quyền hoặc miễn trừ nghĩa vụ cho họ với người xác lập . Chẳng
hạn khi họ tham gia giao dịch tặng cho với cương vị là được được hưởng mà
chủ thể tặng cho không có điều kiện , yêu cầu , nghĩa vụ gì đối với họ . Chẳng
hạn chú thím A ( 5 tuổi ) thực hiện giao dịch tặng cho A một tài sản . A tự mình
xác lập giao dịch mà không sự đồng ý của cha mẹ . Trong trường hợp này giao
dịch vẫn có hiệu lực .
Tại điểm c) khoản 2 điều 125 BLDS 2015 , dựa vào đó ta có thể hiểu chủ thể
trong trường hợp này là người mất năng lực hành vi dân sự , người chưa thành
niên . Đồng thời , các giao dịch dân sự này có thể xảy ra khi các chủ thể này

chưa khôi phục năng lực hành vi , chưa thành niên . Song , nó chỉ có hiệu lực
khi các chủ thể này thành niên hoặc khôi năng lực dân sự và thừa nhận hiệu lực
của giao dịch đó . Chẳng hạn , chủ thể là người chưa thành niên tự mình xác lập
và thực hiện giao dịch dân sự là hợp đồng cho thuê nhà khi mới 17 tuổi . Đến
khi chủ thể này tròn 18 tuổi công nhận giao dịch là có hiệu lực mới không vô
hiệu . Nếu không thì có thể yêu cầu tòa án tuyến bố giao dịch dân sự vô hiệu
trong khoảng thời hiệu đã quy định .
Như vậy , Các điểm mới của điều 125 BLDS 2015 so với BLDS 2005
không chỉ mở rộng phạm vi chủ thể , các trường hợp giao dịch dân sự không vô
hiệu được bổ sung mà còn đảm cho quyền và lợi ích , tăng tính chủ động thực
hiện giao dịch dân sự , thể hiện ý muốn của mình của ngời chưa thành niên ,
người có khó khăn trong nhận thức , làm chủ hành vi , người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự , người mất năng lực hành vi dân sự , hạn chế sự quyết định
tuyệt đối của người đại diện , người giám hộ .
2. Bình luận khách quan
a. Ưu điểm
Đầu tiên tại khoản 1 điều 125 BLDS 2015 với sự kế thừa và phát triển điều
130 BLDS 2005 đã bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhóm chủ thể được xem là

7


người yếu thế so với các chủ thể có đầy đủ năng lực hành vi dân sự khi tham gia
giao dịch dân sự . Đồng thời thể hiện sự linh hoạt bao quát của quy định , tạo
điều kiện thuận lợi cho thực tiễn áp dụng và thực thi quy định. Pháp luật thừa
nhận là trợ giúp pháp lý cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự khi tự mình xác lập thực hiện giao dịch dân sự mà theo
pháp luật giao dịch đó phải có sự đồng ý hay do người đại diện của họ xác lập
thực hiện thì người đại diện của họ có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch

vô hiệu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những chủ thể này . Đồng
thời , qua đó cũng thể hiện sự quan tâm đến những chủ thể này . Chẳng hạn ,
căn nhà X tại Nam Từ Liêm , Hà Nội là của Y , Y có 3 người con là A , B , C
(không có con nuôi ) . Sau khi Y chết , gia đình làm thủ tục khai nhận di sản
thừa kế tức căn nhà X theo pháp luật . Theo thỏa thuận , các đồng thừa kế ủy
quyền cho D tiến hành làm thủ tục khai nhận thừa kế sau đó bán nhà và chia
đều cho các đồng thừa kế , giá bán nhà do các đồng thừa kế quyết định . Nhưng
khi thỏa thuận và kí kết hợp đồng ủy quyền C đang bị mất năng lực hành vi dân
sự ( bệnh tâm thần ) và không có sự có mặt hay đồng ý của người đại diện của C
. Trong trường hợp này để bảo vệ quyền và lợi ích của C , người đại diện của C
có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu .
Không chỉ tạo căn cứ pháp lý cho người đại diện của người có khó khăn
trong nhận thức và điều khiển hành vi có thể yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch
vô hiệu ( trong trường hợp pháp luật quy định giao dịch phải có sự đồng ý của
người đại diện ) mà còn quy định rõ hơn về nhóm chủ thể này để thuận tiện cho
việc áp dụng điều 125 và phân biệt với các chủ thể khác trong điều này . Trong
BLDS 2015 đã quy định rõ về nhóm chủ thể này trong điều 23 BLDS 2015 để
có thể phân biệt , nhận diện họ với chủ thể là người mất năng lực hành vi dân sự
, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự , người chưa thành niên . Ngoài ra
trong các điều luật khác cũng quy định để làm rõ hơn cũng như phân biệt chẳng
hạn điều quy định về 131 BLDS 2015 hậu quả pháp lý khi thực hiện giao dịch
dân sự và điều quy định về 132 BLDS 2015 thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố
giao dịch vô hiệu . Qua đó , không chỉ hiểu rõ hơn nhóm chủ thể này mà còn
phân biệt được với các chủ khác cũng trong điều 125 BLDS 2015 hay với các
chủ thể có năng lực hành vi dân sự đầy đủ . Đồng thời tạo thuận lợi cho việc áp
dụng , thực thi quy định trên , bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể khi tham
gia giao dịch dân sự .
Kết hợp với đó còn thể hiện sự linh hoạt , bao quát khi quy định “ trừ trường
hợp quy định tại khoản 2 điều này ” . Tức không phải tất cả các giao dịch do
người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn

trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác
lập, thực hiện khi người đại diện yêu cầu Tòa án tuyên bố gioa dịch vô hiệu
( trong trường hợp pháp luật yêu cầu có sự đồng ý của người đại diện ) thì giao
dịch đều vô mà vẫn còn các trường hợp khác quy định tại khoản 2 điều 125 mà
các giao dịch dân sự với các chủ thể này không mặc nhiên vô hiệu thậm chí vẫn

8


có hiệu lực và được thực hiện bình thường như các giao dịch dân sự khác . Như
vậy , không quy định cứng mà có sự linh hoạt đồng thời thể hiện sự bao quát ,
dự đoán trước những giao dịch có thể xảy ra để tạo căn cứ , trợ giúp pháp lý
cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khi tham gia gioa
dịch dân sự .
Khoản 2 Điều 125 BLDS 2015 quy định về nhưng trường hợp giao dịch
không vô hiệu không chỉ thể hiện sự linh hoạt , bao quát cũng như bảo đảm
quyền và lợi ích các chủ thể mà còn tạo sự chủ động tham gia giao dịch theo ý
muốn của các chủ thể đồng thời hạn chế việc tự ý định đoạt giao dịch của người
đại diện cho chủ thể là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân
sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự . Thứ nhất , về trường hợp đầu tiên , đã bảo vệ quyền , lợi ích
hợp pháp của chủ thể là những nhu cầu thiết yếu , cần thiết cho cuộc sông
thường ngày của chủ thể . Khác với người có khó khăn trong nhận thức , làm
chủ hành vi , người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự , người chưa thành niên (
từ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi ) , chủ thể là người chưa đủ 6 tuổi , mất năng lực hành
vi dân sựu không có khả năng nhận thức , thực hiện các giao dịch . Song , để
đáp ứng nu cầu thiết yếu của mình hằng ngày như ăn , mặc , ở , học tập , khám
chữa bệnh ... vẫn được chấp nhận và giao dịch này vẫn có hiệu lực nhằm đảm
bảo quyền , lợi ích chủ thể này cũng như để giảm sựu phụ thuộc quá mức vào
người đại diện . Song chỉ với những nhu cầu thiết yếu , giá trị nhỏ mà không

phải là tất cả mong muốn của họ . Chẳng hạn A 5 tuổi có thể đi mua bánh bao
để ăn sáng nhưng khi tự mình tham gia mua bán nhà đất mà không có sự đồng ý
của người đại diện thì người đại diện của A có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố
giao dịch vô hiệu .
Trường hợp thứ hai , đã loại bỏ đi thực trạng bất hợp lý là ngay cả các giao
dịch mang lại quyền và lợi ích hợp pháp cho mình các chủ thể cũng không có
quyề tự mình xác lập . Chẳng hạn , Y 4 tuổi được ông tặng cho tài sản là nhà
hoặc tiền mặt nhưng lại phải thông qua người đại diện là bố hoặc mẹ đồng ý mà
A không được phép tự mình trực tiếp thừa nhận . Như vậy , ở những trường hợp
như vậy quyền và lợi ích của A sẽ bị ảnh hưởng . Với quy định về trường hợp
mới này A , người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người
có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự có quyền tự mình xác lập , thực hiện các giao dịch mà mang lại quyền
hoặc miễn trừ nghĩa vụ cho mình mà không cần sự đồng ý của người đại diện .
Trường hợp cuối cùng đảm bảo quyền lợi ích cũng như tạo sự chủ động thể
hiện ý muốn của mình trong giao dịch dân sự thì người chưa thành niên , người
mất năng lực hành vi dân sự có thể tự mình xác lập thực hiện giao dịch mà giao
dịch đó vẫn có hiệu lực và được thực hiện như bình thường nếu sau khi khôi
phục năng lực hành vi dân sự , thành niên họ thừa nhận giao dịch này . Chẳng
hạn X 16 tuổi thực hiện mua bán nhà với Z mà không có sự đồng ý của người
đại diện X . Song , giao dịch vẫn có thể có hiệu lực nếu X sau khi thành niên
thừa nhận hiệu lực của giao dịch này .

9


2 . Hạn chế
Bên cạnh những ưu điểm không thể phủ nhận thì khi quy đinh về giao dịch do
người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác

lập, thực hiện vẫn còn một số hạn chế . Tại khoản 1 điều 125 BLDS 2015 đã bổ
sung thêm chủ thể là người có khó khăn trong nhận thức , làm chủ hành vi song
lại chưa quy định rõ về quyền và nghĩa vụ của chủ thể này khi tham gia giao
dịch dân sự gây khó khăn cho việc thực thi , áp dụng điều 125 BLDS 2015 .
Khi quy định về người chưa thành niên , người mất năng lực hành vi dân sự ,
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự tại các điều lần lượt điều 21 , điều 22 ,
điều 24 BLDS 2015 đều có quy định giao dịch nào những chủ thể này có thể tự
mình xác lập , thực hiện , giao dịch nào phải thông qua người đại diện . Chẳng
hạn với chủ thể là người chưa thành niên thì “2. Giao dịch dân sự của người
chưa đủ sáu tuổi do người đại diện theo pháp luật của người đó xác lập, thực
hiện.3. Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện
giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch
dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.4. Người từ
đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao
dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải
đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại
diện theo pháp luật đồng ý.”Song tại điều 23 BLDS 2015 không quy định rõ về
giao dịch dân sự nào người có khó khăn trong nhận thức , làm chủ hành vi có
thể tự mình xác lập thực hiện và giao dịch nào phải có sự đồng ý người đại diện
của họ .
Tại khoản 2 điều 125 BLDS 2015 tuy có bổ sung về các trường hợp giao dịch
không vô hiệu song còn một số vướng mắc . Ở điểm a) khoản 2 điều 125 quy
định về trường hợp thứ nhất giao dịch không vô hiệu đã mâu thuẫn với khoản 2
điều 21 và khoản 2 điều 22 BLDS 2015 quy định về giao dịch dân sự của người
chưa thành niên dưới 6 tuổi và người mất năng lực hành vi dân sự . Theo đó ,
hai chủ thể này đều không có quyền tự mình xác lập thưc hiện bất cứ giao dịch
dân sự nào kể cả giao dịch phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của bản thân . Đồng
thời , quy định tại khoản 2 điều 21 và khoản 2 điều 22 đều phù hợp với quy định
tại điểm a khoản 1 điều 117 BLDS 2015 “Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự,
năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập” . Bởi hai

chủ thể này đều không có năng lực hành vi dân sự . Song tại điểm a) khoản 2
điều 125 BLDS 2015 thì giao dịch dân sự do người chưa thành niên dưới 6 tuổi
và người mất năng lực hành vi dân sự thực hiện vì nhu cầu thiết yếu của bản
thân thì vẫn có hiệu lực .
Tại điểm b khoản 2 điều 125 BLDS 2015 về trường hợp thứ hai giao dịch dân
sựu không vô hiệu lại gặp vấn đề về cách diễn đạt gây khó khăn để nhận thức
đúng và áp dụng , thực thi “ với người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ;”.
Vệc sử dụng hai liên từ “ với ” trong một câu khiến nội dụng tại điểm này

10


không rõ ràng từ đó hình thành hai cách hiểu khác nhau . Ở cách hiểu thứ nhất
tức giao dịch đó chỉ có một bên là người trực tiếp xác lập và thực hiên giao dịch
dân sự và một bên là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự,
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự mà không thông qua hay có sự xuất hiện của chủ thể
thứ ba . Đồng thời giao dịch này phải làm phát sinh quyền hoặc miễn trừ nghĩa
vụ cho chủ thể là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự,
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự . Còn ở cách hiểu thứ hai là giao dịch đó phải làm ohast
sinh hoặc miễn trừ nghĩa vụ cho cả hai bên chủ thể là người chưa thành niên,
người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và người đã xác lập ,
thực hiện giao dịch với họ .
Quy định tại điểm c ) khoản 2 điều 125 có mâu thuẫn về thời điểm xác lập giao
dịch và năng lực hành vi của người xác lập giao dịch . Về thời điểm xác lập giao
dịch ( có hiệu lực ) là thời điểm đáp ứng đầy đủ điều kiện được quy định trong
điều 117 BLDS 2015 song tại điểm c khoản 2 điều 125 BLDS 2015 thì thời
điểm xác lập giao dịch ( có hiệu lực ) có thể là sau kh giao dịch được xác lập và

thực hiện xong . Về năng lực hành vi của người xác lập giao dịch thì theo điểm
a khoản 1 điều 117 BLDS 2015 “Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực
hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập” . Mà người mất năng
lực hành vi dân sự và người chưa thành niên mà dưới 6 tuổi đều không có năng
lực hành vi dân sự nhưng theo quy định tại điểm c khoản 2 điều 125 thì hai chủ
thể này vẫn có thể tự mình xác lập , thực hiện giao dịch và thừa nhận hiệu lực
của giao dịch sau khi thành niên .
3 . Một số ý kiến đề xuất
Trên cơ sở những ưu điểm và nhược điểm của quy định về giao dịch dân sự vô
hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự xác lập, thực hiện và tham khảo một sô nguồn tài liệu để đưa ra một sô ý
kiến đề xuất góp phần khắc phục khuyết điểm , tạo thuận lợi cho thực tiễn thực
thi và áp dụng quy định .
Tại điều 125 BLDS 2015 đã bổ sung thêm một nhóm chủ thể là người có khó
khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi song chưa quy định rõ về quyền và
nghĩa vụ cũng như các giao dịch mà chủ thể này có thể tự mình xác lập cũng
như giao dịch phải thông qua người đại diện . Do đó , cần quy định rõ phạm vi
những gioa dịch dân sự được thực hiền , có thể tự mình xác lập thực hiện và các
giao dịch phải có sự đồng ý của người đại diện hay do người đại diện xác lập ,
thực hiện như quy định với người chưa thành niên , người mất năng lự hành vi

11


dân sự , người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự tại các điều 21 , 22 , 24
BLDS 2015 . Qua đó , tạo căn cứ pháp lý để Tòa án cũng như nhận biết được
giao dịch dân sự nào sẽ có thể là vô hiệu , giao dịch nào không để đưa ra phán
quyết đúng đắn cũng như điều chỉnh hành vi cho phù hợp .
Tại điểm a) và c) khoản 2 điều 125 BLDS 2015 có quy định về hai trường hợp

giao dịch dân sự không vô hiệu nhưng có mâu thuẫn với điều luật khác về năng
lực hành vi cũng thời điểm xác lập giao dịch ( có hiệu lực ) hay giao dịch mà
chủ thể có thể tham gia . Do đó , để khắc phục nhược điểm này có thể thực hiện
một trong hai ý kiến . Ý kiến thứ nhất là đề ra các văn bản hướng dẫn thi hành ,
giải thích quy định để việc nhận thức và thực thi có thể dễ dàng hơn . Theo
hướng BLDS không ủng hộ giao dịch dân sự với các chủ thể này phát triển song
nếu đã xác lập sẽ không vô hiệu một cách máy móc mà sẽ lựa chọn ra giao dịch
có lợi cho các chủ thể này và được thực hiện trong điều kiện bình thường . Về ý
kiến thứ hai là loại bỏ quy định tại điểm a và c khoản 2 điều 125 BLDS 2015
để phù hợp với các quy định khác như quy định tại điều 117 , điều 21 điều 22
BLDS 2015 .
Tại điểm b khoản 2 điều 125 BLDS 2015 quy định về trường hợp giao dịch
dân sự không vô hiệu song gặp vấn đề về lối diễn đạt tạo ra hai cách hiểu khác
nhau gây khó khăn cho việc nhận thức , thực thi và áp dụng quy định này . Do
đó , để khác phục khuyết điểm trên có thể sửa đổi cách diễn đạt theo hướng :
“Giao dịch dân sự có mục đích chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa
vụ cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự . Giao dịch chỉ phát sinh hiệu lực với người đã xác lập thực hiện giao dịch
với họ.” Ngoài ra , có thể có cách diễn đạt khác hoặc ban hành các văn bản
hướng dẫn thi hành , giải thích quy định cụ thể . Để tạo căn cứ pháp lý rõ ràng
cho thực hiện và áp dụng quy định cũng như điều chỉnh hành vi cho phù hợp
với quy định được đề ra .
C. KẾT LUẬN
Qua đó ta nhận thấy các quy định trong Bộ Luật Dân sự 2015 về giao dịch dân
sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người
có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự xác lập, thực hiện có nhiều điểm mới cũng như sửa đổi bổ sung so với
quy định ở BLDS 2005 như về thêm chủ thể là người có khó khăn trong nhận
thức , làm chủ hành vi và trường hợp giao dịch dân sựu không vô hiệu . Ngoài


12


ra , ta cũng nhận ra ưu điểm của quy định như bảo vệ quyền và lợi ích của các
chủ thể , có tính linh hoạt , bao quát , tạo điều cho chủ thể giao dịch theo ý
muốn của mình tránh qua phụ thuộc vào người đại diện và hạn chế sự tự ý định
đoạt của người đại diện . Cũng như một số hạn chế của điều luật như về diễn đạt
, quy định về chủ thể hay mâu thuẫn với điều luật khác . Đồng thời , cũng nhận
thấy một sô ý kiến đề xuất cũng như giải pháp và nâng cao nhận thức để điều
chỉnh hành vi hạn chế tranh chấp khi thực hiện giao dịch dân sự vô hiệu với
người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự .
Em xin chân thành cảm ơn!

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

13


Bộ luật dân sự 2015
Bộ luật dân sự 2005
Luật hôn nhân và gia đình
Bình luận khoa học Bộ luật dân sự của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam năm 2015 , Nguyễn Minh Tuấn chủ biên , nhà xuất bản Tư Pháp
Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2015 của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam , PGS.TS Nguyễn Văn Cừ - PGS.TS Trần Thị Huệ đồng chủ
biên , nhà xuất bản Công an nhân dân
Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật dân sự năm 2015 , PGS.TS Đỗ
Văn Đại chủ biên , Nhà xuất bản Hồng Đức – Hội Luật Gia Việt Nam

Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật dân sự năm 2015 , Nguyễn
Minh Tuấn chủ biên , Nhà xuất bản Tư Pháp .

14


15



×