Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Nguyên tắc ngân sách thăng bằng được hiểu như thế nào? Chứng minh nguyên tắc ngân sách thăng bằng đã thể hiện trong nhiều điều khoản của Luật Ngân sách nhà nước bằng cách phân tích nội dung những điều khoản đó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.2 KB, 18 trang )

MỞ ĐẦU
Cân đối ngân sách nhà nước là vấn đề rất quan trọng và cần thiết để Nhà
nước thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình. Nhưng để ngân sách nhà nước
được giữ ở mức cân đối và ổn định thì không đơn giản, vì nó phụ thuộc vào nhiều
yếu tố như: tình hình kinh tế, chính trị xã hội của mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam,
từ khi đất nước chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường, cùng với vai trò của Nhà
nước được nâng lên trong hoạt động kinh tế thì việc cân đối ngân sách nhà nước
ngày càng được chú trọng hơn. Nắm được tầm quan trọng của việc cân đối ngân
sách nhà nước trong sự nghiệp phát triển đất nước và ổn định xã hội, nước ta đã
đưa ra những chính sách và biện pháp để đảm bảo cho ngân sách nhà nước được
cân đối. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, em xin lựa chọn đề tài: “Nguyên tắc ngân
sách thăng bằng được hiểu như thế nào? Chứng minh nguyên tắc ngân sách
thăng bằng đã thể hiện trong nhiều điều khoản của Luật Ngân sách nhà nước
bằng cách phân tích nội dung những điều khoản đó” để nghiên cứu và tìm hiểu.

NỘI DUNG
I.NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC THĂNG BẰNG
1.Khái quát về ngân sách nhà nước
1.1.Khái niệm ngân sách nhà nước
- Định nghĩa ngân sách nhà nước xét trên góc độ kinh tế: Xét từ góc độ này,
ngân sách nhà nước là bản dự toán về các khoản thu và các khoản chi tiền tệ của
một quốc gia, được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định thực hiện trong
một khoản thời hạn nhất định, thường là một năm. Từ định nghĩa đó ta thấy có 2
yếu tố cơ bản trong ngân sách nhà nước:
Thứ nhất, ngân sách nhà nước phải là một bản dự toán thu và chi tiền tệ của
quốc gia. Do đó phải được quốc hội, với tư cách là đại diện cho nhân dân trong
quốc gia đó quyết định trước khi chính phủ đem ra thi hành trên thực tế. Bên cạnh
đó, trong quá trình thi hành ngân sách, chính phủ chịu sự giám sát của quốc hội và


bản quyết toán ngân sách hàng năm do chính phủ đệ trình khi năm ngân sách kết


thúc cũng cần được quốc hội phê chuẩn.
Thứ hai, ngân sách nhà nước có hiệu lực trong vòng một năm, tức là việc dự
toán thu, chi đã được đề ra phải hoàn thành trong năm ngân sách đó tính từ ngày
01/01đến ngày 31/12 hàng năm. Đây là khoản thời gian mà pháp luật quy định
nhằm giới hạn rõ việc thực hiện dự toán ngân sách nhà nước. Khoản thời gian này
có thể trùng hoặc không trùng với năm dương lịch tùy theo tập quán của mỗi nước.
Việc quy định rỏ thời gian này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của
ngân sách nhà nước, tránh sự tùy tiện, độc đoán của Nhà nước trong việc thu nộp
và chi tiêu ngân sách.
-Định nghĩa ngân sách nhà nước về phương diện pháp lý.
Khái niệm ngân sách nhà nước về phương diện pháp lý hàm chứa nhiều nội
dung chính trị - pháp lý quan trọng như mối tương quan quyền lực giữa cơ quan lập
pháp và cơ quan hành pháp trong việc thiết lập và thi hành ngân sách; thủ tục soạn
thảo, quyết định và chấp hành ngân sách cũng như sự phân chia giữa quyền lập
pháp và quyền hành pháp trong việc kiểm soát quá trình ngân sách.
Theo khoản 14 Điều 4 Luật ngân sách nhà nước năm 2015, khái niệm ngân
sách nhà nước được hiểu như sau: “Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu,
chi của Nhà nước được dự toán và thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định
do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định để bảo đảm thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của Nhà nước”.
Theo phương diện này, ngân sách nhà nước cũng không có nhiều khác biệt
so với phương diện kinh tế, nó đều nói về các khoản thu, chi do cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm. Khi tiếp cận ngân sách
nhà nước qua phương diện kinh tế, ta thấy đó là một bảng kế hoạch tài chính khổng
lồ của một quốc gia, trong đó dự liệu các khoản thu chi và tiền tệ trong một năm.
Còn ở phương diện pháp lý, ngân sách nhà nước được hiểu là một đạo luật đặc biệt
của mỗi quốc gia do Quốc hội ban hành và chính phủ thực hiện trong một thời hạn


xác định. Nhưng khác với những đạo luật thông thường, ngân sách nhà nước được

cơ quan lập pháp tạo ra theo trình tự thủ tục riêng và hiệu lực thi hành của đạo luật
này được xác định rỏ ràng là một năm.
1.2.Đặc điểm của ngân sách nhà nước
Từ những phân tích về khái niệm ngân sách nhà nước, có thể thấy ngân sách
nhà nước bao gồm những đặc điểm sau:
Thứ nhất, ngân sách nhà nước là một kế hoạch tài chính khổng lồ nhất cần
đươc quốc hội biểu quyết thông qua trước khi thi hành. Đặc điểm này cho ta thấy
việc thiết lập ngân sách nhà nước không chỉ là vấn đề kĩ thuật nghiệp vụ mà còn là
vấn đề mang tính kĩ thuật pháp lý, do đó nó vừa phản ánh các hành vi kinh tế (lập
dự trù các khoản thu, chi sẽ được thực hiện trong tương lai), vừa thể hiện các hành
vi pháp lý của chủ thể có thẩm quyền (cơ quan hành pháp có trách nhiệm lập dự
toán ngân sách và cơ quan lập pháp có thẩm quyền quyết định bản dự toán đó).
Thứ hai, ngân sách nhà nước không phải là một bản kế hoạch tài chính thuần
túy mà còn là một đạo luật. Theo thông lệ, sau khi bản dự toán ngân sách nhà nước
đã được soạn thảo bởi cơ quan hành pháp thì nó sẽ được chuyển sang cho cơ quan
lập pháp xem xét quyết định và ban bố dưới hình thức một đạo luật để thi hành.
Thứ ba, ngân sách nhà nước là kế hoạch tài chính của toàn quốc gia, được
trao cho chính phủ tổ chức thực hiện nhưng phải đặt dưới sự giám sát của quốc hội.
Việc thiết lập quyền giám sát của quốc hội đối với hoạt động thi hành ngân sách
của chính phủ nhằm kiểm soát nguy cơ lạm quyền của cơ quan hành pháp trong
quá trình thực thi ngân sách nhà nước.
Thứ tư, ngân sách nhà nước được thiết lập và thực thi hoàn toàn vì mục tiêu
mưu cầu lợi ích chung cho toàn thể quốc gia, không phân biệt người hưởng thụ các
lợi ích đó là ai, thuộc thành phần kinh tế nào hay đẳng cấp nào trong xã hội.
Thứ năm, ngân sách nhà nước luôn phản ánh mối tương quan giữa quyền lập
pháp và quyền hành pháp trong quá trình xây dựng và thực hiện ngân sách. Theo
đó, cơ quan lập pháp ban hành ra ngân sách nhà nước dựa trên sự xây dựng của


chính phủ, sau đó chính phủ là người trực tiếp thi hành bản ngân sách này dưới sự

giám sát của cơ quan lập pháp.
2. Khái quát về ngân sách nhà nước thăng bằng
2.1.Khái niệm ngân sách nhà nước thăng bằng
Có nhiều quan điểm khác nhau về sự thăng bằng ngân sách. Triết lí cổ điển
về sự thăng bằng của ngân sách nhà nước bắt đầu từ một quan niệm kế toán, theo
đó tất cả các khoản chi trong tài khoản ngân sách đề phải cân bằng với tất cả các
khoản thu có trong tài khoản ngân sách (nói cách khác, tổng số thu phải cân bằng
với tổng số chi trong năm ngân sách). Theo quan điểm này, sự thăng bằng ngân
sách gần như được bảo đảm một cách hoàn hảo vì trên thực tế tổng số thu và tổng
số chi của ngân sách nhà nước bao giờ cũng được cân bằng ngay từ khi lập kế
hoạch dự toán. Tuy nhiên, sự so sánh giữa tổng thu và tổng chi ngân sách hàng năm
để đánh giá về sự thăng bằng của ngân sách đó dường như không được khách quan
và chính xác, bởi lẽ trong nhiều trường hợp những khoản thu mang tính chất hoa
lợi không đủ để trang trải những khoản thu mang tính chất phí tổn, mặc dù xét tổng
thể thì tổng số thu và tổng số chi vẫn cân bằng.
Do đó, các nhà tài chính học đương đại đã đưa ra quan điểm mới về sự thăng
bằng ngân sách nhà nước, họ cho rằng sự thăng bằng ngân sách không hoàn toàn
đồng nghĩa với sự cân bằng giữa tổng thu và tổng chi mà thực chất là sự cân bằng
giữa tổng thu hoa lợi (trong đó chủ yếu là thuế) với tổng chi có tính chất phí tổn.
Từ quan điểm này có thể hiểu là, nếu tổng các khoản thu có tính chất hoa lợi lớn
hơn tổng các khoản chi có tính chất phí tổn thì khi đó ngân sách nhà nước sẽ có
thặng dư (bội thu ngân sách); ngược lại, nếu tổng các khoản thu có tính chất hoa lợi
nhỏ hơn các khoản thu có tính chất phí tổn thì ngân sách sẽ lâm vào tình trạng thâm
hụt (bội chi ngân sách). Trên thực tế, quan điểm này đã được thừa nhận ở nhiều
quốc gia trên thế giới và đồng thời cũng được ghi nhận trong Luật ngân sách nhà
nước hiện hành ở Việt Nam. Cụ thể, khoản 2 Điều 7 Luật ngân sách nhà nước quy
định: “Ngân sách nhà nước được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí,


lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích lũy ngày càng cao để

chi đầu tư phát triển; trường hợp còn bội chi thì số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu
tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách; trường hợp đặc biệt Chính phủ
trình Quốc hội xem xét, quyết định. Trường hợp bội thu ngân sách thì được sử dụng
để trả nợ gốc và lãi các khoản vay của ngân sách nhà nước”.
Như vậy, ngân sách cân bằng không chỉ đơn thuần là sự cân bằng về số
lượng biểu hiện qua các con số giữa tổng thu và tổng chi, mà nó còn biểu hiện qua
các khía cạnh khác nhau. Tựu trung lại ta có thể hiểu: ngân sách nhà nước cân bằng
là một bộ phận quan trọng của chính sách tài khóa, phản ánh sự điều chỉnh mối
quan hệ tương tác giữa thu và chi ngân sách nhà nước nhằm thực hiện các mục tiêu
kinh tế xã hội mà Nhà nước đã đề ra trong từng lĩnh vực và địa bàn cụ thể.
2.2.Đặc điểm của ngân sách nhà nước thăng bằng
Từ quan niệm về thăng bằng ngân sách nhà nước, có thể suy ra một số những
đặc điểm sau:
Thứ nhất, ngân sách thăng bằng phản ánh mối quan hệ tương tác giữa thu và
chi ngân sách nhà nước trong năm ngân sách nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra.
Nó vừa là công cụ thực hiện các mục tiêu kinh tế chiến lược kinh tế - xã hội của
Nhà nước, đồng thời các chỉ tiêu kinh tế-xã hội này cũng quyết định sự hình thành
về thu, chi ngân sách nhà nước.
Thứ hai, ngân sách nhà nước thăng bằng là cân đối giữa tổng thu và tổng chi,
giữa các khoản thu và các khoản chi, cân đối về phân bổ và chuyển giao nguồn lực
giữa các cấp trong hệ thống ngân sách nhà nước, đồng thời kiểm soát được tình
trạng ngân sách nhà nước đặc biệt là tình trạng bội chi ngân sách nhà nước. Bên
cạnh đó, cần phân bổ nguồn thu cho hợp lý để đảm bảo sự ổn định về kinh tế-xã hội
giữa các địa phương. Mặt khác, nếu ngân sách không cân bằng mà rơi vào tình
trạng bội chi thì cần đưa ra những giải quyết kịp thời để ổn định lại ngân sách nhà
nước.


Thứ ba, cân đối ngân sách nhà nước mang tính định lượng và tính tiên liệu.
Trong quá trình cân đốingân sách nhà nước, người quản lý phải xác định các con số

thu, chi ngân sách nhà nước so với tình hình thu nhập trong nước, chi tiết hóa từng
khoản thu, chi nhằm đưa ra cơ chế sử dụng và quản lý nguồn thu phù hợp với hoạt
động chi, từ đó để làm cơ sở phân bổ và chuyển giao nguồn lực giữa các cấp ngân
sách.
2.3.Vai trò của ngân sách nhà nước thăng bằng
Thứ nhất, ngân sách nhà nước thăng bằng góp phần ổn định kinh tế vĩ mô.
Nhà nước thực hiện cân đối ngân sách nhà nước thông qua chính sách thuế, chính
sách chi tiêu hàng năm và quyết định mức bội chi cụ thể nên có nhiều tác động đến
hoạt động kinh tế cũng như cáncân thương mại quốc tế. Từ đó góp phần ổn định
việc thực các mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô như: Tăng trưởng mức thu
nhập bình quân trong nền kinh tế, giảm tỷ lệ thất nghiệp,…
Thứ hai, ngân sách thăng bằng góp phần phân bổ, sử dụng nguồn lực tài
chính có hiệu quả, để đảm bảo được vai trò này ngay từ khi lập dự toán Nhà nước
đã lựa chọn trình tự ưu tiên hợp lý trong phân bổ ngân sách nhà nước và sự gắn kết
chặt chẽ giữa chiến lược phát triển kinh tế-xã hội với công tác lập kế hoạch ngân
sách.
Thứ ba, cân đối ngân sách nhà nước góp phần đảm bảo công bằng xã hội,
giảm thiểu sự bất bình đẳng giữa các địa phương. Nước ta với mỗi một vùng lại có
một điều kiện kinh tế-xã hội khác nhau, có những vùng điều kiện kinh tế-xã hội rất
khó khăn làm ảnh hưởng đến thu nhập và chất lượng cuộc sống của người dân, có
những vùng điều kiện kinh tế-xã hội thuận lợi, phát triển làm cho thu nhập và cuộc
sống của người dân được nâng lên, vì vậy, Nhà nước có thể huy động nguồn lực từ
những người có thu nhập cao, những vùng có kinh tế phát triển để hỗ trợ, giúp đỡ
những người nghèo có thu nhập thấp và những vùng kinh tế kém phát triển.
Thứ tư, ngân sách nhà nước thăng bằng còn tạo ra nguồn dự trữ ngân sách
nhà nước cho những nhiệm vụ chi phát sinh đột xuất trong quá trình thực hiện


nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Do đó, chúng ta sẽ không phải
hoãn các kế hoạch để chờ nguồn thu cụ thể, mà sử dụng ngay nguồn dự trữ sẵn có,

góp phần làm hoàn thành công việc nhanh chóng và ổn định kinh tế - xã hội một
cách lâu dài.
II.SỰ THỂ HIỆN CỦA NGUYÊN TẮC THĂNG BẰNG TRONG LUẬT
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 2015
1.Quy định chung về nguyên tắc ngân sách thăng bằng trong Luật ngân sách
nhà nước năm 2015
Nguyên tắc ngân sách thăng bằng được ghi nhận rõ nét nhất trong Luật ngân
sách nhà nước năm 2015 hiện hành ở Việt Nam tại Điều 7 như sau:
“1. Các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác theo quy định
của pháp luật được tổng hợp đầy đủ vào cân đối ngân sách nhà nước, theo nguyên
tắc không gắn với nhiệm vụ chi cụ thể. Trường hợp có khoản thu cần gắn với nhiệm
vụ chi cụ thể theo quy định của pháp luật thì được bố trí tương ứng từ các khoản
thu này trong dự toán chi ngân sách để thực hiện. Việc ban hành chính sách thu
ngân sách phải bảo đảm nguyên tắc cân đối ngân sách trong trung hạn, dài hạn và
thực hiện các cam kết về hội nhập quốc tế.
2. Ngân sách nhà nước được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí,
lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích lũy ngày càng cao để
chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách”.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 5 Luật ngân sách nhà nước năm 2015, các
khoản thu ngân sách nhà nước bao gồm nhiều loại, trong đó có thu tư thế, lệ phí,
các khoản phí thu từ hoạt động dịch vụ do đơn vị sự nghiệp công lập và nghiệp nhà
nước thực hiện nộp ngân sách nhà nước… Trong đó, có thể hiểu:
-Thuế là khoản thu nộp mang tính bắt buộc mà các tổ chức hoặc cá nhân phải
nộp cho nhà nước khi có đủ những điều kiện nhất định. Thu từ thuế là nguồn thu
chiếm tỉ trọng của yếu trong tổng thu ngân sách nhà nước, không chỉ của Việt Nam
mà còn ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Điều này được lí giải bởi thuế đánh vào


hầu hết các hoạt động thường ngày: từ sản xuất, chế tạo, sửa chữa, chế biến, khai
thác, xây dựng, vận tải, xuất – nhập khẩu, buôn bán, ăn uống, dịch vụ đến những

hoạt động tiêu dùng xã hội; thuế đánh vào cả các khoản thu nhập thường xuyên và
vãng lai của những người có thu nhập cao.
- Lệ phí là khoản tiền được ấn định mà tổ chức, cá nhân phải nộp khi được
cơ quan nhà nước cung cấp dịch vụ công, phục vụ công việc quản lý nhà nước
được quy định trong Danh mục lệ phí ban hành kèm theo Luật phí và lệ phí. Chỉ có
những chủ thể cũng cấp dịch vụ gắn với chức năng quản lí nhà nước mới được
phép thu lệ phí, vì vậy, khoản thu từ lệ phí được tập trung vào quỹ ngân sách nhà
nước. Chỉ những chủ thể có sử dụng một dịch vụ nào đó do tổ chức hay cơ quan
nhà nước cung ứng mới phải nộp lệ phí.
- Phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải trả nhằm cơ bản bù đắp chi phí
và mang tính phục vụ khi được cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập và tổ
chức được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao cung cấp dịch vụ công được quy
định trong Danh mục phí ban hành kèm theo Luật phí và lệ phí. Về nguyên tắc,
khoản thu từ phí và lệ phí được đặt ra là để giúp nhà nước thu hồi lại một phần chi
phí đã bỏ ra cho việc cung cấp những hàng hóa và dịch vụ công cho xã hội. Các
khoản thu này thực chất là giá cả của hàng hóa và dịch vụ công cộng được đem trao
đổi giữa nhà nước và các tổ chức, cá nhân trong quá trình sản xuất và trong đời
sống, mặc dù giá này trên thực tế không phản ánh đúng giá trị của các hàng hóa và
dịch vụ công cộng mà nhà nước đã đáp ứng theo nhu cầu của toàn xã hội.
Cũng theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Luật ngân sách nhà nước năm 2015,
các khoản chi ngân sách nhà nước gồm nhiều loại, bao gồm chi thường xuyên và
chi đầu tư phát triển,… Trong đó:
- Chi thường xuyên là những khoản chi của ngân sách nhà nước nhằm đảm
bảo hoạt động của bộ mày nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, hỗ
trợ hoạt động của các tổ chức khác và thực hiện các nhiệm vụ chi thường xuyên của
nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng.


- Chi đầu tư phát triển là quá trình phân phối và sử dụng quỹ ngân sách nhà
nước để đầu tư cơ sở hạ tầng, kinh tế xã hội, phát triển sản xuất và sự trữ vật tư

hàng hóa của nhà nước nhằm thực hiện mục tiêu ổn định tăng trưởng vĩ mô và thúc
đầy phát triển kinh tế xã hội.
Theo nguyên tắc trên, tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi
thường xuyên và góp phần tích lũy ngày càng cao vào chi đầu tư và phát triển,
trường hợp còn bội chi thì số bội chi phải nhỏ hơn chi đầu tư phát triển, tiến tới cân
bằng thu chi ngân sách. Nội dung này của nguyên tắc cân đối đã phân định ranh rới
giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên, thể hiện sự thận trọng trong chính
sách tài khóa của Việt Nam. Theo đó, các khoản thu thường xuyên được sử dụng để
trang trải chi thường xuyên và một phần thu thường xuyên cùng với thu bù đắp
được sử dụng để chi đầu tư phát triển, trong đó chi đầu tư phát triển được chú trọng
hơn vì nó có thể làm tăng khả năng thu hồi vốn cho ngân sách nhà nước nhưng phải
đảm bảo được sự cân đối giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên, bởi lẽ giữa
chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau trong chỉ tiêu công của Nhà nước. Chi đầu
tư phát triển là hoạt động cần thiết đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của một
quốc gia, nó tạo ra những điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết cho nền kinh
tế, cũng từ đó kéo theo sự phát triển của nhiều lĩnh vực khác và đảm bảo các vấn đề
xã hội của đất nước, giúp nhà nước thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình.
Theo khoản 3 Điều 7 Luật ngân sách nhà nước năm 2015: “Vay bù đắp bội
chi ngân sách nhà nước chỉ được sử dụng cho đầu tư phát triển, không sử dụng
cho chi thường xuyên”.
Bội chi ngân sách nhà nước bao gồm bội chi ngân sách trung ương và bội chi
ngân sách địa phương cấp tỉnh. Bội chi ngân sách trung ương được xác định bằng
chênh lệch lớn hơn giữa tổng chi ngân sách trung ương không bao gồm chi trả nợ
gốc và tổng thu ngân sách trung ương. Bội chi ngân sách địa phương cấp tỉnh là
tổng hợp bội chi ngân sách cấp tỉnh của từng địa phương, được xác định bằng
chênh lệch lớn hơn giữa tổng chi ngân sách cấp tỉnh không bao gồm chi trả nợ gốc


và tổng thu ngân sách cấp tỉnh của từng địa phương (theo khoản 1 Điều 4 Luật
ngân sách nhà nước năm 2015).

Trong thời buổi kinh tế thị trường như hiện nay, tình trạng bội chi ngân sách
là nước là không thể tránh khỏi đối với nền kinh tế của bất kỳ quốc gia nào, tuy
nhiên điều này không đồng nghĩa với sự biểu hiện của một nền kinh tế yếu kem, mà
còn là một trong các cách thức tạo ra sự cân đối của hoạt động ngân sách nhà nước
trong dài hạn, đảm bảo cho nền kinh tế- xã hội phát triển và ổn định. Khi xảy ra
tình trạng bội chi ngân sách nhà nước thì sẽ được bù đặp bằng các khoản vay trong
nước và ngoài nước. Tuy nhiên, việc vay bù đắp bội chi ngân sách nhà nước cần
đáp ứng nguyên tắc chỉ được sử dụng cho chi đầu tư phát triển mà không được
dùng cho chi thường xuyên. Nguyên tắc vay bù đắp bội chi nên dành cho mục đích
phát triển và đảm bảo bố trí ngân sách để chủ động trả hết nợ khi đến hạn là rất cần
thiết để đảm bảo ngân sách nhà nước được cân đối, tận dụng được nguồn vốn vay
một cách có hiệu quả. Chi cho tiêu dùng là hoạt động chi không mang tính chất thu
hồi vốn và không tạo ra thặng dư, do đó nguồn vay bù đắp bội chi chỉ được để dành
cho mục đích phát triển.
Khoản 5 và 6 Điều 7, Luật ngân sách nhà nước năm 2015 có quy định về
“bội chi ngân sách địa phương” và “mức dư nợ vay của ngân sách địa phương”.
Lần đầu tiên Luật ngân sách nhà nước mới quy định bội chi ngân sách địa phương
là một cấu phần trong bội chi ngân sách nhà nước. Nói cách khác, bội chi ngân sách
nhà nước bao gồm bội chi ngân sách trung ương và bội chi ngân sách địa phương.
Đây là điểm mới quan trọng để tăng cường kiểm soát bội chi ngân sách nhà nước.
Nguồn bù đắp bội chi ngân sách địa phương được bù đắp bằng các nguồn vay trong
nước từ phát hành trái phiếu chính quyền địa phương, vay lại từ nguồn Chính phủ
vay về cho vay lại và các khoản vay trong nước khác theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, để được bội chi thì ngân sách địa phương cần đáp ứng đượcnhững điều
kiện cụ thể do Chính phủ quy định để đảm bảo phù hợp với khả năng trả nợ của địa
phương và tổng mức bội chi chung của ngân sách nhà nước. Quy định này tạo cho


chính quyền địa phương có được nhiều ưu thế hơn trong công việc quyết định ngân
sách cấp mình. Vấn đề cho phép cấp tỉnh vay nợ trong một giới hạn nhất định là rất

cần thiết. Nó giúp cho chính quyền địa phương có thể chủ động hơn trong việc tạo
ra những điều kiện về cơ sở vật chất hạ tầng để phát triển kinh tế và bảo đảm các
vấn đề xã hội của địa phương mình.
Ngoài những nội dung trên đây thì nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân
sách nhà nước cũng được thể hiện ở chỗ: Phải dựa trên hệ thống các nguyên tắc lập
ngân sách và quản lý chi tiêu công. Cụ thể về tính tổng thể và tính kỷ luật tài chính
đó là, để kiểm soát được các nguồn tài chính có hiệu quả, yêu cầu trong cân đối của
hoạt động ngân sách Nhà nước phải đánh giá đúng nguồn lực tài chính đó và lựa
chọn những công cụ thích hợp nhất để phân bố nguồn lực nhằm đạt được mục tiêu
ngân sách đề ra. Điều này có nghĩa là: khi cân đối trong hoạt động ngân sách nhà
nước thì những quyết định về chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên cần phải
được gắn kết với nhau, trong chi tiêu ngân sách nhà nước cần tập trung chi vào
những khoản cần thiết nhất, chi tiêu tiết kiệm tránh lãng phí để thực hiện tốt các
chiến lược mà chính phủ đề ra.
2. Quy đinh về nguyên tắc ngân sách thăng bằng khi lập dự toán ngân sách
Lập dự toán ngân sách nhà nước là khâu đầu tiên và là giai đoạn khởi đầu
trong một quá trình ngân sách ở mỗi một quốc gia. Đây là việc xác định các khoản
thu chi có giá trị pháp lí cho các chủ thể trong hệ thống ngân sách. Lập dự toán
ngân sách nhà nước bao gồm xây dựng dự toán (phân tích, đánh giá khả năng thu,
chi, dự trữ ngân sách, đồng thời đề ra các biện pháp lớn nhằm thực hiện các chỉ tiêu
trong dự toán ngân sách nhà nước đã được soạn thảo) và quyết định dự toán. Bản
dự toán ngân sách tuy được diễn tả bằng các con số nhưng đằng sau đó là chương
trình hoạt động của quốc gia trong giai đoạn nhất định. Người ta chỉ có thể dự tính
được con số chi, số thu sẽ thực hiện trong năm khi biết rõ Chính phủ muốn làm gì
và làm như thế nào, quy mô, mức độ ra sao? Với ý nghĩa quan trọng đối với việc ổn
định nền kinh tế, xã hội của cả một quốc gia như vậy, việc lập dự toán ngân sách


nhà nước đòi hỏi phải tiến hành theo quy trình, thủ tục chặt chẽ. Đặc biệt, các
khoản thu, chi luôn luôn đòi hỏi phải có sự cân bằng. Nếu như ngay từ bước đầu là

lập dự toán ngân sách nhà nước đã có sự chênh lệch thì chắc chắn khi thực hiện sẽ
dẫn tới tình trạng mất cân bằng, mà thường thấy nhất đó là sự thâm hụt ngân sách,
bội chi ngân sách,…Điều này sẽ gây sức ép rất lớn đối với nền kinh tế nước nhà.
Luật ngân sách nhà nước năm 2015 đã quy định cụ thể về việc lập dự toán
ngân sách nhà nước, từ Điều 41 đến Điều 48. Theo đó, nguyên tắc ngân sách thăng
bằng được thể hiện rõ trong căn cứ và yêu cầu lập dự toán ngân sách nhà nước.
Với căn cứ lập dự toán ngân sách nhà nước, nguyên tắc ngân sách thăng
bằng được thể hiện ở một số điểm như:
-Việc lập dự toán ngân sách nhà nước cần dựa vào “Nhiệm vụ phát triển kinh
tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại, bình đẳng giới” (khoản 1
Điều 41), Mỗi vùng trên đất nước ta có điều kiện tự nhiên cũng như điều kiện về
kinh tế - xã hội không giống nhau như về vị trí địa lý, dân số theo vùng lãnh thổ,
khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, trình độ phát triển… Do đó, việc lập dự tóan ngân
sách cần phải dựa trên những điều kiện để tránh tình trạng có khoản thu chi không
phù hợp với tình hình thực tế, dẫn đến thâm hụt ngân sách hoặc bội chi ngân sách.
-Bên cạnh đó, lập dự tóan ngân sách cần dựa vào “Phân cấp nguồn thu,
nhiệm vụ chi ngân sách tỷ lệ phần trăm (%) phân chia đối với các khoản thu phân
chia và mức bổ sung cân đối ngân sách ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới”
(khoản Điều 41). Quy định này nhằm đảm bào hài hòa, cân bằng giữa ngân sách
cấp trên và ngân sách cấp dưới, tạo sự chủ động cho ngân sách cấp dưới, không phụ
thuộc, ỷ lại vào ngân sách cấp trên, đồng thời sử dụng có hiệu quả nguồn ngân sách
nhà nước.
-Ngoài ra, cần dựa vào “Kế hoạch tài chính 05 năm, kế hoạch tài chính ngân sách nhà nước 03 năm, kế hoạch đầu tư trung hạn nguồn ngân sách nhà nước”
(khoản 6 Điều41). Việc lập dự toán ngân sách cần dựa vào kế hoạch tài chính, kế


hoạch đầu tư nhằm tạo thống định hướng phát triển đất nước, góp phần phát triển
kinh tế - xã hội bền vững.
Với yêu cầu lập dự toán ngân sách, nguyên tắc ngân sách thăng thể sau:
-Dự toán ngân sách nhà nước phải tổng hợp theo khoản thu, chi và theo cơ

cấu chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên, chi dự trữ quốc gia, chi trả nợ viện trợ,
chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính, dự phòng ngân sách.
Dự toán ngân sách của đơn vị dự toán ngân sách các cấp được lập phải thể
đầy đủ khoản thu, chi theo biểu mẫu, thời hạn do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quy định
Với việc quy định cụ thể về căn cứ, yêu cầu lập dự tốn ngân sách nhà nước,
có thể thấy, nguyên tắc cân đối ngân sách luôn đảm bảo hoạt động lập dự toán. Bởi
lẽ, nó mang tính định hướng cho cả một nền kinh tế quốc gia. Do đó, nguyên tắc
này không thể bị phá bỏ.
3. Quy định về nguyên tắc ngân sách thăng bằng trong hoạt động chấp hành
ngân sách
Chấp hành ngân sách là quá trình thực hiện dự toán ngân sách nhà nước sau
khi được các cơ quan có thẩm quyền thông qua theo những trật tự, nguyên tắc luật
định. Nói cách khác, chấp hành ngân sách nhà nước thực chất là việc thực hiện hóa
các chỉ tiêu tiêu tài chính về thu, chi ngân sách nhà nước đã được ghi trong dự toán
ngân sách hàng năm. Theo đó, chấp hành ngân sách nhà nước bao gồm triển khai
dự toán; chấp hành thu; chấp hành chi và xử lí những thay đổi dự của toán ngân
sách so với thực tế thực hiện trong năm ngân sách. Trong đó, nguyên tắc ngân sách
thăng bằng thể hiện rõ nét nhất trong việc chấp hành thu và chi ngân sách nhà
nước; xử lí những thay đổi của dự toán ngân sách so với thực tế thực hiện.
Trong việc chấp hành thu, chi ngân sách nhà nước (quy định Điều 55 và Điều
56 Luật ngân sách nhà nước năm 2015). Chấp hành thu, chi ngân sách nhà nước
được hiểu là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành các hoạt
động thu, chi trên thực tế. Tất cả các hoạt động này đều phải thực theo quy định của


pháp luật về ngân sách nhà nước. Đặc biệt, điều kiện chi ngân sách nhà nước được
quy định tại khoản 2 Điều 12 Luật ngân sách nhà nước năm 2015. Theo đó, phải
đảm bảo các khoản chi đó phải có trong dự toán, phải chi theo đúng chế độ, định
mức, điều kiện của từng khoản chi và phải được thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân

sách quyết định chi. Như vậy, ngay từ điều kiện đầu tiên, chi ngân sách nhà nước
phải đảm bảo theo đúng dự toán đã đề ra, điều này một mặt giúp đảm bảo các
nguồn thu cho ngân sách nhà nước là đúng pháp luật, mặt khác tránh được tình
trạng lạm thu do sự tùy tiện của chủ thể có thẩm quyền. Do đó, nếu thực hiện theo
đúng dự toán ngân sách, thì luôn đạt được trạng thái ngân sách cân bằng; sẽ không
có tình trạng thâm hụt ngân sách.
Trong việc xử lí những thay đổi của dự toán ngân sách so với thực tế thực
hiện. Dự toán ngân sách chỉ mang tính chất dự liệu, do đó, trạng thái cân bằng giữa
thu và chi thật khó có thể được đảm bảo một cách tối đa. Bởi lẽ, nền tài chính của
quốc gia luôn chịu sự chi phối, tác động của rất nhiều yếu tố khác nhau. Cho nên
việc xảy chênh lệch giữa các con số trong dự toán và trên thực tế là khó có thể
tránh khỏi. Từ đó, để đảm bảo ngân sách nhà nước luôn được trong trạng thái thăng
bằng, ổn định, cần cần có những biện pháp xử lí nhất định. Điều 58, 59 Luật ngân
sách nhà nước năm 2015 quy định về “xử lí thiếu hụt tạm thời quỹ ngân sách nhà
nước”; “xử lí tăng, giảm thu, chi so với dự toán trong quá trình chấp hành ngân
sách nhà nước”. Các biện pháp xử lí này mặc dù chỉ mang tính chất tạm thời hay
lâu dài thì đều góp phần đưa ngân sách nhà nước trở lại trạng thái cân bằng, hạn
chế tối đa sự chênh lệch giữa thu và chi trong ngân sách nhà nước.
4. Sự thể hiện của nguyên tắc ngân sách thăng bằng trong một số điều luật khác
Sự thể nguyên tắc ngân sách thăng bằng trong hoạt động kế toán, quyết toán
ngân sách nhà nước (Điều 63 Luật ngân sách nhà nước năm 2015). Ngay từ khâu
lập dự toán ngân sách nhà nước phải đảm bảo cân đối giữa thu và chi; trong quá
trình chấp hành ngân sách cũng thường xuyên phải ý tới việc thiết lập lại quan hệ
cân đối thu, chi bằng các biện pháp hữu hiệu; quá trình quyết toán ngân sách nhà


nước cũng phải chỉ rõ được các yếu tố giúp cho thu, chi ngân sách nhà nước cân
đối được trong thời gian qua và những kinh nghiệm tích luỹ được trong điều hành
cân đối ngân sách nhà nước. Qua quyết toán ngân sách nhà nước có thể đánh giá
tình trạng lạm thu hoặc tình trạng mất cân đối với các khoản chi, đồng thời xác

định nguyên nhân trong trường hợp có sự mất cân đối giữa các khoản thu chi trong
quá trình thực hiện ngân sách.
Sự thể hiện của nguyên tắc ngân sách thăng bằng trong hoạt động xử lí thu,
chi ngân sách nhà nước cuối năm (Điều 64 Luật ngân sách nhà nước năm 2015).
Theo quy định tại Điều 64, sẽ có những khoản chi được chuyển nguồn sang năm
sau để thực hiện và hạch toán, quyết toán vào ngân sách năm sau, đó là: Chi đầu tư
phát triển thực hiện chuyển nguồn sang năm sau theo quy định của Luật đầu tư
công; Chi mua sắm trang thiết bị đã đầy đủ hồ sơ, hợp đồng mua sắm trang thiết bị
ký trước ngày 31 tháng 12 năm thực hiện dự toán;… những quy định này nhằm xử
lý những trường hợp những khoản ngân sách chi chưa hết năm tài chính, góp phần
tạo cân bằng giữa thu và chi trong một năm.
Sự thể hiện của nguyên tắc ngân sách thăng bằng trong việc bổ sung, cân đối
ngân sách địa phương (khoản 8 Điều 9Luật ngân sách nhà nước năm 2015). Theo
đó, sau mỗi thời kỳ ổn định ngân sách, các địa phương phải tăng khả tự cân đối,
phát triển ngân sách địa phương, thực hiện giảm dần tỷ lệ bổ sung cân đối từ ngân
sách cấp trên so với tổng chi ngân sách địa phương hoặc tăng tỷ lệ phần trăm (%)
nộp về ngân sách cấp trên đối với các khoản thu phân chia giữa các cấp ngân sách
để tăng nguồn lực cho ngân sách cấp trên thực các nhiệm vụ chi quốc gia phát triển
đồng đều giữa các địa phương.
III. Một số phương hướng nhằm phát huy vai trò của nguyên tắc cân đối
(nguyên tắc ngân sách thăng bằng) trong hoạt động ngân sách nhà nước ở Việt
Nam
Một là, để có thể phát huy nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà
nước ở Việt Nam thì điều quan trọng nhất là các cơ quan có thẩm quyền phải tiến


hành hướng dẫn cụ thể nguyên tắc này thông qua việc ban hành những văn bản
pháp luật thuộc thẩm quyền của mình để cho các cơ quan trực tiếp thực hiện thu,
chi ngân sách nhà nước ở trung ương và địa phương hiểu đúng bản chất từ đó áp
dụng đúng và hợp lý nguyên tắc này trong hoạt động của mình thì mới thu được sự

cân đối trong ngân sách nhà nước.
Hai là, do nguyên tắc này rất khó khi áp dụng vào thực tiễn thu, chi ngân
sách nhà nước trong hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền thực hiện thu, chi
ngân sách nhà nước mà năng lực của một số cán bộ, công chức trực tiếp thực hiện
nhiệm vụ này còn có những hạn chế nhất định. Do vậy, để nguyên tắc này thật sự
phát huy được vai trò của nó thì cần phải tiếp tục nâng cao năng lực của cán bộ,
công chức thông qua những lớp tổ chức nghiên cứu về nguyên tắc cân đối để cho
cán bộ, công chức thật sự hiểu bản chất của nó và tiến hành áp dụng trong thực tế
nguyên tắc này thật sự phù hợp với bản chất của nguyên tắc nhằm thu được kết quả
cân đối tốt nhất.
Ba là, “cần tăng cường rà soát, cắt giảm những khoản chi tiêu ngân sách nhà
nước chưa thật cần thiết và kém hiệu quả, từ đó có sự chuyển đổi linh hoạt trong
chi tiêu ngân sách nhà nước để không làm mất cân đối ngân sách nhà nước, không
lãng phí nguồn thu ngân sách nhà nước vào những hoạt động chi không cần thiết,
không hiệu quả. Nhà nước phải kiểm soát chặt chẽ ngay từ khâu vay vốn để bù đắp
bội chi và sử dụng cho đầu tư phát triển, duy trì mức bội chi cho phép hàng năm do
Quốc hội quyết định. Bên cạnh đó, Nhà nước cần tạo điều kiện cho người dân tham
gia giám sát, theo dõi quá trình thực hiện nhiệm vụ ngân sách của các cấp, các
ngành bằng cách Nhà nước phải cung cấp những thông tin chính xác, đầy đủ và kịp
thời cho người dân biết qua các phương tiện truyền thanh, báo chí. Có sự phối hợp,
giám sát chặt chẽ này giữa Nhà nước và nhân dân sẽ góp phần thúc đẩy tính minh
bạch và trách nhiệm của người sử dụng và quản lý ngân sách nhà nước”. Từ đó,


nguyên tắc cân đối sẽ được tuân thủ triệt để làm cho ngân sách nhà nước thật sự đạt
được cân bằng, ổn định.
Bốn là, muốn phát huy được vai trò của nguyên tắc cân đối thì một điểm nữa
cần phải chú trọng là cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải tiếp tục nghiên cứu về
nguyên tắc này để có những sửa đổi, bổ sung nguyên tắc này trong luật phù hợp với
những biến động của hoạt động ngân sách ở Việt Nam nhằm giúp nguyên tắc này

không lạc hậu so với những biến động của hoạt động ngân sách nhà nước mà luôn
kiểm soát tốt hoạt động thu, chi ngân sách nhà nước thông qua việc áp dụng nguyên
tắc cân đối của các cơ quan có thẩm quyền trong lĩnh vực thu, chi ngân sách nhà
nước..v.v…

KẾT LUẬN
Qua phần phân tích trên cho thấy rằng, nguyên tắc thăng bằng đóng một vai
trò quan trọng đặc biệt đối với hoạt động ngân sách của nước ta. Nhờ việc áp dụng
nguyên tắc cân đối mà trong những năm qua hoạt động thu, chi ngân sách nhà nước
ở Việt Nam đã luôn giữ được ổn định, nguồn dự trữ ngân sách không bị thâm hụt
nhờ việc chúng ta chủ động dự toán được nguồn thu cụ thể sẽ đầu tư chi cho nhiệm
vụ cụ thể nên mức bội chi luôn được kiểm soát. Mặc dù chịu sự tác động từ những
cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính của những nền kinh tế thế giới nhưng do chúng
ta cân đối được ngân sách cho nên những vấn đề phát sinh từ những cuộc khủng
hoảng đó luôn được kiểm soát mà nguồn ngân sách nhà nước không bị thâm hụt do
chi để khắc phục những vấn đề này. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được
cũng còn một số hạn chế xuất phát từ bản chất của nguyên tắc này cho nên chúng ta
phải áp dụng một số biện pháp trên nhằm tiếp tục phát huy vai trò của nguyên tắc
cân đối để đạt được một nền tài chính vững mạnh, ổn định, để giải quyết tốt nhất
các mục tiêu kinh tế- xã hội đặt ra trước đất nước.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.

Luật Ngân sách nhà nước măm 2015;
Giáo trình Luật ngân sách nhà nước, trường Đại học Luật Hà Nội, nxb

3.


CAND, Hà Nội – 2017;
Cân đối ngân sách nhà nước – thực trạng và hướng hoàn thiện. Người thực
hiện: Quách Hồng Thơ. Giáo viên hướng dẫn: Lê Huỳnh Phương Chinh

4.

-www.tailieu.vn;
Cân đối ngân sách nhà nước - đảm bảo ổn định nền tài chính quốc gia – báo

5.

Nhân Dân;
Thánh thức trong cân đối ngân sách nhà Nước – báo Nhân Dân;



×