Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

phân tích những nội dung cơ bản quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm cho hoạt động cấp tín dụng và thực tế áp dụng trong 9 tháng đầu năm 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.46 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ
Khi Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO vào ngày 7 tháng 11 năm
2006, lĩnh vực ngân hàng được coi là ngành dịch vụ đầy tìm năng và nhiều triển vọng,
góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trong ngành ngân hàng, hoạt động tín dụng
cho vay được đẩy mạnh. Do đó, bên cạnh các hợp đồng tín dụng luôn tồn tại các biện
pháp bảo đảm tiền vay (bằng tài sản hoặc không bằng tài sản). Để tạo cơ sở pháp lí cho
TCTD và khách hàng trong quá trình vay vốn, pháp luật về bảo đảm tiền vay không
ngừng được hoàn thiện qua từng thời kì. Hiện nay, các quy định của pháp luật về bảo
đảm tiền vay bằng tài sản được ghi nhận tại nhiều văn bản quy phạm pháp luật như: Bộ
Luật dân sự, Bộ Luật hàng hải, Luật các TCTD, Luật đất đai, Nghị định 163/2006/NĐ-
CP ngày 29/12/2006 về bảo đảm tiền vay thay thế cho Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày
29/12/1999 và Nghị định 85/2002/NĐ-CP ngày 25/10/2002, Nghị định 08/2000/NĐ-CP
ngày 10/03/2000 thay thế cho Nghị định 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 về đăng kí
giao dịch bảo đảm.
Khi nhìn lại quá trình phát triển của các quy định về bảo đảm tiền vay bằng tài sản
trong hợp đồng tín dụng ngân hàng ta sẽ dễ dàng nhận thấy nhà nước ta đã dành sự quan
tâm đáng kể để đổi mới và hoàn thiện các chế định này. Tuy nhiên, pháp luật về bảo đảm
tiền vay bằng tài sản hiện vẫn còn những bất cập cần tiếp tục hoàn thiện. Để góp phần
vào việc tìm hiểu chế định này, trong khuôn khổ bài tập nhóm này người viết sẽ tìm hiểu
về: “Phân tích những nội dung cơ bản quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm
cho hoạt động cấp tín dụng và thực tế áp dụng trong 9 tháng đầu năm 2013”
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. KHÁI QUÁT HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG
1
1.Khái niệm hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng
Theo quy định Điều 17 Quyết định số: 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31 tháng 12
năm 2001 của Thống đống ngân hàng nhà nước, Về việc ban hành Quy chế cho vay của
tổ chức tín dụng đối với khách hàng: “Việc cho vay của tổ chức tín dụng và khách hàng
vay phải được lập thành hợp đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng phải có nội dung về điều
kiện vay, mục đích sử dụng vốn vay, phương thức cho vay, số vốn vay, lãi suất, thời hạn


cho vay, hình thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và những cam
kết khác được các bên thỏa thuận”.
Hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của tổ chức tín dụng là một hoạt động
cho vay dựa trên hình thức pháp lí của quan hệ cho vay giữa tổ chức tín dụng với khách
hàng là hợp đồng tín dụng; tức là, một hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho
khách hàng, trong đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để
sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận được ghi nhận trong hợp
đồng tín dụng giữa hai bên chủ thể trong quan hệ cho vay, với nguyên tắc có hoàn trả cả
gốc và lãi. Tổ chức tín dụng có quyền cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn thông qua
hợp đồng tín dụng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh và đời sống. Khi
cho vay, tổ chức tín dụng phải tuân thủ các nguyên tắc, quy chế pháp lý về cho vay.
2.Đặc điểm hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng
Hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng luôn mang những yếu tố cấu thành cơ
bản của quan hệ cho vay nói chung. Ngoài những dấu hiệu chung của quan hệ cho vay,
hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của tổ chức tín dụng còn thể hiện ở những
dấu hiệu có tính đặc thù sau:
Một là, việc cho vay của tổ chức tín dụng là hoạt động nghề nghiệp kinh doanh
mang tính chức năng. Mặc dù theo luật Việt Nam hiện hành, các tổ chức khác không
phải là tổ chức tín dụng cũng có thể thực hiện việc cho vay đối với khách hàng như một
hoạt động kinh doanh nhưng hoạt động cho vay của tổ chức này hoàn toàn không phải là
nghề nghiệp kinh mang tính chức năng như đối với các tổ chức tín dụng.
Hai là, hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng không chỉ là một nghề kinh doanh
mà hơn nữa còn là một nghề nghiệp kinh doanh có điều kiện, thể hiện ở chỗ hoạt động
cho vay chuyên nghiệp của tổ chức tín dụng phải thỏa mãn một số điều kiện nhất định
2
như phải có vốn pháp định, phải được Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép hoạt động
ngân hàng trước khi tiến hành việc đăng ký kinh doanh theo luật định.
Ba là, hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng ngoài việc tuân thủ các quy định
chung của pháp luật về hợp đồng, nó còn chịu sự điều chỉnh của pháp luật về hợp đồng
còn chịu sự điều chỉnh, chi phối của các đạo luật về Ngân hàng, kể cả tập quán thương

mại về ngân hàng.
II. CÁC BIỆN PHÁP PHÁP LÍ NHẰM BẢO ĐẢM AN TOÀN HOẠT ĐỘNG
CHO VAY
1.Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản
1.1. Quy định về cầm cố
Khái niệm cầm cố tài sản được quy định trong Điều 326 Bộ luật Dân sự 2005 như
sau: “Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc
quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ dân sự.”
Về đối tượng của cầm cố có thể là động sản hoặc bất động sản và cầm cố gắn với
việc chuyển giao tài sản cho bên nhận cầm cố. Theo quy định hiện hành thì đối tượng
của cầm cố phong phú, đa dạng hơn gồm: các loại tài sản (cả động sản và bất động sản)
tiền, trái phiếu, séc, cổ phiếu, kì phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ có giá khác,
quyền tài sản. Sự phân chia tài sản thành động sản và bất động sản được quy định tại
Điều 174 Bộ luật Dân sự 2005:“Bất động sản là các tài sản bao gồm: Đất đai; Nhà,
công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà, công trình
xây dựng đó; Các tài sản khác gắn liền với đất đai; Các tài sản khác do pháp luật quy
định. Động sản là những tài sản không phải là bất động sản.”
Như vậy, Bộ luật Dân sự 2005 đã có những cải tiến theo kịp các quy định của
quốc tế, nhưng trong các văn bản luật chuyên ngành lại hạn chế quyền cầm cố bất động
sản của người sở hữu các quyền này, điều này là một hạn chế cơ bản của pháp luật Việt
Nam sau khi Bộ luật Dân sự 2005 đã có những quy định rất hợp lí về cầm cố và thế
chấp.
Tài sản cầm cố là quyền tài sản đang là vấn đề đặt ra của hai văn bản pháp luật có
hiệu lực là Bộ luật Dân sự 2005 và Nghị định 163/2006/ NĐ – CP, cả hai quy định này
3
đều không quy định rõ ràng việc sẽ sử dụng thế chấp hay cầm cố đối với một số tài sản
đặc biệt, trong đó có các quyền tài sản. Theo quy định tại Điều 322 Bộ luật Dân sự 2005
quy định về quyền tài sản:
“1. Các quyền tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm bao gồm quyền tài sản phát

sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng, quyền
đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiểm đối với vật bảo đảm, quyền tài sản đối với
phần vốn góp trong doanh nghiệp, quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng và các quyền tài
sản khác thuộc sở hữu của bên bảo đảm đều được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
dân sự.
2. Quyền sử dụng đất được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy
định của Bộ luật này và pháp luật về đất đai.
3. Quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ dân sự theo quy định của Bộ luật này và pháp luật về tài nguyên.”
Tài sản cầm cố có thể hình thành trong tương lai? Hiện nay, đây vẫn đang còn là
vấn đề tranh cãi. Tuy nhiên, do Nghị định 163/2006/ NĐ – CP đã quy định rõ ràng tài
sản bảo đảm có thể là tài sản hình thành trong tương lai, do đó tài sản cầm cố vốn là một
loại tài sản bảo đảm hoàn toàn có thể là tài sản hình thành trong tương lai.
1.2. Quy định về thế chấp
Điều 342 Bộ luật Dân sự 2005 quy định “Thế chấp tài sản là việc một bên (sau
đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự đối với bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp) và không chuyển
giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp.”
Như vậy, theo Bộ luật Dân sự, khách hàng vay tiền không cần phải chuyển giao
tài sản cho ngân hàng mà vẫn có thể được tiếp tục được sử dụng tài sản bảo đảm này
trong khi nghĩa vị chưa được thanh toán hết. Đồng thời, cũng không bó buộc tài sản thế
chấp chỉ có thể là bất động sản, khách hàng vay tiền hoàn toàn có thể thế chấp bằng các
động sản.
Các tài sản có thể là đối tượng của hình thức thế chấp.
4
- Tài sản thế chấp là động sản
Tài sản thế chấp có thể là vật (một loại động sản): tài sản được đem thế chấp thỏa
mãn điều kiện được phép giao dịch và thuộc quyền sở hữu của bên thế chấp.
Tài sản thế chấp có thể là quyền tài sản: điều này là hoàn toàn có thể và đã được
pháp luật quy định từ khá lâu, quyền tài sản được đem thế chấp có thể là quyền đòi nợ,

quyền tác giả, quyền sử dụng đất,
Tài sản thế chấp có thể là tài sản hình thành trong tương lai: điều này được pháp
luật quy định rõ trong Nghị định số 163/NĐ – CP và Bộ luật Dân sự 2005.
- Thế chấp quyền đối với bất động sản
 Thế chấp quyền sử dụng đất
Không phải trong mọi trường hợp người sử dụng đất hợp pháp đều đương nhiên
có quyền thế chấp quyền sử dụng đất. Luật Đất đai năm 2003 quy định chỉ trong các
trường hợp sau đây, người sử dụng đất mới có quyền thế chấp quyền sử dụng đất:
- Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất do đươc Nhà nước giao đất hoặc do nhận
chuyển đổi, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, được thừa kế, tặng cho quyền sử dụng
đất, nhận quyền sử dụng đất do xử lí hợp đồng thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng
đất hợp pháp của người khác hoặc đất không thu tiền sử dụng đất được chuyển sang
hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất;
- Tổ chức kinh tế sử dụng đất do Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc
do nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoặc đất không thu tiền sử dụng đất được
chuyển sang hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất, tiền đã trả
cho việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước;
- Tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất do được Nhà nước cho thuê
trước ngày 1/7/2004 mà đã trả tiền cho cả thời gian thuê hoặc đã trả trước tiền thuê đất
cho nhiều năm mà thời hạn thuê đất đã được trả tiền còn ít nhất là 5 năm;
- Tổ chức, cá nhân người nước ngoài đầu tư tại Việt Nam sử dụng đất do được
Nhà nước Việt Nam cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê;
5
- Người Việt Nam định cư tại nước ngoài sử dụng đất do được Nhà nước Việt
Nam giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần cho cả
thời gian thuê hoặc do nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong khu công nghiệp.
 Điều kiện thế chấp quyền sử dụng đất
Theo quy định tại Điều 106 Luật Đất đai 2003, người sử dụng đất được thực hiện
quyền thế chấp quyền sử dụng đất khi có các điều kiện sau đây:
Thứ nhất, người sử dụng đất phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một

trong các giấy tờ hợp lệ về quyền sử dụng đất quy định tại các Khoản 1,2 và 5 Điều 50
Luật Đất đai 2003.
Thứ hai , tại thời điểm thế chấp quyền sử dụng đất, bên thế chấp vẫn đang trong
thời hạn sử dụng đất.
Thứ ba, đất không có tranh chấp.
Thứ tư, quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án.
 Thế chấp nhà ở
Theo quy định Luật Nhà ở năm 2005: “chủ sở hữu được thế chấp nhà ở để bảo
đảm thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ nếu giá trị của nhà ở đó lớn hơn tổng giá trị các
nghĩa vụ”. Với quy định trên, phần nào không phản ánh được tư duy đổi mới trong lĩnh
vực pháp luật dân sự là tôn trọng sự thỏa thuận các bên khi tham gia giao dịch dân sự.
Khi tham gia giao dịch dân sự, các bên được tự do, tự nguyện thể hiện ý chí trong việc
cam kết, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự. Trong trường hợp bên có nghĩa vụ dùng
một tài sản để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ thì việc thỏa thuận về giá trị tài sản bảo
đảm và tổng nghĩa vụ được bảo đảm là quyền của các bên, các bên có thể thỏa thuận
tổng nghĩa vụ được bảo đảm lớn hơn, bằng hoặc thậm chí nhỏ hơn giá trị tài sản bảo
đảm. Thực tiễn cũng chỉ ra rằng trong nhiều trường hợp, khi xác lập giao dịch bảo đảm,
tài sản bảo đảm có giá trị lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm nhưng khi xử lí tài sản bảo
đảm thì giá trị tài sản bảo đảm lại nhỏ hơn nghĩa vụ được bảo đảm, khi đó phần nghĩa vụ
còn lại sau khi thanh toán từ tiền xử lí tài sản bảo đảm vẫn sẽ do bên có nghĩa vụ phải
6
thực hiện, nếu không thực hiện thì các tài sản khác của bên có nghĩa vụ vẫn có thể bị
phát mại để bảo đảm lợi ích cho bên có quyền. Việc nhà làm luật lo lắng thay cho các
bên nhận bảo đảm là không cần thiết, không thể hiện tinh thần bình đẳng của các bên
trước pháp luật.
1 .3.Quy định về bảo lãnh
Theo quy định tại Điều 361 Bộ luật dân sự 2005:“Bảo lãnh là việc người thứ ba
(say đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo
lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo
lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện

không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thoả thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải
thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của
mình”.
Bên thứ ba ở đây có thể là tổ chức hoặc cá nhân, mục đích của bảo lãnh là nhằm
tạo cơ hội thuận lợi cho các bên tham gia quan hệ nghĩa vụ ngay cả khi người có nghĩa
vụ không có tài sản bảo đảm.
Theo quy định tại Nghị định số 163/2006/NĐ – CP, khi phát sinh căn cứ thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh nói trên, bên nhận bảo lãnh phải thông báo cho bên bảo lãnh về thực
hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Thời hạn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh do các bên thỏa thuận; nếu
không thỏa thuận được, bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong một thời
hạn hợp lí kể từ thời điểm được thông báo về việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Thực tế,
khi nhận thông báo của tổ chức tín dụng yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh, hầu hết các bên bảo lãnh đều không muốn thực hiện nghĩa vụ của mình như đã
cam kết. Do đó, lúc gửi thông báo yêu cầu, tổ chức tín dụng khó có thể thỏa thuận được
với bên bảo lãnh về thời hạn thực hiện bảo lãnh. Hơn nữa, thời hạn hợp lí không được
lượng hóa và quy định cụ thể trong Nghị định số 163/2006/NĐ – CP và các văn bản
pháp luật có liên quan khác. Do vậy, khi kí hợp đồng, tổ chức tín dụng cần phải thỏa
thuận ngay với bên bảo lãnh về thời hạn cụ thể thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong trường
hợp phát sinh căn cứ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh.
7
Mặt khác, kể từ thời điểm thông báo cho bên bảo lãnh theo quy định trên, bên
nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với tài
sản của bên bảo lãnh và yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật chấm dứt hành
vi đó. Trên thực tế, tổ chức tín dụng không dễ dàng thực hiện được hai quyền này vì
theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, khi Tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp
tạm thời (như kê biên tài sản, phong tỏa tài sản ), người yêu cầu phải gửi một khoản
tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người
yêu cầu phải bồi thường thiệt hại thực tế có thể xảy ra cho người bị áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời hoặc cho người thứ ba do việc yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời không đúng gây ra. Quy định này của pháp luật tố tụng dân sự là nhằm phòng

ngừa bên nhận bảo lãnh lạm dụng quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
của mình để gây khó khăn, thiệt hại về kinh tế cho bên bảo lãnh. Nhưng chính quy định
trên vô hình dung hạn chế quyền của bên nhận bảo lãnh, đặc biệt là trong trường hợp
bên nhận bảo lãnh đang gặp khó khăn về kinh doanh, cần thu hồi vốn từ bên được bảo
lãnh để ổn định, phát triển sản xuất – kinh doanh. Trong trường hợp đó, bên nhận bảo
lãnh khó có thể thu xếp được một khoản tiền lớn để gửi tại một tài khoản ngân hàng theo
quyết định của thẩm phán hoặc hội đồng xét xử.
Mặc dù khi bảo lãnh cho bên được bảo lãnh vay vốn tại tổ chức tín dụng, bên bảo
lãnh đã cam kết thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên
được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ, bất kể bên được
bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ đến hạn hay trước hạn do vi phạm hợp đồng, nhưng
một sô bên bảo lãnh vẫn không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo
lãnh như cam kết trong hợp đồng mà tìm cách né tránh, lẩn trốn và thông báo cho nhân
thân của mình (anh em, họ hàng) tìm cách ngăn cản bên nhận bảo lãnh thực hiện các thủ
tục xử lí tài sản bảo đảm để thu hồi nợ. Do vậy, các tổ chức tín dụng cần có sự hỗ trợ,
giúp đỡ của chính quyền, cơ quan công an địa phương nơi có tài sản bảo đảm để thực
hiện các thủ tục xử lí tài sản bảo đảm cho phù hợp với thỏa thuận trong hợp đồng và quy
định của pháp luật.
8
Trong trường hợp đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh mà
bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải
đưa tài sản thuộc sở hữu cảu mình cho bên nhận bảo lãnh xử lí để thanh toán nợ thay
cho bên được bảo lãnh. Các bên có quyền thỏa thuận về tài sản, thời gian, địa điểm và
phương thức xử lí; nếu không thỏa thuận được thì bên nhận bảo lãnh có quyền khởi kiện
tại Tòa án. Thực tế, hiếm có bên bảo lãnh nào tự nguyện đưa tài sản thuộc sở hữu của
mình cho bên nhận bảo lãnh xử lí để thanh toán nợ thay cho bên được bảo lãnh vì lúc đó
bên bảo lãnh thường có tâm lí không muốn mất tài sản chỉ vì một khoản tiền nhỏ do bên
được bảo lãnh trả hoặc một khoản lợi ích khác có giá trị nhỏ hơn tài sản bảo đảm. Do
vậy, khi kí hợp đồng bảo lãnh với bên bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh cần thỏa thuận rõ với
bên bảo lãnh về tài sản xử lí, phương thức xử lí và giá tài sản bảo đảm cho bên bảo lãnh

trong trường hợp bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh do
bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
1.4.Hình thức bảo đảm bằng tín chấp
Bảo đảm tiền vay bằng tín chấp là một biện pháp bảo đảm mới lần đầu xuất hiện
trong Bộ luật Dân sự 2005, trước đó, Bộ luật dân sự 1995 vẫn chưa ghi nhận hình thức
này. Đây là một hình thức bảo đảm thể hiện sự hỗ trợ của nhà nước ta cho người dân
nghèo với mục đích giúp họ thoát nghèo và thúc đẩy hoạt động sản xuất. Tín chấp được
quy định trong Bộ luật Dân sự 2005 tại Điều 372 như sau:
“Tổ chức chính trị - xã hội tại cơ sở có thể bảo đảm bằng tín chấp cho cá nhân,
hộ gia đình nghèo vay một khoản tiền tại ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng khác để sản
xuất, kinh doanh, làm dịch vụ theo quy định của Chính phủ.”
Về mặt kinh tế, biện pháp này có điểm khá giống với biện pháp bảo lãnh tiền vay,
tuy nhiên sự khác biệt của biện pháp bảo đảm này đối với các biện pháp bảo đảm khác
chính là chủ thể tham gia nó.
Tổ chức chính trị xã hội đóng tư cách là bên bảo đảm cho quá trình vay tiền của
cá nhân, hộ gia đình nghèo. Theo Nghị định số 163/2006/NĐ – CP thì tổ chức chính trị
xã hội chỉ có thể là một trong số những tổ chức sau:
“Điều 50. Tổ chức chính trị - xã hội bảo đảm bằng tín chấp
9
Đơn vị tại cơ sở của các tổ chức chính trị - xã hội sau đây là bên bảo đảm bằng
tín chấp:
1. Hội Nông dân Việt Nam ;
2. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam ;
3. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam ;
4. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
5. Hội Cựu chiến binh Việt Nam ;
6. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.”
Cá nhân, hộ gia đình nghèo đóng vai trò là bên bảo đảm cũng có những điều kiện
nhất định như sau:
- Phải là cá nhân, hộ gia đình nghèo.

- Phải là thành viên của một trong các tổ chức tín dụng nêu trên.
Pháp luật cũng quy định về hợp đồng tín chấp phải được lập thành văn bản. Tuy
nhiên trong các văn bản pháp luật hiện tại về vấn đề này không hề quy định rõ về trách
nhiệm của các bên, đặc biệt là việc sẽ xử lí ra sao đối với các tổ chức chính trị, xã hội
trong trường hợp bên hộ gia đình nghèo không trả được nợ, vô hình chung biện pháp
này “đeo vào cổ” các tổ chức tín dụng khá nhiều rủi ro và thiếu chế tài giúp tổ chức tín
dụng thu hồi tiền vốn. Chính vì thế, mặc dù đây là một biện pháp nhằm cụ thể hóa chủ
trương chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước nhưng không được mặn mà lắm bởi
các ngân hàng, có chăng chỉ được thực hiện bởi các ngân hàng được giao các nhiệm vụ
trực tiếp giúp thúc đẩy kinh tế và giúp đỡ cá nhân, hộ gia đình nghèo.
2. Quy định về tài sản bảo đảm
Hiện nay, pháp luật Việt Nam mà cụ thể là khoản 7 Điều 3 và khoản 1 Điều 4
Nghị định 163/2006/ NĐ – CP về giao dịch bảo đảm đưa ra một định nghĩa khá hợp lí về
tài sản bảo đảm:
“Tài sản bảo đảm là tài sản mà bên bảo đảm dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ dân sự đối với bên nhận bảo đảm.
Tài sản bảo đảm do các bên thoả thuận và thuộc sở hữu của bên có nghĩa vụ
hoặc thuộc sở hữu của người thứ ba mà người này cam kết dùng tài sản đó để bảo đảm
10
thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ đối với bên có quyền. Tài sản bảo đảm có thể là
tài sản hiện có, tài sản hình thành trong tương lai và được phép giao dịch.”
Quy định về tài sản bảo đảm còn có thể thấy ở Điều 320 Bộ luật Dân sự 2005:
“Vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm và
được phép giao dịch.Vật dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là vật hiện có
hoặc được hình thành trong tương lai. Vật hình thành trong tương lai là động sản, bất
động sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa vụ được xác lập hoặc giao
dịch bảo đảm được giao kết.”
2.1. Điều kiện của tài sản bảo đảm
Trước đây, Nghị định số 178/1999/NĐ – CP quy định tài sản mà khách hàng vay,
bên bảo lãnh được cầm cố, thế chấp, bảo lãnh vay vốn tại các tổ chức tín dụng phải có

các điều kiện:
- Thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của khách hàng vay, bên bảo lãnh;
- Được phép giao dịch;
- Không có tranh chấp;
- Phải mua bảo hiểm trong thời hạn bảo đảm tiền vay đối với tài sản mà pháp
luật quy định phải mua bảo hiểm.
Thực tế, điều kiện về tài sản không có tranh chấp cũng như điều kiện về bảo hiểm
tài sản rất khó xác định vì không có văn bản nào hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục
xác nhận tài sản thuộc các trường hợp trên. Cho nên, tổ chức tín dụng và khách hàng
không biết làm gì và đề nghì cơ quan nào xác nhận điều kiện nói trên.
Xuất phát từ những khó khăn, vướng mắc trên Nghị định số 163/2006/NĐ – CP
đã không quy định về việc mua bảo hiểm đối với tài sản bảo đảm và tài sản không có
tranh chấp là điều kiện bắt buộc của tài sản bảo đảm. Mặc dù loại bỏ một số quy định
bất cập của Nghị định số 178/1999/NĐ – CP liên quan đến điều kiện của tài sản bảo
đảm, nhưng Nghị định số 163/2006/NĐ – CP không loại bỏ toàn bộ các điều kiện trên
mà vẫn giữ lại những điều kiện phù hợp với thực tế và quy định của Bộ luật Dân sự
2005. Theo đó, tài sản dùng để cầm cố, thế chấp để bảo đảm tiền vay phải là tài sản
thuộc quyền sở hữu của bên có nghĩa vụ hoặc bên thứ ba và được phép giao dịch. Do
vậy, các tổ chức tín dụng không phải mất thời gian đi tìm hiểu thực trạng tài sản có tranh
11
chấp hay không và tra cứu văn bản pháp luật về điều kiện bảo hiểm đối với tài sản bảo
đảm.
2.2. Giá trị tài sản bảo đảm
Xác định giá trị tài sản bảo đảm là một trong những nội dung cơ bản và quan
trọng trong chế định bảo đảm tiền vay. Trước đây, khi cho vay có bảo đảm bằng tài sản,
giá trị tài sản bảo đảm tiền vay luôn lớn hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm. Cho nên
nhiều trường hợp, mặc dù đã tìm kiếm được các dự án sản xuất, kinh doanh có hiệu quả,
khả thi nhưng vì khách hàng chưa đủ điều kiện vay bằng tín chấp và giá trị tài sản bảo
đảm chỉ bằng 2/3 hoặc thấp hơn số dự kiến vay, nên tổ chức tín dụng không thể cho vay
vốn với khách hàng đó. Thêm nữa, trong trường hợp thực hiện biện pháp bảo đảm bổ

sung bằng tài sản mà việc thế chấp, cầm cố tài sản phải được công chứng theo quy định
của pháp luật. Do đó, Nghị định số 163/2006/NĐ – CP đã không quy định về phạm vi
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự mà chỉ quy định phạm vi bảo đảm trong trường hợp
một số tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ. Cụ thể hóa, khoản 1
Điều 319 Bộ luật dân sự năm 2005: “Nghĩa vụ dân sự có thể được bảo đảm một phần
hoặc toàn bộ theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật; nếu không có thoả
thuận và pháp luật không quy định phạm vi bảo đảm thì nghĩa vụ coi như được bảo đảm
toàn bộ, kể cả nghĩa vụ trả lãi và bồi thường thiệt hại.” Nhờ có quy định trên mà tổ
chức tín dụng đã chủ động hơn trong việc cấp tín dụng cho khách hàng có bảo đảm tài
sản và khách hàng cũng có nhiều cơ hội hơn trong việc vay vốn ngân hàng để phát triển
sản xuất, kinh doanh khi giá trị bảo đảm thấp hơn vốn vay.
3. Quy định về giao dịch bảo đảm
3.1. Hiệu lực của giao dịch bảo đảm
Về nguyên tắc, hợp đồng bảo đảm được giao kết hợp pháp có hiệu lực kể từ thời
điểm giao kết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc các bên có thỏa thuận
khác. Nghị định số 163/2006/NĐ – CP quy định các trường hợp bắt buộc đăng kí giao
dịch bảo đảm gồm có: thế chấp quyền sử dụng đất, thế chấp quyền sử dụng rừng, thế
chấp tàu bay, tàu biển, thế chấp một tài sản để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ và các
trường hợp pháp luật có quy định khác.
3.2. Quy định về đăng kí giao dịch bảo đảm
12
Nghị định số 163/2006/NĐ – CP quy định các trường hợp bắt buộc đăng kí giao
dịch bảo đảm gồm có: thế chấp quyền sử dụng đất, thế chấp quyền sử dụng rừng, thế
chấp tàu bay, tàu biển, thế chấp một tài sản để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ và các
trường hợp pháp luật có quy định khác. Mục đích của công tác đăng kí giao dịch bảo
đảm là nhằm tạo ra sự chắc chắn và rõ ràng về mặt pháp lí để huy động các nguồn tài
chính cho sự phát triển kinh tế thông qua việc khuyến khích cho vay trên cơ sở người đi
vay cầm cố hoặc thế chấp tài sản mà không phải giao tài sản cho bên cấp tín dụng.
4. Quy định về xử lí tài sản bảo đảm
Quyền xử lí tài sản bảo đảm là quyền của bên nhận bảo đảm được tác động trực

tiếp tới vật, tiền, giấy tờ có giá hoặc quyền tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ. Quyền xử lí tài sản bảo đảm được xác lập thông qua hợp đồng bảo đảm có
hiệu lực ràng buộc giữa các bên kể từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực.
Theo quy định tại Điều 56 Nghị định số 163/2006/NĐ – CP thì quyền xử lí tài sản
có hiệu lực trên thực tế tại thời điểm phát sinh các căn cứ sau đây:
“Điều 56. Các trường hợp xử lý tài sản bảo đảm
1. Đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ.
2. Bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm trước thời hạn do vi phạm
nghĩa vụ theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật.
3. Pháp luật quy định tài sản bảo đảm phải được xử lý để bên bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ khác.
4. Các trường hợp khác do các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định.”
Ngoài ra, các bên có thể thỏa thuận các trường hợp khác mà quyền xử lí tài sản có
hiệu lực trên thực tế hoặc thỏa thuận về các điều kiện chi tiết hơn.
III.THỰC TẾ ÁP DỤNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ GIAO DỊCH BẢO
ĐẢM CHO HOẠT ĐỘNG CẤP TÍN DỤNG TRONG 9 THÁNG ĐẦU NĂM 2013
Ngân hàng nhà nước vừa công bố một số chỉ tiêu cơ bản về tình hình hoạt động
13
của hệ thống các TCTD tính đến 30/8/2013. Theo đó, so với thời điểm cuối tháng 7,
tổng tài sản có của hệ thống các TCTD đã tăng trở lại, dù vẫn còn thấp hơn thời điểm
cuối tháng 6. Đặc biệt, các chỉ số cho thấy, hệ thống các TCTD vẫn hoạt động an toàn,
hiệu quả.
Cụ thể, tính đến 30/8, tổng tài sản có của toàn hệ thống đã tăng thêm 35.201 tỷ
đồng so với thời điểm 31/7 lên 5.283.774 tỷ đồng. Tính chung, tổng tài sản có của hệ
thống các TCTD đã tăng 197.994 tỷ đồng (tương đương tăng 3,89%) so với cuối năm
2012.
Khối ngân hàng liên doanh vẫn dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng tổng tài sản là
10,68%. Đứng thứ hai là Ngân hàng Hợp tác xã với mức tăng 8,8%; Khối NHTM có
vốn Nhà nước vẫn đứng thứ ba khi tăng 5,43%. Tuy nhiên, nếu xếp theo quy mô tổng tài

sản thì khối NHTM Nhà nước vẫn đứng đầu với 2.321.302 tỷ đồng.
Tổng vốn tự có, vốn điều lệ của toàn hệ thống vẫn có bước tăng trưởng đều đặn.
Theo đó, tính đến 30/8 tổng vốn tự có của toàn hệ thống đạt 445.025 tỷ đồng, tăng 1.399
tỷ đồng so với cuối tháng 7 và tăng 19.043 tỷ đồng (tương đương tăng 4,47%) so với
cuối năm 2012.Trong đó, tổng vốn tự có của khối NHTM Nhà nước đạt 158.267 tỷ
đồng, tăng 15,30% so với cuối năm 2012. Tổng vốn tự có của khối NHTMCP chỉ tăng
nhẹ trong tháng 8, đạt 177.898 tỷ đồng nên tính chung vẫn giảm 2,86% so với cuối năm
2012.
Tổng vốn điều lệ của toàn hệ thống cũng tăng 3,97% so với cuối năm 2012, đạt
407.714 tỷ đồng. Trong đó, vốn điều lệ của khối NHTM Nhà nước đạt 123.442 tỷ đồng,
tăng 10,66%; khối NHTMCP đạt 180.533 tỷ đồng, tăng 1,64%; khối ngân hàng liên
doanh, nước ngoài đạt 76.915 tỷ đồng, tăng 1,02%.
Tại thời điểm cuối tháng 8, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của toàn hệ thống giảm nhẹ
so với cuối tháng trước xuống còn 13,66%. Nguyên nhân do tổng tài sản có đã tăng trở
lại.
Tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn của toàn hệ thống cũng tăng
lên 17,24% từ mức16,84% tại thời điểm cuối tháng 7. Tuy nhiên, tỷ lệ cấp tín dụng so
với nguồn vốn huy động lại giảm nhẹ về còn 87,42% từ mức 87,75% của tháng trước.
Điều đó cho thấy, tăng trưởng tín dụng vẫn gặp nhiều khó khăn.
14
IV. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO ĐẢM
TIỀN VAY TRONG HOẠT ĐỘNG CẤP TÍN DỤNG
Về đăng ký giao dịch bảo đảm: Trong giai đoạn hiện nay đã đến lúc cần thiết phải
ban hành luật về đăng ký giao dịch bảo đảm, Luật đăng ký giao dịch bảo đảm được ban
hành sẽ tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, đồng
thời tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch
bảo đảm, phục vụ tốt hơn các nhu cầu của khách hàng, cung cấp đầy đủ thông tin liên
quan đến giao dịch bảo đảm.
Về nâng cao chất lượng thông tin: Cần xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu giao dịch
bảo đảm thống nhất trên toàn quốc nhằm thực hiện tốt việc cung cấp thông tin và giao

dịch bảo đảm, Bộ Tư pháp, Ngân hàng Nhà nước, Tổng cục thống kê, Tổng cục địa
chính, cơ quan đăng ký GDBĐ phối hợp xây dựng kho dữ liệu tập trung, đồng thời,
hoàn thiện các quy định pháp luật điều chỉnh trong hoạt động quản lý, cung cấp, khai
thác và sử dụng hệ thống thông tin.
Về đăng ký quyền sở hữu tài sản: Xây dựng hoàn chỉnh quy định pháp luật về
đăng ký quyền sở hữu tài sản theo phương châm tài sản có chủ sở hữu hợp pháp. Để giải
quyết một cách có hiệu quả quyền sở hữu tài sản cần hệ thống hoá, ban hành thống nhất
dưới hình thức văn bản luật về đăng ký sở hữu tài sản, quy định rõ nội dung, trình tự, thủ
tục đăng ký quyền sở hữu tài sản của công dân, tổ chức kinh tế, quyền quản lý, sử dụng
tài sản nhà nước. Quyền sở hữu, quản lý, sử dụng tài sản phải được đăng ký khi mua
sắm mới, khi có sự thay đổi về quy mô tài sản, chuyển nhượng, chuyển đổi mục đích sử
dụng tài sản, thay đổi tên gọi DN, chia tách, sáp nhập hoặc thành lập mới.
Phát triển thị trường bất động sản đồng bộ, công khai, minh bạch: cần tiếp tục
hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về bất động sản bảo đảm đồng bộ, thống nhất, xây dựng
hoàn chỉnh khung pháp lý để dễ dàng chuyển bất động sản thành vốn đầu tư; công khai
hoá hoạt động kinh doanh bất động sản, tạo hành lang pháp lý để cho các tổ chức trung
gian hỗ trợ thị trường.
15
Xây dựng quy chế đạo đức đối với cán bộ ngân hàng, trang bị phương tiện cho
các tổ chức tín dụng.
KẾT THÚC VẤN ĐỀ
An toàn trong cho vay vừa là yêu cầu vừa là mục tiêu đối với hoạt động của các tổ
chức tín dụng. Trong hoạt động tín dụng, nguồn thu nợ khi cho vay chính là thu nhập từ
hoạt động sản xuất, kinh doanh của khách hàng. Tuy nhiên, rủi ro luôn tiềm ẩn. Để hạn
chế rủi ro các tổ chức tín dụng đã tiến hành áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay,
hình thức bảo đảm có thể là cho vay có bảo đảm bằng tài sản hoặc không có bảo đảm
bằng tài sản. Thông qua việc áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay giúp cho tổ chức
tín dụng hoạt động ổn định, lành mạnh, đảm bảo tăng trưởng về lợi nhuận và bảo đảm
quyền lợi của người gửi tiền.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân hàng Việt Nam, Nxb. CAND,
Hà Nội, 2010.
2. Luật ngân hàng nhà nước năm 2010.
3. Luật các tổ chức tín dụng năm 2010.
4. Nguyễn Văn Tuyến, Tìm hiểu luật ngân hàng (lí thuyết và thực hành), Nxb.
CAND, Hà Nội, 2000.
16
5. Phạm Thị Giang Thu, Nguyễn Ngọc Lương, “Một số ý kiến về hệ thống pháp luật
phòng ngừa rủi ro tín dụng của các tổ chức tín dụng và phương hướng khắc
phục”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 7/2010.
6. Nghị định số 163/2006/NĐ – CP
7. Nghị định số 178/1999/NĐ – CP
8. Luật Đất đai năm 2003
9. Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam năm 2011
10. Nghị định 83/2010 ngày 23/7/2010 về đăng ký giao dịch bảo đảm
11. Các Webside:
- Ngân hàng nhà nước Việt Nam - The State Bank of VietNam
- dktructuyenmoj.gov.vn
- tinmoi.vn
- worldbank.org/en/country/vietnam
17

×